Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bài Thề nguyền trích Truyện Kiều của Nguyễn Du mang đến bài văn mẫu siêu hay. Qua đó giúp các bạn học sinh lớp 11 có thêm nhiều nguồn tư liệu tham khảo củng cố kiến thức rèn kỹ năng viết văn ngày một tốt hơn.
Cảm nhận Thề nguyền giúp chúng ta thấy được khát khao về tình yêu tự do của Thúy Kiều, người con gái xinh đẹp, tài hoa nhưng bạc mệnh.Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là tình yêu trong sáng, thủy chung, vượt lên trên lễ giáo phong kiến. Bên cạnh đó các bạn xem thêm rất nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 11 Cánh diều.
Cảm nhận bài thơ Thề nguyền
“Truyện Kiều”không chỉ là một kiệt tác vĩ đại của nền văn học Việt Nam mà còn là thi phẩm được biết đến trên toàn thế giới. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, những nhân vật như Thúy Kiều, Kim Trọng, Hoạn Thư,… trở nên vô cùng chân thật, sống động và làm thổn thức trái tim của biết bao thế hệ độc giả. Cả tác phẩm dài 3254 câu, mỗi phân đoạn lại có một cái hay riêng và đoạn trích “Thề nguyền” được đánh giá là đoạn thể hiện rõ nét nhất mối tình Kim – Kiều tuyệt đẹp. Đây cũng là đoạn trích cho thấy tài năng đỉnh cao của Nguyễn Du trong việc tả cảnh, tả tình.
Đoạn trích “Thề nguyền” là một cột mốc rất quan trọng trong tác phẩm. Sau khi được Đạm Tiên báo mộng, Kiều luôn cảm thấy bất an, lo lắng khi nghĩ đến tương lai, đến tình yêu của mình. Nàng băn khoăn tự hỏi:
“Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?”
Nhưng, cuộc tái ngộ Kim Trọng đã thổi vào lòng nàng sức sống và niềm tin mới. Nó thôi thúc nàng chủ động nắm bắt tình yêu, số phận của bản thân. Nghe tin gia đình tối đó không về, Kiều quyết định sang nhà Kim Trọng. Bậc tài tử giai nhân tỏ lòng cùng nhau và sau đó cùng nhau hẹn ước.
Mở đầu đoạn trích là cảnh Thúy Kiều “rủ rèm the”, băng lối sang nhà chàng Kim tình tự:
“Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
Một tường tuyết chở sương che
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.”
Những bước chân nhanh nhẹn, đầy can đảm và chủ động ấy như đang từng bước đạp đổ xiềng xích của lễ giáo phong kiến trói buộc người phụ nữ bấy lâu nay. Quả thật trong xã hội phong kiến xưa, hủ tục trói buộc con người, nó dường như tạo nên một bức tường ngăn cách tự do, ngăn cách tình yêu đôi lứa, nhưng Kiều một cô gái có trái tim bồng bột ngây thơ, với sự táo bạo, chủ động trong tình yêu, đã tự mình ước hẹn, thề nguyền mà không cần sự cho phép của cha mẹ. Điều đó cho thấy trong Kiều luôn hiện hữu khao khát về một tình yêu tự do, nàng đang tự tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình.
“Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu!
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê”
Từ thực tại bước vào ảo mộng, từ nơi cỏ cây vườn tược, nàng bước đi để lại sau lưng vườn khuya để đến với người yêu cũng là lúc bước vào cõi mộng tình yêu. Cả hai tầng ánh sáng cũng soi rọi bước chân nàng, ánh đèn hòa cùng ánh trăng, dường như ánh trăng tạo nên chất thơ dẫn dắt tình cảm của Kiều đến đúng nơi cần đến. Còn đối với Kim Trọng sự xuất hiện của Kiều như một giấc mộng, với trạng thái chập chờn giấc ngủ, đường ranh giới mơ thật mỏng manh, không còn được phân định rõ ràng. Nhưng khi nhận ra , chàng lại thấy hạnh phúc, bâng khuâng trước sự xuất hiện đột ngột của tình nhân, xáo trộn không gian nơi căn nhà. Nhìn Thúy Kiều đẹp mờ ảo:
“Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần”
Khung cảnh Thúy Kiều và Kim trọng gặp nhau cũng được Nguyễn Du mô tả hết sức thơ mộng, lãng mạn với hình ảnh “trăng xế”, “hoa lê”.Bóng Kiều hiện ra thật đẹp, vẫn trạng thái mộng thực đan xen lẫn lộn. Bóng người và bóng trăng như hòa làm một. Vừa gần mà lại xa, tưởng chừng trong tầm tay mà lại khó nắm bắt. Cả hình ảnh và âm thanh đều rất mơ hồ bởi những bước chân của nàng Kiều quá đỗi khẽ khàng, chỉ như một cơn gió thoảng qua. Chàng Kim đang thiu thiu ngủ, nửa tỉnh nửa mê nghe tiếng động “tiếng sen khẽ động giấc hòe”. Nhà thơ Nguyễn Du sử dụng hình ảnh “tiếng sen” để miêu tả bước chân của Thúy Kiều, gợi cho người đọc liên tưởng đến những bước chân hết sức nhẹ nhàng, uyển chuyển đến mức chỉ “khẽ động giấc hòe”.
Trong khung cảnh thi vị ấy, lòng người cũng đầy bâng khuâng:
“Bâng khuâng đỉnh giáp non thần,
Còn nhờ giấc mộng đêm xuân mơ”
Giấc mộng đêm xuân hay còn là giấc mơ của tình yêu có thật. Để nói về sự xúc động bâng khuâng của chàng Kim khi nhìn thấy Thúy Kiều, nhà thơ đã sử dụng điển cố của Trung Quốc, đó là điển tích “đỉnh giáp non thần”, kể về việc vua nước Sở ngủ nằm mơ thấy nữ thần núi Vu Giáp khiến chàng Kim như tỉnh như mê, còn tưởng “giấc mộng đêm xuân mơ màng”.
Trước những ngỡ ngàng, hạnh phúc của Kim Trọng, Kiều giãi bày lí do nàng chủ động sang nhà chàng:
“Nàng rằng: khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đây rồi nữa chẳng là chiêm bao”
“Khoảng vắng đêm trường” là không gian thời gian tâm lí bởi vì Kim Trọng trọ học ở ngay gần nhà Kiều mà Kiều sang gặp Kim Trọng đúng sau ngày thanh minh vậy mà cảm giác như đã xa nhau một khoảng thời gian lâu lắm rồi. Kiều thể hiện nỗi nhớ niềm thương qua chữ “hoa”, tình yêu sâu sắc của nàng dành cho Kim Trọng. Nhưng Kiều luôn chịu sự ám ảnh về tình yêu và số phận sau cuộc gặp gỡ hữu duyên ở mộ Đạm Tiên, nàng có dự cảm về một tương lai bất hạnh chia lìa. Nàng Kiều là một người con gái nhạy cảm lại đang ở mối tình trong sáng, quấn quýt thì nỗi lo lắng về sự xa cách luôn luôn thường trực.Qua đó thể hiện quan niệm của nàng, phá vỡ những hủ tục lạc hậu trong xã hội phong kiến, tìm sự chủ động trong tình yêu và trân trọng nó.
Không gian đêm thề nguyền được gợi lên đầy ấn tượng với ánh sáng, màu sắc, hương thơm,… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời không bao giờ phai mờ trong tâm hồn Kiều. Dưới ánh trăng sáng, trong không gian đầy thi vị, Kim – Kiều đã bắt đầu nghi thức thề nguyền:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.”
Đã bao lần trăng hiện diện trong cuộc đời Kiều, nhưng có lẽ chỉ có đêm trăng thề nguyền này là tròn đầy, viên mãn nhất. Nó sáng trong vằng vặc giữa trời như lời ghi nhận của thiên nhiên tạo vật trước tình yêu của đôi trẻ. Ánh sáng ấy như lớp màng bảo vệ tình yêu khỏi những tì vết, bụi bặm đời thực; nó khắc hình ảnh đêm thề nguyền vào cuộc đời hai con người như một dấu ấn, một minh chứng cho tình yêu vĩnh hằng.
Ta có thể thấy, mục đích của cuộc gặp gỡ bất ngờ này không phải đơn thuần là cho thỏa nỗi nhớ nhung của đôi lứa mà còn nhằm mục đích thiêng liêng hơn, đó là lời thề nguyền, minh chứng tình yêu của chàng và nàng. Đây là một cuộc thề nguyền vụng trộm nhưng lại được Nguyễn Du miêu tả một cách trang trọng, thiêng liêng trong không gian ấm áp. Trong hoàn cảnh ấy, lời thề trở thành một sợi dây vô hình gắn kết hai trái tim.
Qua đoạn trích “Thề nguyền”, Nguyễn Du đã xây dựng một khung cảnh tuyệt đẹp đó là đêm trăng tình yêu, vầng trăng ước hẹn để từ đó thể hiện khát khao về tình yêu tự do của Thúy Kiều, người con gái xinh đẹp, tài hoa nhưng bạc mệnh.Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là tình yêu trong sáng, thủy chung, vượt lên trên lễ giáo phong kiến. Chính những điều này đã làm tăng thêm tính hấp dẫn và giá trị nhân văn cho đoạn trích “Thề nguyền” nói riêng và tác phẩm “Truyện Kiều” nói chung.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bài Thề nguyền của Nguyễn Du Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.