Bạn đang xem bài viết ✅ Văn mẫu lớp 11: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu 2 Dàn ý & 8 bài bức tranh mùa xuân trong Vội vàng ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Phân tích bức tranh mùa xuân trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu gồm 8 mẫu mà Wikihoc.com giới thiệu dưới đây sẽ là tư liệu cực kì hữu ích với các bạn học sinh lớp 11. Với 8 mẫu bức tranh thiên nhiên trong Vội vàng giúp các bạn nắm được các luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch.

Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, căng tràn sức sống mà nhà thơ Xuân Diệu khắc hoạ trong bài thơ Vội vàng đã cho ta thấy được một tâm hồn yêu đời, yêu người nồng cháy. Vậy dưới đây là 8 bài văn mẫu bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng, mời các bạn cùng tải tại đây.

Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng

  • Dàn ý bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng
  • Bức tranh mùa xuân trong bài thơ Vội vàng 
  • Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng 

Dàn ý bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng

Dàn ý số 1

1. Mở bài

Giới thiệu về bài thơ Vội vàng và vấn đề cần phân tích

Xem thêm: Mở bài Vội vàng

2. Thân bài

a. Thiên nhiên đất trời đã dâng tặng cho con người một bàn tiệc xuân đầy thịnh soạn với bao hương sắc, bao thanh âm tuyệt diệu:

  • Cỏ xanh, hoa thơm nơi đồng nội ngát hương, lá non phất phơ trên nhành cây trồng gió nhẹ.
  • Từng đàn ong bướm nối đuôi nhau đi ngắm nhìn hoa cỏ mùa xuân, vươn mình trên những nhành hoa xinh đẹp hút mật, ăn sâu
  • Khúc nhạc xuân đầy hứng khởi, mê say của những chàng yến anh

=> Vạn vật đều có linh hồn riêng, vận động và tỏa sáng theo cách riêng.

b. Cảm xúc của nhân vật trước thiên nhiên tuyệt diệu:

  • “Tháng giêng ” ngon” tựa cặp môi gần → sự say đắm trước thiên nhiên gợi cảm, duyên dáng.
  • Khát khao chiếm hữu mùa xuân cho thỏa nỗi niềm mê say.

3. Kết bài

Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ

Dàn ý số 2

1. Mở bài

Giới thiệu về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu.

2. Thân bài

– Thiên nhiên trong “Vội vàng” mang một vẻ đẹp tươi mới, căng tràn sức sống:

  • Vẻ đẹp ấy khiến nhà thơ có những ước muốn táo bạo, ngông cuồng để lưu giữ lại tất cả hương sắc mùa xuân.
  • Bức tranh mùa xuân hiện lên sinh động với đầy đủ âm thanh, ánh sáng, màu sắc.
  • Vạn vật giao hòa, kết đôi làm nên bức tranh thiên nhiên tràn đầy xuân tình.
  • Vẻ đẹp của mùa xuân được so sánh với “cặp môi gần” của người thiếu nữ thể hiện sự quyến rũ, hấp dẫn của thiên nhiên.

– Vẻ đẹp non tơ, mơn mởn của mùa xuân khiến Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian:

  • Ông “sung sướng” nhưng cũng “vội vàng”, bâng khuâng thương nhớ mùa xuân bởi thời gian tuyến tính một chiều không quay trở lại.
  • Ông muốn “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn” vào xuân hồng để níu giữ mùa xuân ở lại mãi bên mình.

3. Kết bài

Cảm nhận của bản thân về vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên trong bài thơ.

Bức tranh mùa xuân trong bài thơ Vội vàng

Bài làm mẫu 1

Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng vô tận trong sáng tác nghệ thuật. Tình yêu thiên nhiên được nhiều thi sĩ bày tỏ trong những tác phẩm của mình. Xuân Diệu cũng là một nhà thơ có niềm yêu thích và luôn tận hưởng những vẻ đẹp của thiên nhiên. Đối với ông vẻ đẹp ấy nó không phải một nơi xa, hiếm gặp mà nó hiện hữu ở ngay xung quanh, một thiên đường trên mặt đất nhất là vào mùa xuân. Trong tác phẩm Vội Vàng, tác giả đã khắc họa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, căng tràn sức sống và tạo được nhiều cung bậc cảm xúc cho người đọc.

Mở đầu cho bức tranh thiên nhiên chính là ước muốn táo bạo của người thi sĩ khi đứng trước thiên nhiên tươi đẹp:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Xuân Diệu muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để níu giữ lấy vẻ đẹp, hương sắc của cuộc sống. Thiên nhiên nào đâu dễ nắm giữ như vậy nên có thể nói đây chính là khao khát mãnh liệt và và có phần ngông cuồng của ông. Vẻ đẹp của tự nhiên vốn mong manh, ngắn ngủi nên người thi sĩ muốn kéo dài, vĩnh cửu vẻ đẹp ấy. Vậy vẻ đẹp ấy như thế nào mà khiến Xuân Diệu bộc lộ khao khát như vậy? Điều đó được tác giả miêu tả ngay trong bảy câu thơ tiếp theo:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Đoạn thơ là niềm vui sướng của tác giả khi tìm thấy một thiên đường trên mặt đất. Thi sĩ đã sử dụng nhiều giác quan, nhiều góc độ để có thể cảm nhận được hết vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân. Điệp ngữ “này đây” được tác giả lặp lại năm lần gia tăng sự rộn ràng, reo vui khi chứng kiến cảnh đẹp. Nào là ong bướm của tuần tháng mật, đồng nội xanh rì với hoa lá, của yến anh… để thấy được vẻ đẹp muôn màu của thiên nhiên. Lúc này tất cả giác quan của người thi sĩ đều căng ra để đón nhận. Qua lời thân của ông thiên nhiên tưởng chừng như bình thường lại để người đọc thấy được dáng vẻ cuộn trào sức sống, kiêu hãnh nhất. Không chỉ dừng lại ở thiên nhiên, cảnh vật nhà thơ Xuân Diệu là người lấy con người làm trung tâm của cảnh vật. Chính vì thế ông đã khéo léo lồng ghép hình ảnh con người vào giữa bức tranh mà ông đang khắc hoạ: “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”. Bức tranh thiên nhiên như được bao trùm lên ánh sáng rực rỡ, ấm áp của mùa xuân. Một vẻ đẹp tình tứ, lãng mạn khiến cho tâm hồn cũng trở nên tươi sáng. Với Xuân Diệu mỗi ngày được thức dậy, ngắm nhìn và thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống chính là niềm vui sướng.

Như đã nói Xuân Diệu yêu thiên nhiên nhưng con người vẫn là trung tâm. Ông đã dùng con người làm thước đo của cảnh vật chứ không giống như những thi sĩ xưa kia dùng vẻ đẹp thiên nhiên làm tiêu chuẩn của cái đẹp. Chính lẽ đó, tác giả đã đưa ra một lời nhận xét, so sánh đầy táo bạo: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Chữ “ngon” đã cho thấy tác giả đã có bước chuyển đổi cảm giác một cách tài tình. Ông đã đưa một khái niệm về thời gian vốn trừu tượng là “tháng giêng” trở thành một hình ảnh cụ thể, đầy gợi cảm “một cặp môi gần”. Ấy vậy mà lời thơ của ông vẫn cho thấy sự gần gũi, trong sáng và trẻ trung. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa tâm hồn và thể xác trong tình yêu đang độ chín muồi, thăng hoa của cảm xúc. Tuy đang hạnh phúc dâng trào và vào lúc tươi đẹp nhất của cuộc sống nhưng nhà thơ đã có những trăn trở, lo âu về sự phai tàn xuân sắc, sự ngắn ngủi của đời người:

“Tôi sung sướng, nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Qua bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, căng tràn sức sống mà nhà thơ Xuân Diệu khắc hoạ trong bài thơ Vội vàng ta thấy được một tâm hồn yêu đời, yêu người nồng cháy. Tác giả đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật nhạy bén, một triết lý nhân sinh sâu sắc về cuộc sống, một quan điểm sống tích cực, hiện đại.

Bài làm mẫu 2

Mùa xuân vốn là một đề tài bất tận của thi ca, nhạc, họa. Đến với một đề tài đã quen thuộc mà thể hiện thành công, đó là dấu hiệu của tài năng bởi nhà thơ tài năng phải là người “Tìm được tiếng nói mới cho một đề tài đã cũ”. Vâng. Mùa xuân là một đề tài “đã cũ”. Nhưng xuân trong “Vội vàng” của Xuân Diệu lại không bao giờ cũ.

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Động lực nào xui khiến lòng thi nhân để từng cung bậc khát vọng mãnh liệt đến ngông cuồng được tấu lên cho bản nhạc tình yêu cuộc sống.

Khát vọng muốn đoạt quyền của tạo hóa, khát vọng muốn níu giữ màu sắc, hương vị của tự nhiên là một khát vọng đẹp và đáng trân trọng. Trong khi nhiều nhà thơ mới muốn thoát ly cuộc sống thì Xuân Diệu, ngược lại, cứ ở trong đời, bám riết lấy trần thế, níu cuộc sống mà chống lại thời gian với lời nguyện ước:

Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn,
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa đưới đất.

Nhà nghiên cứu – phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh gọi đó là “Niềm khát khao giao cảm với đời”. Cuộc đời này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường ở ngay trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian:

Của ong bướm này đây tuần trăng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Thì ra, Xuân Diệu muốn níu giữ thời gian là để giữ những hương sắc này, những hương sắc của mùa xuân như một bức tranh phong cảnh vừa đẹp, vừa hấp dẫn, vừa chan chứa xuân tình. Những hình ảnh: hoa, cỏ, ong bướm, yến anh; những sắc màu xanh non của cành tơ, xanh rì của đồng nội…kết hợp với âm thanh “khúc tình si” của đôi yến anh; với sự vận động của “cành tơ phơ phất”, với ánh sáng mặt trời như thiếu nữ chớp hàng mi…tạo nên một bức tranh xuân diễm lệ, mơ màng, dịu dàng đầy sức sống. Sức sống ấy được tạo bởi tất cả những đặc điểm của sắc màu, âm thanh, đường nét, ánh sáng và còn được tô đậm bởi một hình ảnh so sánh độc đáo, táo bạo mà có lẽ trước Xuân Diệu, trong thơ Việt Nam chưa ai thể hiện cái cảm giác “ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Các nhà thơ hiện đại đều coi con người là chuẩn mực cho vẻ đẹp của tự nhiên nhưng có lẽ chỉ với riêng Xuân Diệu thì đó phải là người con gái ở giữa độ tuổi trẻ trung, xuân sắc. Câu thơ khiến người đọc thấy tháng giêng mơn mởn tơ non, đầy ắp một sức sống thanh tân quyến rũ như lời mời gọi.

Nhịp điệu của khổ thơ tươi vui, dồn dập, những từ ngữ “của”, “này đây”…được nhắc lại nhiều lần đã diễn tả đầy đủ niềm hân hoan, niềm hạnh phúc dạt dào của tác giả trước cảnh đẹp mùa xuân đầy sức sống. Nếu mùa xuân trong thơ cổ thường gắn với những hình ảnh ước lệ thì ở đây, Xuân Diệu đã quan sát và miêu tả những hình ảnh của cuộc sống thực. Cảnh sắc mùa xuân đã đẹp lại được khúc xạ qua tâm hồn trẻ trung của XuânDiệu nên càng tăng phần hấp dẫn.

Càng say đắm trước cảnh đẹp của mùa xuân tưởng rằng con người càng sung sướng. Nhưng sung sướng có thể tận độ mà chẳng thể vô biên. Bằng cảm xúc, Xuân Diệu say đắm mùa xuân nhưng bằng lý trí, thi sĩ lại nhận ra rằng mùa xuân không thể tồn tại vĩnh viễn cũng như nhan sắc người con gái có thì. Bởi thế mà đang hào hứng, đang say sưa, giọng thơ bỗng chuyển đổi sang hờn giận vì lo sợ:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Khác với con người thời trung đại quan niệm thời gian tuần hoàn với chu kỳ bốn mùa. Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính; thời gian như một dòng chảy mà mỗi giây phút trôi qua là mất đi vĩnh viễn:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !

Vì tất cả những lẽ đó mà “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa” và không chỉ tác giả sợ thời gian trôi, đến cả không gian cũng lo sợ, cũng tiếc nuối, cũng sụt sùi trước một cuộc chia ly sẽ diễn ra:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Tức là, lý trí mách bảo rằng con người sẽ không thể cản được bước đi của thời gian. Bởi thế, chỉ có một cách duy nhất là phải tranh thủ tận hưởng vẻ đẹp hiện có của mùa xuân:

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Yêu xuân, đắm xuân, ngợi ca xuân thì không chỉ riêng Xuân Diệu nhưng cái cách thể hiện tình yêu và khát vọng tận hưởng vẻ đẹp mùa xuân như thế này thì chỉ riêng Xuân Diệu mới có.

Một khổ thơ ngắn gọn nhưng tần số xuất hiện của động từ lại rất cao. Phải chăng Xuân Diệu quan niệm đó mới là cách thức thể hiện rõ nhất sự vồ vập, say đắm, thiết tha của một bầu cảm xúc mãnh liệt. Ta như nghe thấy được cả nhịp đập vội vàng của con tim thi sĩ. Sự kết hợp của những động từ với điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi, lặp lại nhiều lần tạo một giọng thơ hối hả, gấp gáp, thể hiện một khát vọng sống mãnh liệt trong tuổi xuân và tình yêu. Thi sĩ muốn mở rộng vòng tay ôm cả hình ảnh của mây, của gió, của non nước, cỏ cây, cả hương thơm, cả ánh sáng…tức là cả bữa tiệc trần gian hết sức quyến rũ đối với thi sĩ luôn nồng nàn, tha thiết trong cảm xúc của tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Đó quả là một sự cuồng nhiệt từ ham muốn đến hành động.

Đứng trước một mùa xuân mới, đọc “Vội vàng” của Xuân Diệu, hẳn nhịp tơ lòng của mỗi độc giả cũng ngân lên một điệu ngân nga mới để dược sống lại với những cảm xúc trong “Vội vàng”, tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên mùa xuân mà thi nhân đã ban tặng cho đời qua thi phẩm.

Bài làm mẫu 3

Xuân Diệu nhà thơ của tình yêu, của tuổi trẻ. Vần thơ nào của ông cũng thấm đẫm lòng yêu, lòng thiết tha với cuộc sống. Đó là cuộc sống tươi non mơn mởn của thiên nhiên vạn vật. Vội vàng tuy chỉ có dung lượng khá nhỏ đề cập đến khung cảnh thiên nhiên, nhưng chỉ cần như vậy thôi ta cũng nắm bắt được trọn vẹn tinh thần, lòng yêu cuộc sống của ông.

Tham khảo thêm:   Cách làm món thịt heo rừng xào sa tế thơm ngon, khó cưỡng

Viết về thiên nhiên, vốn là đề tài vô cùng quen thuộc trong thơ ca Việt Nam và thế giới. Đó là nơi để con người ta trải lòng, trải tâm sự, là nơi để nương tựa, giãi bày hay là để bày tỏ những quan điểm tư tưởng về cuộc sống. Xuân Diệu cũng không nằm ngoài quy luật chung ấy, ông để lại những câu thơ hay, đẹp đẽ về thiên nhiên:

Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng mảnh

(Đây mùa thu tới)

Và đến Vội vàng ông đã phác họa bức tranh thiên nhiên mởn mơn sức sống, tràn đầy tình xuân.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Bằng thủ pháp điệp cấu trúc “Của … này đây” “này đây … của…” và thủ pháp liệt kê Xuân Diệu đã phơi bày trước mặt người đọc bàn tiệc mùa xuân vô cùng thịnh soạn, ăm ắp hương vị, màu sắc. Phải chăng Xuân Diệu đã căng mở mọi giác quan của mình để cảm nhận đầy đủ và trọn vẹn nhất vẻ đẹp của thiên nhiên vạn vật trong trời đất. Thiên nhiên ấy có màu xanh tươi non, mỡ màng của cỏ (đồng nội xanh rì), có những đàn ong từng đôi, từng đôi nối đuôi nhau trong ngày tháng đầy mật ngọt. Đâu chỉ có vậy, thiên nhiên còn ngập tràn ánh sáng, với khúc tình si vang vọng khắp nơi. Các sự vật hiện tượng đều đang ở độ viên mãn, căng đầy sức sống nhất, trăm hoa đua nở, khoe sắc trước trời đất, không chỉ màu sắc mà còn là âm thanh của khúc tình si. Tình si là gì? Đâu chỉ là tình yêu đôi lứa, mà còn là lòng yêu cuộc đời, muốn hòa nhập, tận hưởng trọn vẹn cuộc đời. Xuân Diệu đã tạo nên một bức tranh mùa xuân hài hòa tuyệt đối.

Thoạt đầu, tưởng rằng thiên nhiên đó phải ngự ở nơi tiên giới, nhưng nhìn lại mới thấy rằng chúng đều là những sự vật, hiện tượng hết sức quen thuộc, gần gũi trong cuộc sống của chúng ta, là ong, bướm, đồng nội, là ánh sáng của thiên nhiên. Khổ thơ như một lời khẳng định của Xuân Diệu, một quan điểm nhân sinh mới mẻ, tiên cảnh không ở đâu xa, mà chính ở ngay đây, khung cảnh này, hương thơm hoa cỏ này. Chàng trai hai hai tuổi bằng đôi mắt tràn đầy tình yêu, xanh non và biếc rờn hối hả, gấp gáp mở rộng tấm lòng để nắm bắt trọn vẹn từng khoảnh khắc của thiên nhiên.

Không chỉ là quan niệm mới mẻ, khẳng định vẻ đẹp ở nơi trần thế, bằng vốn ngôn từ khéo léo và tinh tế, Xuân Diệu còn gửi gắm đến người đọc một quan niệm nhân sinh khác: “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi” “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Xuân Diệu đã đi ngược lại với quan điểm mỹ học trung đại – lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cái đẹp, còn với Xuân Diệu, không phải thiên nhiên, mà con người mới là chuẩn mực của mọi cái đẹp trong cuộc sống. Ánh sáng ban mai như cái chớp mắt của người con gái, khiến biết bao người say đắm. Lối so sánh độc đáo, tháng giêng “ngon” như cặp môi người thiếu nữ, đã giúp người đọc hình dung một cách cụ thể vẻ đẹp của thiên nhiên. Đó là thiên nhiên không chỉ ứ đầy sức sống và còn là thiên nhiên căng tràn tình xuân, tình yêu (ong bướm, tuần tháng mật).

Bằng vốn ngôn từ hết sức phong phú đa dạng, cách sử dụng ngôn ngữ rất Tây Xuân Diệu đã vẽ nên bức tranh khung cảnh xuân tình tuyệt đẹp. Qua bức tranh ấy ta còn thấy được những quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu về cuộc đời và con người: con người là trung tâm, là vẻ đẹp của chuẩn mực; cuộc sống đẹp tươi luôn tồn tại gần gũi bên cạnh ta. Đó là những quan điểm hết sức tiến bộ.

Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng

Bài làm mẫu 1

Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho mình một lẽ sống: sống để yêu và tôn thờ Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và bằng việc “hăm hở” làm thơ tình! Nhắc đến Xuân Diệu, sẽ thật là thiếu sót nếu không kể tên “Vội vàng”, “Đây mùa thu tới”, và “Thơ duyên” trong tuyển tập “Thơ thơ” – đứa con đầu lòng mà “ông hoàng thơ tình” đã ban tặng cho nhân gian. Như một cái chạm tay khẽ nhẹ vào tâm hồn những người yêu thơ, thơ Xuân Diệu nhẹ nhàng và tinh tế như chính tác giả của nó, để lại trong tâm hồn người đọc một ấn tượng đậm nết và thật khó phôi pha về sự phóng túng, giàu có mà hết sức tinh tế trong đời sống nội tâm, tâm của hồn của cái “TÔI” trữ tình Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu như một khúc tình si say đắm ngọt ngào…thật đến từng hơi thở!

Những vẻ đẹp của mùa xuân đâu chỉ của riêng Xuân Diệu. Từ nghìn năm trước, các bậc tiền bối đã có những vần thơ tràn trề về tình yêu đối với mùa xuân và cuộc sống. Nhưng yêu đến mức có những ham muốn táo bạo và khác thường như Xuân Diệu, đó là điều thật mới mẻ, thật mãnh liệt. Đặc biệt là cái cách nói của nhà thơ. Trong thơ ca trung đại, nét nổi bật là tính phi ngã, cái tôi trữ tình thường ẩn náu sau những hình tượng thiên nhiên. Trong khi đó, Xuân Diệu bộc lộ ý thức về cái tôi trữ tình thật táo bạo:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”

Nói Xuân Diệu là một nhà thơ mới, quả không sai! Nếu như trong thơ ca của những thi sĩ lãng mạn ngày xưa, thiên đường là chốn bồng lai tiên cảnh, là nơi mây gió trăng hoa, thì trong quan niệm thơ của Xuân Diệu, cuộc sống trần gian mới thực là nơi hạnh phúc nhất, là nơi xinh đẹp và căng mọng nhựa sống nhất! Thơ lãng mạn của ông luôn có một niềm say mê ngoại giới, khác giới, một niềm khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống mãnh liệt đến tràn đầy. Dường như lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông đã biến cái ham muốn “tắt nắng”, “buộc gió” trở nên quá táo bạo, đến độ lo âu trước sự thay đổi của đất trời, cảnh vật…muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả thiên nhiên với vẻ đẹp vốn có của nó. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ,đảo ngược quy luật tự nhiên, phải chăng là ông đang muốn đoạt quyền tạo hóa. Nhưng trong cái phi lí đó, vẫn có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn yêu cuộc sống. Với ông, sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kỳ diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận như một thiên đường trên mặt đất, một bữa tiệc lớn của trần gian. Nhà thơ đã cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong “Vội vàng” vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khêu gợi.

Có ai đó đã nói rằng: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mây trời thanh sắc”:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.”

Đó là niềm vui sướng của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra 1 thiên đường trên mặt đất.Nếu thơ xưa, các nhà thơ chỉ sử dụng thính giác và thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các thi sĩ thời Thơ mới lại huy động tất cả các giác quan từ nhiều góc độ để cảm nhân vẻ đẹp và sự quyến rũ đắm say hồn người của cảnh vật và đất trời lúc xuân sang. Trong đoạn thơ, điệp ngữ “này đây” được sử dụng 5 lần kết hợp với lối liệt kê khiến nhịp thơ trở nên dồn dập, là một sự chỉ trỏ ngơ ngác, ngạc nhiên, lạ lẫm, như một tiếng reo vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm say trước trùng trùng điệp: Của ong bướm tuần tháng “mật” ngọt ngào, nào là hoa của đồng nội xanh “rì”, nào là lá của cành tơ “phơ phất”, của yến anh là khúc tình “si”; thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi giác quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống ngồn ngộn đang phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở hấp dẫn đến lạ kỳ, một sự mời mọc mà thiên nhiên là những “món ăn” có sẵn. Những vẻ đẹp được liệt kê bằng những tính từ đậm nhạt khác nhau để thể hiện tài năng sử dụng từ ngữ của Xuân Diệu – cảnh vật trong thơ ông đã trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống. Sự vật bình thường ở ngoài đời cũng được đặt cho một dáng vẻ rất kiêu, rất hãnh diện, được trực tiếp nhận ánh sáng rực rỡ của lòng yêu cuộc sống từ hồn thơ Xuân Diệu đã trở nên lung linh, đẹp đẽ, là biểu tượng của mùa xuân và tuổi trẻ ở giữa cuộc đời! Thi pháp hiện đại đã chắp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng thái hồn nhiên, bồng bột trước cái sắc xuân trong cảnh vật, trong đất trời và của muôn loài. Cách ngắt nhịp trong đoạn thơ đầu linh hoạt, biến hoá (3/2/3 và 3/5). Đặc biệt là những hình ảnh, những khung cảnh được miêu tả thật cụ thể, in đậm phong cách XD: tuần tháng mật, đồng nội xanh rì … tất cả tràn trề sự sống và thật đắm say!

“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam hình ảnh mặt trời – vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng, tình tứ và lãng mạn đến thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Hình ảnh “thần vui hằng gõ cửa” gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại hy lạp xưa. Niềm vui sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút:”Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu tượng thuộc về thời gian “tháng giêng” so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính nhục cảm. Nhưng sao câu thơ Xuân Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến thế. Cái mới trong thơ tình Xuân Diệu là thế! Đó là sự kết hợp hài hoà giữa tâm hồn và thể xác khiến tình yêu thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc trái ngược là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu. Nó dẫn nhà thơ đến những suy tư và quan niệm nhân sinh mang tính triết lý. Thi nhân nhận ra cái quy luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian: “tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn …” Hai tâm trạng trái ngược nhưng dồn nén trong dòng thơ “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành 2 câu chứa đựng 2 tâm trạng, 2 cảm xúc trái ngược nhau: sung sướng-vội vàng. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là “vội vàng một nửa”. Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc tuổi xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội càng “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.” Vì sao vậy? Bởi với Xuân Diệu:

“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
……
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,”

Nhưng quan niệm của Xuân Diệu vừa phi lí, vừa hợp lí, vừa quen lại vừa lạ. Quen vì người xưa đã từng thở dài “xuất thì bất tái lai”. Và là bởi đó là tiếng nói của một cái tôi ham sống, coi mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là tất cả sự sống của mình. Biết rằng mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, thi sĩ bâng khuâng, tiếc nuối … Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như cũng mang theo nỗi buồn “chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”. Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian: “Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?” Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn… Trái tim Xuân Diệu đa cảm quá và tâm hồn nhà thơ quá đỗi tinh tế trước bước đi của thời gian. Con người ấy lúc nào cũng “chẳng bao giờ nữa…” Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hoá làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:

Trong đoạn thơ này, cái giọng điệu sôi nổi, bồng bột, đắm say của Xuân Diệu thời “thơ thơ” thể hiện đầy đủ nhất. Những câu thơ chứa đựng cả giọng nói háo hức và nhịp đập của một con tim vồ vập muốn sống hết mình. Con tim ấy của một cái tôi trữ tình từng bộc bạch một cách chân thành. “Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ – mà vạn vật là muôn đá nam châm.” Từng làn sóng ngôn từ lúc đan chéo nhau, lúc lại song song thành những đợt sóng ào ạt vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. So với đoạn thơ trên, cách tự xưng của nhân vật trữ tình thay đổi. Phần đầu bài thơ, thi sĩ xưng “tôi” – cái tôi đơn lẻ đang đối thoại với đồng loại. Đến đây, thi sĩ xưng ta một cách đầy tự tin nhưng đã có thêm rất nhiều đồng minh cùng đứng lên đối diện với sự sống:”Chẳng bao giờ, ôi!

Tham khảo thêm:   Lời bài hát Mất bao lâu

“Chẳng bao giờ nữa. –
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,”
“Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Hình thức trình bày đoạn thơ rất đặc biệt, thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ba chữ “Ta muốn ôm” được đặt ở giữa dòng thơ mô phỏng hình ảnh nhân vật trữ tình đang dang rộng vòng tay để ôm tất cả sự sống lúc xuân thì – sự sống giữa thời tươi vào lòng. Đó là chân dung của một cái tôi đầy tham lam, ham hố đang đứng giữa trần gian, cuộc đời, dòng đời để ôm cho hết, riết cho chặt, cho say, cho chếnh choáng, thâu cho đã đầy, cho no nê, cho tới tận cùng những hương sắc của đất trời giữa mùa xuân… Tất thảy đều vồ vập, khát khao đến cháy bỏng với các mong muốn được giao hòa, giao cảm mãnh liệt với vạn vật, với cuộc đời. Đây quả là một khát khao vô biên, tuyệt đích, rất tiêu biểu cho cảm xúc thơ Xuân Diệu. Điệp từ, điệp ngữ được sử dụng với tần số dày đặc trong cả đoạn thơ tiêu biểu cho nhịp điệu dồn dập, đầy bồng bột, đắm say. Chính những câu thơ đó lưu lại trong ta ấn tượng về một dòng sông cảm xúc cứ dâng trào, ào ạt từ câu mở đầu cho đến câu cuối cùng bài thơ. Chỉ riêng điệp ngữ ta muốn được điệp tới bốn lần, mỗi lần điệp đi điệp lại liền với một động từ diễn tả một trạng trái yêu thương mỗi lúc một nồng nàn, say đắm: ôm, riết, say, thâu. Đó chính là đỉnh điểm của cảm xúc bồng bột, sôi nổi và đắm say khiến nhà thơ phá tung những quan niệm của thi pháp trung đại để biểu lộ tâm hồn mình trong một cách nói tưởng như vô nghĩa mà hoá ra rất sáng tạo “Và non nước, và cây, và cỏ rạng.” Một trạng thái tham lam, ham hố khô có điểm tận cùng trong tâm hồn nhà thơ. Tròn cảm nhận của thi nhân, cuộc đời trần thế như bày ra cả một bàn tiệc với tất cả hình ảnh của cuộc sống tươi non, đầy hương sắc. Nhà thơ diễn tả thiên nhiên bằng các mĩ từ, lại nhân hoá khiến nó hiện ra như con người có hình hài và mang dáng dấp của tuổi xuân. Câu cuối cùng kết thúc cả bài thơ:” Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.” Đây là lời gọi thiết tha với sự cuồng nhiệt cao độ của 1 trái tim khao khát tình yêu và cuộc sống. Trong hồn thơ Xuân Diệu, mùa xuân – tuổi xuân ngon lành và quyến rũ như một trái chín ửng hồng, như mời mọc. Trong câu thơ này, hình ảnh xuân hồng với từ “cắn” khiến câu thơ thật gợi cảm xen chút giật mình trước tứ thơ thật độc đáo, diễn tả niềm khao khát giao cảm mãnh liệt, sự ham hố cuồng nhiệt của Xuân Diệu mãi mãi là khát vọng, là ham muốn không có giới hạn.

Với bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu “Thơ mới”. Mới lạ nhưng táo bạo, độc đáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là cách cảm nhận cuộc sống bằng tất cả các giác quan, với một trái tim chan chứa tình yêu. “Vội vàng” đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là lòng yêu con người, yêu cuộc đời. Đó là tình yêu cảnh vật, yêu mùa xuân và tuổi trẻ… Và là ham muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian, muốn tận hưởng vị ngọt ngào của cảnh sắc đất trời “tươi non mơn mởn”. Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si?! Thơ Xuân Diệu – vội vã với nhịp đập của thời gian.

Bài làm mẫu 2

Xuân Diệu là người luôn khát khao giao cảm với đời, Xuân Diệu viết văn, làm thơ rồi đến với Cách mạng rất tự nhiên, chân thành và nồng nhiệt. Ông đã tham gia mặt trận VIệt Minh. Sau Cách mạng tháng 8, ông hăng hái tham gia hoạt động trong các lĩnh vực nghệ thuật gắn bó cả đời với sự nghiệp.

Sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu rất phong phú trong nhiều lĩnh vực: sáng tác thơ, văn xuôi, phê bình văn học…song thơ ca chính là cây cầu giao cảm linh diệu nhất đã bắt nhịp cho trái tim thi sĩ đến với cuộc đời. Trước cách mạng, Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, bởi nguồn cảm xúc dạt dào trẻ trung, sôi nổi với quan niệm nhân sinh mới mẻ giữa những cách tân đầy stạo. Vội vàng được in trong tập “Thơ thơ” – tập thơ đầu tay của Xuân Diệu. “vội vàng” là 1 trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng 8. Bài thơ đã thể hiện quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu về thiên nhiên, cuộc sống, đặc biệt là thời gian.

“Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa,
Tháng giêng ngon như 1 cặp môi gần,
Tôi sung sướng.
Nhưng vội vàng 1 nửa,
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Xuân Diệu đã làm sống dậy nét quyến rũ, điệu tình tứ, vẻ kì thú và ngon lành ngay trong những cảnh sắc sự vật thiên nhiên quen thuộc:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Đem đến những cảm nhận tinh vi về thời gian, không gian, làm sống dậy vẻ thơ mộng và cả những tình thái tế nhị thật bất ngờ trong thiên nhiên:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Phải chẳng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Bao trùm lên tất cả là cái nhìn tình tứ về sự vật. Nhờ đó mà từng cảnh sắc đều tình tứ, mọi cảnh tượng đều tràn ngập xuân tình. Cái nhìn ấy đã quy chiếu thiên nhiên về vẻ đẹp của giai nhân. Từ những hình sắc cụ thể theo lối đặc tả cận cảnh đến toàn thể thiên nhiên rộng lớn theo lối bao quát toàn cảnh thường hiện ra trong dáng nét của giai nhân, tình nhân tràn trề xuân sắc:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Hỡi xuân hồng , ta muốn cắn vào ngươi!

Đó là những yếu tố cơ bản khiến cho cảnh sắc quanh ta vốn thân quen bình dị mà qua cách cảm nhận của Xuân Diệu, bỗng trở nên mới lạ và thơ mộng, hấp dẫn đến thế.

Hình ảnh thiên nhiên quen thuộc trở nên hấp dẫn là nhờ Xuân Diệu có một lối cảm nhận riêng, mới lạ. Có thể nói, Xuân Diệu đã cảm nhận nó bằng cảm xúc và cái nhìn trẻ. Cái nhìn này có hai biểu hiện: một là, cảnh vật thiên nhiên hiện lên trong cái thời tươi (“Cho no nê thanh sắc của thời tươi”) của nó; mặt khác, cảnh sắc thiên nhiên hiện ra trong cái độ phai tàn (“Phải chẳng sợ độ phai tàn sắp sửa?”) của nó. Cụ thể:

Xuân Diệu đã khơi dậy vẻ tinh khôi, thanh tâm, gợi tình trong sự vật; đồng thời, thi sĩ cũng đã nhìn các sự vật ấy không bằng cái nhìn thưởng thức, mà bằng cái nhìn luyến ái chứa đựng khát khao chiếm hữu. Nghĩa là ông chú ý đến vẻ xuân tình của cảnh vật và trút vào mỗi cảnh vật cả xuân tình của lòng mình. Vì thế, nét hấp dẫn trong hình ảnh thiên nhiên của Xuân Diệu, về thực chất, là vẻ hấp dẫn của xuân và tình. Nếu nhìn cho thật sâu sắc thì, chung quy, chỉ là vẻ hấp dẫn của tình thôi. bơi vì, tình là nội dung, xuân là hình thức; tình dậy men bên trong phát lộ thành vẻ xuân bên ngoài. Vẻ xuân của vạn vật chỉ là hiện thân của tình. Tất cả đều huy hoàng, tươi thắm:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
… này đây khúc tình si;
– Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
– Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
[…] Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Trái lại, bước vào độ phai tàn, cảnh sắc xung quanh lập tức tàn héo, hương và sắc đều phôi pha, phai lạt. Cảnh vật không còn xuân tình nữa. Đây là mặt tương phản của cái nhìn trẻ. Cho nên vạn vật đều buồn bã, u ám:

Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chẳng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Cách nhìn nhận thiên nhiên ấy cho thấy Xuân Diệu ý thức rất sâu sắc rằng: giá trị lớn nhất của đời người là tuổi trẻ, mà hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ chính là tình yêu. Với Vội vàng, Xuân Diệu đã đem đến cho Thơ mới thật nhiều cái mới. Và cái mới nhất ấy là một cái tôi “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”, yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt.

Bài làm mẫu 3

Thiên nhiên luôn là đề tài bất tận của thi ca, viết về thiên nhiên, ai cũng dành cho nó sự yêu thương vô tận. Vẻ đẹp của tự nhiên mang đến cho con người sự thanh thản trong tâm hồn, nuôi dưỡng những giọt nguồn yêu thương trong trái tim mỗi người. Đối với các thi nhân, bằng cảm quan và sự rung động tình tế của người nghệ sĩ, họ đã dành tặng thiên nhiên những vần thơ vô cùng đẹp đẽ. Đó là Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, là Sang thu của Hữu Thỉnh hay Chiều Xuân của Anh Thơ. Đến với Vội vàng của Xuân Diệu, ta cũng được cảm nhận một thiên đường tuyệt diệu trên mặt đất được tỏa sáng bởi thiên nhiên rực rỡ, vừa xinh đẹp lại vừa chứa chan ý tình.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.”

Dường như, nhà thơ cũng đang bất ngờ, rạo rực trước cảnh xuân, thiên nhiên đất trời đã dâng tặng cho con người một bàn tiệc xuân đầy thịnh soạn với bao hương sắc, bao thanh âm tuyệt diệu. Ta từng biết đến một mùa xuân trong ngần, yên bình trong thơ thành Hải:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiền
Hót chi mà vang trời”

Ta cũng từng thấy một sắc xuân nhẹ nhàng, ưu tư trong thơ Nguyễn Bính

” Trên giàn thiên lý….”

Với Vội vàng, Xuân căng tràn sức sống, xuân mang đủ thứ hương vị đến cho đời. Biện pháp điệp ngữ “của”, “này đây” cùng lối liệt kê của tác giả đã giúp người đọc hình dung được một mùa xuân mới đầy tươi tắn khi tháng giêng về. Cỏ xanh, hoa thơm nới đồng nội ngát hương, lá non phất phơ trên nhành cây trồng gió nhẹ. Từng đàn ong bướm nối đuôi nhau đi ngắm nhìn hoa cỏ mùa xuân, vươn mình trên những nhành hoa xinh đẹp hút mật, ăn sâu. Không chỉ tháng giêng đất trời mang sắc màu rực rỡ mà thế gian còn mang khúc nhạc xuân đầy hứng khởi, mê say của những chàng yến anh trên bầu trời xanh vọng xuống. Khúc nhạc ” tình si” ấy khiến lòng người say mê, vạn vật cũng mê say, chìm đắm. Có bao giờ thiên nhiên vào độ viên mãn và tròn đầy như thế. Hoa sắc đua nở, ong bướm chào mừng, chim cất cao tiếng hát, người người cũng say đắm khúc “tình si”. Chỉ là bông hoa, là cây cỏ, là chim bướm, ong bay,…những điều bình dị và quen thuộc trong cuộc đời, với ngòi bút Xuân Diệu, mọi vật đều trở nên có linh hồn, đều vận động và góp phần làm đẹp cho đời, mang đến cho con người niềm yêu và sự phấn chấn. Nơi nào đẹp thì đó chính là thiên đường, Xuân Diệu đã vẽ ra một thiên đường xinh yêu như vậy ngay chính trên quê hương, trên mảnh đất của mình.

Các nhà thơ cùng thời với Xuân Diệu như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Huy Cận hay Thế Lữ, họ cũng yêu thiên nhiên, gắn mình với thiên nhiên. Nhưng nếu các nhà thơ ấy nhìn thiên nhiên bằng nét buồn, cảnh mang những ưu sầu hay thấm đượm những nỗi nhớ thì Xuân Diệu lại nhìn theo một cách riêng đầy mới mẻ, tìm thấy vẻ đẹp từ chính cuộc sống của mình, bắt trọn những khoảnh khắc và lưu giữ chúng trong vần thơ, con chữ.

Xuân Diệu là một nhà thơ ham sống, khát khao sống, ông muốn vội vàng để tận hưởng hết tất thảy những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Và với ông, niềm vui luôn có khắp mọi nơi, trong bất kỳ khoảnh khắc nào:

“Và này đây mỗi sớm chớp hàng mi
Mỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa”

Thần niềm vui có trong mỗi người, trong mỗi nhà, chỉ cần luôn thấy yêu đời, yêu cuộc sống thì sẽ mãi mãi luôn có thần niềm vui bên cạnh. Mỗi sáng thức giấc, hé mắt ngắm nhìn bầu trời, ngắm nhìn thiên nhiên, nở một nụ cười trìu mến để cảm nhận được hạnh phúc ngày chính tự trong tâm, niềm vui có từ những điều nhỏ nhặt nhất trong đời thường.

” Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Thơ ca trung đại luôn lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực thì Xuân Diệu lại có cảm quan đầy mới lạ, con người chính là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp. “Tháng giêng ” ngon” tựa cặp môi gần. Cách ví von đầy độc đáo của Xuân Diệu đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật, mùa xuân tháng giêng ấy quá tuyệt diệu, từ cảm quan bằng mắt, bằng tai đến cảm quan bằng vị, bằng tình. Cặp môi gần ấy là cặp môi của những đôi tình nhân trao nhau, tháng giêng cũng trao cho người người tình yêu thắm thiết là tình xuân, là tình yêu đôi lứa gặp gỡ nên duyên, là tình người nồng đượm, sẻ chia.

Có lẽ bởi vì xuân đáng yêu, đáng thương như vậy mà thi sĩ đâu thể nào dửng dưng, đâu thể nào chỉ biết đứng nhìn ngắm mà thôi. Nhà thơ đã không kìm nén được lòng mình mà cất lên nỗi khát khao:

“Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”

Sự cuồng nhiệt , mê đắm với thiên nhiên, thiết tha với mùa xuân của nhà thơ là mãi mãi, không bao giờ giới hạn.

Bài thơ Vội vàng tuy không dành quá nhiều câu thơ để viết về thiên nhiên nhưng mỗi câu đều đẹp, mỗi từ đều hay, mỗi hình ảnh đều quyến rũ và gợi cảm. Mỗi dòng, mỗi ý đều mang ý tình sâu sắc. Thi nhân xưa nói rằng Xuân Diệu chính là một nhà thơ tình của văn học Việt Nam quả không hề sai.

Tham khảo thêm:   Soạn bài Câu cá mùa thu - Cánh diều 10 Ngữ văn lớp 10 trang 49 sách Cánh diều tập 1

Bài làm mẫu 4

Xuân Diệu thật xứng đáng khi được mệnh danh là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. “Thơ Xuân Diệu mang một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh). Thiên nhiên trong thơ ông là những bức tranh tràn đầy màu sắc được phác họa dưới nét vẽ tài hoa của người nghệ sĩ có cái nhìn tinh tế. Bằng cặp mắt “xanh non”, “biếc rờn”, tác giả đã phát hiện ra sự non tơ đầy sức sống của mùa xuân, đất trời và ông đã thể hiện những vẻ đẹp ấy qua bài thơ “Vội vàng”.

Những ước muốn táo bạo mà chân thành là những ý tưởng đầu tiên về bức tranh thiên nhiên mùa xuân:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Đó là bức tranh có nắng, có gió. Nắng của mùa xuân là cái nắng ấm áp, mang lại sự sinh sôi nảy nở cho vạn vật. Gió của mùa xuân là những làn gió nhè nhẹ tạo cảm giác mơn man, thích thú cho con người. Vì lẽ ấy mà Xuân Diệu muốn “tắt nắng”, “buộc gió”. “Tắt nắng” để màu vàng tươi của nắng không bị nhạt, “buộc gió” để hương sắc mùa xuân còn lưu lại với nhân gian. Các động từ “muốn”, “tắt”, “buộc” thể hiện một ước muốn táo bạo và có chút ngông cuồng của nhà thơ khi ông muốn tranh quyền của tạo hóa bởi con người bình thường không thể có được những khả năng ấy. Thể thơ ngũ ngôn cùng đại từ nhân xưng “tôi” đã giúp chủ thể trữ tình tự do bày tỏ dòng cảm xúc và lòng ham sống mãnh liệt của một trái tim yêu sôi nổi.

Bức tranh thiên nhiên ấy có những gì mà lại khiến “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) của nền văn học Việt Nam có ước muốn táo tợn đến như vậy?

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Vẻ đẹp của thiên nhiên trong “Vội vàng” là vẻ đẹp căng tràn nhựa sống. Mùa xuân mang sự sống đến cho muôn loài để phá tan đi sự lạnh lẽo, trơ trọi của mùa đông. Có lẽ vạn vật đều mong được gặp lại mùa xuân để phô ra những gì tươi đẹp nhất. Chỉ bằng sự ngọt ngào, giao hòa của ong bướm trong “tuần tháng mật”, sự sinh trưởng của hoa trên “đồng nội xanh rì”, sự non tơ của chiếc lá “cành tơ phơ phất” và cả “khúc tình si” của yến anh mà Xuân Diệu đã đưa tất cả chúng ta về chốn hạ giới. Đâu phải chỉ nơi bồng lai tiên cảnh mới có những điều đó. Nhà thơ đã khẳng định ở chốn hạ giới cũng có thiên đường – một thiên đường hiện diện ngay trong cuộc sống của con người. Tất cả như đang được trưng bày trước đôi mắt của bạn đọc và con người là vị khách quý được tận hưởng bữa yến tiệc trần gian ấy qua điệp từ “Này đây”. Mùa xuân khiến vạn vật có sức sống bao nhiêu thì nó cũng khiến cho tuổi trẻ cũng có sức sống bấy nhiêu. “Cành tơ” giúp chúng ta liên tưởng đến những chàng trai, cô gái trẻ đang sống hết mình với tuổi thanh xuân. Xuân Diệu là người có lòng yêu vồ vập, sôi nổi, đắm đuối. Chỉ có ông mới trông thấy “tuần tháng mật” của ong bướm và cũng chỉ có ông mới nghe được yến anh trao nhau “khúc tình si”. Những cái chớp mắt của nhà thi sĩ có cảm nhận tinh tế đã phát hiện ra muôn vàn sự hấp dẫn diệu kì của bức tranh thiên nhiên mùa xuân. Cứ mỗi ngày xuân đến là bắt đầu một đoạn đời vui, mỗi ngày đều được thần Vui gõ cửa, cuộc sống có biết bao điều thú vị. Tại sao con người ta phải đi tìm những thứ ấy ở một nơi xa xôi nào đó mà không nhận ra, trân trọng vẻ đẹp của thế gian? Chưa bao giờ trong thơ ca mùa xuân lại hiện ra tươi đẹp đến thế.

Mùa xuân không còn là người thiếu nữ e thẹn, không còn là bóng dáng mỏng manh ẩn sau mùa đông tàn tạ nữa mà mùa xuân đã hiện hình cụ thể: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Mùa xuân không chỉ là mùa xuân của đất trời mà nó đã thấm vào hồn người. Xuân Diệu đã phát hiện ra bao điều đẹp đẽ, đáng được trân trọng của cuộc sống ở trần gian. Hình ảnh so sánh tuyệt mĩ, mới mẻ thể hiện khát khao yêu đương cháy bỏng của ông hoàng thơ ca tình yêu. Ông quan niệm cái đẹp nằm ngay trong cuộc sống trần thế và lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên. “Cặp môi gần” của người thiếu nữ chứa đầy sự quyến rũ và lôi cuốn. Trong các nhà thơ chỉ có Xuân Diệu mới có được sự cảm nhận tinh tế đến như vậy. Thi sĩ đã nhìn thấy mùa xuân ở mức độ tươi trẻ, căng mọng nhất, ông đã sử dụng tất cả các giác quan để tận hưởng những gì mà mùa xuân đem lại.

Giữa bữa tiệc trần gian có âm thanh và ánh sáng, nhà thơ bỗng đặt mình trong trạng thái “sung sướng” nhưng cũng có chút “vội vàng”, lo âu:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

Tác giả chạy đua với thời gian, ông lo âu đến cuống cuồng về mùa xuân, thời gian sẽ trôi chảy. Dấu chấm đặt giữa dòng thơ như một tiếng nấc lên đột ngột, một sự thức tỉnh trong suy nghĩ. Đây là dấu hiệu đặt trong cảm quan về sự chia phôi, tàn phai, úa rụng. Ở giữa mùa xuân và tuổi trẻ nhưng nhà thơ đã nuối tiếc vẻ đẹp căng tràn ấy. Xuân Diệu không đợi mùa xuân qua đi mới bày tỏ lòng nhớ tiếc mà ông đã vội vàng nuối tiếc ngay khi mùa xuân đang tràn trề sự sống. Tác giả đang ngây ngất với mùa xuân như một vị chúa ở đời thì chợt nhận ra sự ngắn ngủi, mong manh như thứ thủy tinh tuy đẹp lung linh, rực rỡ nhưng lại dễ vỡ:

“Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Phải là một người yêu sự sống đến tột độ thì nhà thơ mới có tâm trạng bâng khuâng, lo sợ thời gian trôi chảy.

Nói đến xuân là nói đến những gì tươi mới, nguyên vẹn, tinh khôi nhất. Nếu bạn đọc có thể bị lôi cuốn theo từng nét vẽ của bức tranh thiên nhiên mùa xuân thì cũng có thể dễ dàng nhận thấy sự tiếc nuối về độ xuân sắc, sự tàn phai của vẻ đẹp trong thơ ông. Dưới con mắt đa tình, ông quan niệm: “Tình không tuổi và xuân không ngày tháng” nhưng cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc nên thi sĩ “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Vẻ đẹp của mùa xuân không tồn tại mãi mãi và bước đi vô tình của thời gian sẽ khiến mọi vật trở nên tàn phai, úa rụng nên Xuân Diệu muốn níu giữ mùa xuân cũng là điều hợp lí. Với vẻ đẹp tươi nguyên, mơn mởn của mùa xuân, nhà thơ đã thể hiện niềm mong muốn đến cháy bỏng của mình. Ông muốn “ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, “muốn riết mây đưa và gió lượn”, “muốn say cánh bướm với tình yêu”, “muốn thâu trong một cái hôn nhiều” và muốn “cắn” vào xuân hồng tràn đầy sinh lực.

Nếu mùa xuân không thướt tha, quyến rũ như người thiếu nữ thì có lẽ Xuân Diệu đã không có ước muốn ngăn cản sự chảy trôi vô tình của thời gian.Tác giả không chỉ liệt kê cho bạn đọc những nhân tố làm nên bức tranh xuân sinh động mà ông còn thể hiện được cái hồn của cảnh vật. Mùa xuân – một thế giới thần tiên lạ kì với biết bao nhiêu hương sắc là chốn để Xuân Diệu gửi mình vào đó.

Bài làm mẫu 5

Nếu vẻ đẹp của thiên nhiên trong trang thơ của Huy Cận, Hàn Mặc Tử luôn mang một nét đượm buồn, ảm đạm thì trái ngược lại với hồn thơ của Xuân Diệu thiên nhiên mang trong mình một nét riêng biệt góp phần mang lại một cái nhìn mới cho vẻ đẹp thiên nhiên trong thơ ca. Tiêu biểu cho điều ấy là bài thơ “Vội vàng” sáng tác năm 1938 và được in trong tập “Thơ thơ” với bức tranh thiên nhiên mang sức sống mãnh liệt có sự tươi non mơn mởn, có sự căng tràn nhựa sống nhưng cũng rớm vị chia phôi và bị tàn phá khốc liệt bởi thời gian. Vẻ đẹp thiên nhiên đã góp phần thể hiện quan niệm nhân sinh, tư tưởng tiến bộ, mới mẻ của nhà thơ.

Vẻ đẹp của thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng dào dạt cho các nhà thơ. Với tâm hồn của người nghệ sĩ nhạy cảm luôn yêu tha thiết, say đắm trước cái đẹp và thiên nhiên mang đến điều đó, nó vừa là cảm hứng vừa là phương tiện để các thi nhân thể hiện tài năng và tình cảm nghệ thuật. Dù thiên nhiên trong bài thơ “Vội vàng” không phải là chủ đề chính nhưng thi sĩ đã cho ta thưởng thức vẻ đẹp tuyệt mỹ ở nơi trần gian được Xuân Diệu khắc họa lại bằng tài năng thơ ca.

Thiên nhiên hiện lên với hai nét đẹp cơ bản. Trước tiên đó là vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống với âm thanh, màu sắc:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Điệp từ “này đây”, “của” làm cho vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân được hiện lên cụ thể, rõ ràng gợi cảm giác hân hoan, sung sướng của nhà thơ khi được đón nhận sự phong phú mà thiên nhiên ban tặng cho cuộc đời. Đó là hình ảnh của ong bướm trong tuần tháng mật là khoảng thời gian hạnh phúc nhất, viên mãn nhất, ngọt ngào nhất của đời người; đó là hoa của đồng nội xanh rì màu xanh mướt, tươi đẹp, căng tràn sức sống; đó là lá của cành tơ phơ phất mơn mởn trong gió xuân; đó là khúc tình si rộn ràng của yến anh; là ánh sáng ban mai “chớp hàng mi”. Bức tranh thiên nhiên ấy có đầy đủ âm thanh, hương vị, màu sắc và men say của ái tình. Xuân Diệu đặc tả vẻ đẹp của thiên nhiên ở trong khoảnh khắc tập trung cao độ nhất của cái đẹp bởi đây là bức tranh của mùa xuân mùa khởi đầu của một năm, mở ra một hành trình mới nên luôn tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ và sức sống, nó không phải là cái nắng chói chang mùa hạ hay lá vàng rụng của thu sang hay là cái buốt lạnh của đông tới.

Thiên nhiên Xuân Diệu chẳng phải là con sông dài mênh mông trong “Tràng giang” của Huy Cận hay một mảnh tình riêng của thôn Vĩ trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử cũng chẳng đặc trưng bởi bất cứ một vùng quê nào mà là vẻ đẹp hiện hữu ở bất cứ nơi nào cũng có, vẻ đẹp bình dị, giản đơn nhưng không phải ai cũng có thể phát hiện và có một tâm hồn thưởng thức biết quý trọng như nhà thơ bởi không phải ai cũng có được con mắt và trái tim của thi sĩ.

Đối với Xuân Diệu vẻ đẹp ấy chẳng cần phải đi tìm ở đâu xa, phải thoát lên tiên như Thế Lữ mà đó là một “bữa tiệc trần gian” mà tạo hóa ban tặng. Khi miêu tả thiên nhiên thi pháp của Xuân Diệu đã có sự cách tân, đổi mới ông chẳng đi theo lối mòn của văn học trung đại là ước lệ tượng trưng hay chấm phá điểm nhãn, lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con người mà đơn giản hóa trong nghệ thuật sử dụng, lấy con người làm trung tâm của vũ trụ, là nơi hội tụ của cái đẹp và làm chuẩn mực cho thiên nhiên. Điều đó được thể hiện ở vẻ đẹp của “ánh sáng chớp hàng mi”, và chi tiết so sánh độc đáo, táo bạo:

“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”.

Cặp môi gần nó là khoảnh khắc hạnh phúc thăng hoa của tình yêu đôi lứa. Tháng Giêng là thời gian khởi đầu của một năm, nó vô hình nhưng khi được đem ra so sánh với cặp môi gần lại là một vật hữu hình có vị, có hương “ngon” đầy sức hấp dẫn đang mời gọi thi nhân tận hưởng. Chính bởi tất cả cái đẹp ấy mà nhà thơ có một ước muốn táo bạo “tắt nắng”, “buộc gió” để lưu giữ hương sắc của đất trời đang độ xuân thì để rồi nhà thơ muốn ôm, riết, say thâu hòa tan làm một cùng với đất trời để tận hưởng một cách viên mãn nhất vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước. Xuân Diệu phải là một nhà thơ yêu say đắm thiên nhiên vô cùng mới có thể tinh tế phát hiện và cảm nhận bằng tất cả các giác quan của mình như vậy.

Tuy nhiên vạn vật trong vũ trụ từ sự vật nhỏ bé nhất như cỏ cây đến con người cũng không thể trường tồn vĩnh hằng, không thể thoát khỏi quy luật của tự nhiên và sự tàn phá khốc liệt của thời gian. Xuân Diệu miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân để làm bước đêm, làm phương tiện thể hiện cho quan niệm nhân sinh sâu sắc của mình. Bởi tác giả nhận ra;

“Xuân đương tới cũng là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.

Thời gian trong cái nhìn của ông không phải là vòng tròn tuần hoàn như trong thơ ca trung đại mà là thời gian tuyến tính một đi không bao giờ quay trở lại. Nên ông nuối tiếc, bâng khuâng trước sự trôi chảy của nó:

“Tôi sung sướng.
Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

hay “Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Trong tâm trạng ấy nhà thơ nhìn vạn vật với cũng đang phôi pha, chia li, từ biệt.

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa”.

Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa làm cho thiên nhiên trước giờ khắc chia li xa xuân đến hạ cũng mang trạng thái cảm xúc, cũng có những hành động giống như con người. Tháng năm đã có mùi của vị chia phôi, tiếng khóc than thầm của sống núi, con gió xinh hờn dỗi với lá vì sắp phải đi, là tiếng chim đang rộn ràng chào đón xuân sang bỗng đứt tiếng reo thi. Tất cả những sự vật ấy “Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?” cũng như nhà thơ sợ khoảnh khắc của mùa xuân tuổi trẻ qua đi vô nghĩa, mà thốt lên tiếng than, lời buồn sâu thẳm “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa”. Xuân Diệu thật có cái nhìn khác người ông chẳng cần đợi có nắng hạ mới hoài xuân mà tìm thấy điều ấy ngay từ khi xuân mới sang, “trong gặp gỡ đã có mầm li biệt”.

Xuân Diệu được nhà phê bình văn học Hoài Thanh đánh giá là “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” đến với thơ ca của ông “tài hoa, tinh tế mà sang trọng” thiên nhiên trong Vội vàng rất tình tứ, cảnh vật tràn đầy xuân tình thể hiện cho một tâm hồn thi sĩ yêu tha thiết cái đẹp, khát khao sự sống trần gian và có quan niệm tích cực về thời gian và tuổi trẻ.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 11: Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu 2 Dàn ý & 8 bài bức tranh mùa xuân trong Vội vàng của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *