Bạn đang xem bài viết ✅ Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính 4 Dàn ý & 11 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

TOP 11 mẫu Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay, được chọn lọc từ những bài văn đạt điểm cao, giúp các em có thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài văn phân tích của mình thật hay.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật khắc họa vô cùng thành công tư thế hiên ngang, thái độ bất chấp khó khăn, hiểm nguy của những người lính. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Wikihoc.com để ngày càng học tốt môn Văn 9.

Dàn ý phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Dàn ý 1

1. Mở bài

  • Giới thiệu về bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính
  • Khái quát nội dung Khổ cuối của bài

2. Thân bài

* Tái hiện hình ảnh những chiếc xe đi ra từ trong bom rơi:

  • Những chiếc xe chuyên chở quân lương, vũ khí viện trợ cho miền Nam bị tàn phá đến mức méo mó, biến dạng:
  • Điệp từ “không” kết hợp với phép liệt kê: không có kính, không có đèn, không có mui gợi ra hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh.

→ Bom đạn và sự hủy diệt của kẻ thù in hằn dấu tích trên những chiếc xe, khiến những chiếc xe vốn thiếu thốn “không có kính” lại càng trở nên méo mó, không còn nguyên vẹn.

  • Nhịp thơ 3/2/3, 4/4 được thay đổi linh hoạt làm cho câu thơ toát lên chất thơ, chất lính và cả cái hóm hỉnh, lạc quan của những người lính lái xe.

* Vẻ đẹp của những người lính lái xe:

  • Luôn lạc quan, chủ động làm chủ hoàn cảnh
  • “Xe vẫn chạy” gợi hình dung về đoàn xe nối đuôi nhau trên con đường Trường Sơn đồng thời thể hiện quyết tâm chiến đấu, quyết không chịu đầu hàng trước hoàn cảnh của những người lính.
  • Tiếng gọi của miền Nam, tiếng gọi của Tổ Quốc đã mang đến sức mạnh và quyết tâm chiến đấu mạnh mẽ cho những người lính.
  • Đối lập với những cái không có, cái thiếu thốn của hoàn cảnh, phương tiện chiến đấu là một cái có của tình yêu nước và lí tưởng chiến đấu.
  • “Trái tim” vừa là ẩn dụ vừa là hoán dụ chỉ tình yêu nước, là ý chí, quyết tâm chiến đấu vì miền Nam của những người lính lái xe.

=> Tái hiện được tình yêu nước và tinh thần thời đại của những người lính lái xe

3. Kết bài

Khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của khổ thơ

Dàn ý 2

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Phạm Tiến Duật, bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính và khổ thơ cuối bài.

2. Thân bài

Câu 1 + 2: khẳng định lại một lần nữa sự thiếu thốn của chiếc xe, không có kính, không có đèn, không có mui xe và chiếc xe rất nhiều những vết xước. Sự lặp lại những chi tiết này tạo thành kết cấu đầu cuối tương ứng, làm cho bạn đọc hiểu thêm về người lính, điều kiện chiến đấu cũng như bối cảnh lúc bấy giờ.

Câu 3: là lời khẳng định chắc nịch rằng cho dù có khó khăn, thiếu thốn như thế nào đi nữa thì những con người cách mạng vẫn sẵn sàng chiến đấu, vẫn lao vào miền Nam cam go, tiến về phía trước bỏ lại những tác động, thiếu thốn ngoại cảnh phía sau, thể hiện tinh thần anh hùng, can đảm của người lính cụ Hồ.

Câu 4: thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết đồng đội, đoàn kết dân tộc. Dù hoàn cảnh có khó khăn, dù quân giặc có hùng mạnh cũng không thể đánh bại ý chí, lòng yêu nước của nhân dân ta. Câu kết đoạn cũng là câu kết bài khẳng định chắc nịch về ý chí của nhân dân ta.

→ Đoạn thơ tuy ngắn gọn, hàm súc nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa.

3. Kết bài

Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ và ý nghĩa của đoạn thơ đối với bài thơ.

Dàn ý 3

I. Mở bài:

  • Giới thiệu một vài nét về tác giả, tác phẩm.
  • Dẫn dắt vô đề, trích dẫn khổ thơ cuối

II. Thân bài:

* Hình ảnh cả khổ thơ đều là sự thiếu thốn, nhưng thiếu thốn lại càng thêm thiếu thốn hơn khi mà:

  • Không có kính
  • Không có mui xe
  • Không có đèn xe
  • Thùng xe bị xước

– Biện pháp nghệ thuật

  • Điệp ngữ: không có
  • Liệt kê: kính, đèn, mui, thùng

=> thể hiện sự tàn phá của chiến tranh và tổn thất nặng nề mà chúng ta phải chịu

– Tinh thần bất khuất, ý chí mạnh mẽ của những người lính lái xe

  • Vẫn lạc quan và đầy tự tin
  • Vượt qua mọi khó khăn, giữ vững tay lái cho bánh xe lăn đều

– Hình ảnh trái tim ở cuối bài thơ

  • Là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo
  • Lòng yêu Tổ quốc, tinh thần tự tôn dân tộc
  • Ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
  • Chính tình yêu, sự quả cảm của các anh là yếu tố quan trọng làm nên thành công cho kháng chiến

* Em cũng có thể liên hệ mở rộng

  • Hình ảnh những người lính trong thơ của Chính Hữu: họ là những người lính xuất thân từ những miền quê nghèo khó nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc họ từ giã quê hương bước vào mặt trận

* Khái quát lại nghệ thuật trong khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính

  • Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị
  • Hình ảnh tả thực, chọn lọc
  • Biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, liệt kê, ẩn dụ

III. Kết bài:

  • Khái quát lại vấn đề trong đoạn thơ và nêu cảm nhận của em về nó.

Dàn ý 4

1. Mở bài:

  • Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
  • Khái quát nội dung khổ thơ cuối.

2. Thân bài:

a) Hình ảnh những chiếc xe từ trong bom rơi:

  • Biện pháp tu từ liệt kê: “kính, đèn, mui xe”.
  • Điệp từ: “Không”.

=> Nhấn mạnh hình ảnh tàn tạ, méo mó của những chiếc xe do sự tàn phá của chiến tranh.

b) Tinh thần chiến đấu của người lính:

  • “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”: Sẵn sàng chiến đấu để mang lại độc lập cho miền Nam.
  • “Trái tim”: Hình ảnh hoán dụ cho tình yêu nước, ý chí kiên cường của người lính.

=> Dù có bao nhiêu khó khăn, vất vả người lính vẫn lái xe băng băng tiến về phía trước để mong một ngày mai đất nước được thống nhất.

3. Kết bài:

– Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của khổ cuối “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”:

  • Nội dung: Tinh thần chiến đấu dũng cảm cùng ước mơ cao đẹp của những người chiến sĩ trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử.
  • Nghệ thuật: Sử dụng thành công các biện pháp tu từ, hình ảnh thơ đặc sắc, ý nghĩa.

– Liên hệ mở rộng.

Đoạn văn phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một ý chí, một quyết tâm cao độ chiến đấu vì quê hương, bảo vệ tổ quốc. Hai câu thơ đầu sử dụng biện pháp liệt kê, điệp ngữ “không có” nhấn mạnh sự trần trụi, biến dạng của những chiếc xe. Càng vào sâu trong chiến trường, chiếc xe càng trở nên méo mó, biến dạng. Một lần nữa, thông qua hình ảnh những chiếc xe, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã gián tiếp miêu tả sự ác liệt của chiến trường. Điều kì lạ là những chiếc xe không kính, không đèn, không mui ấy vẫn băng băng ra chiến trường. Ở đây có sự đối lập giữa vẻ bên ngoài và khả năng của chiếc xe, giữa điều kiện vật chất và sức mạnh tinh thần của người lính lái xe. Để cân bằng ba cái không có ở trên chỉ cần một cái có đó trái tim người lính. đến đây, ta càng thấy được sự ngang tàng, hóm hỉnh nhưng cũng thật sâu sắc trong thơ Phạm Tiến Duật, những chiếc xe dường như không chỉ chạy bằng nhiên liệu mà thật độc đáo khi có một trái tim cầm lái, Trái tim là 1 hình ảnh hoán dụ nhưng đồng thời cũng là hình ản ẩn dụ, nó hội tụ vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ lái xe giàu nhiệt huyết, sắt son tình yêu tổ quốc, sục sôi căm thù giặc và ý chí quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính ngắn gọn

Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, bởi vậy những áng thơ văn của ông đều được “gieo mầm” trên mảnh đất hiện thực màu mỡ và được nuôi dưỡng bằng chính những trải nghiệm và tình cảm thực tế của một người chiến sĩ. Phạm Tiến Duật viết nhiều, viết rất hay về những người lính dũng cảm, kiên cường, coi thường gian khổ, tiêu biểu nhất có thể kể đến là Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Bài thơ viết về những chiếc xe bị tàn phá bởi bom đạn chiến tranh, từ đó làm nổi bật lên những phẩm chất tốt đẹp của những người lính lái xe. Đặc biệt, trong khổ thơ cuối, chân dung người lính được hoàn thiện với vẻ đẹp của ý chí, quyết tâm chiến đấu không gì có thể thay đổi của những người lính để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong không khí mưa bom bão đạn, những chiếc xe chuyên chở quân lương viện trợ cho miền Nam bị tàn phá đến mức méo mó, biến dạng:

Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,

Điệp từ “không” kết hợp với phép liệt kê: không có kính, không có đèn, không có mui gợi ra hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh. Bom đạn và sự hủy diệt của kẻ thù in hằn dấu tích trên những chiếc xe, khiến những chiếc xe vốn thiếu thốn “không có kính” lại càng trở nên méo mó, không còn nguyên vẹn: không đèn, không mui, thùng xe bị xước. Nhịp thơ 3/2/3, 4/4 được thay đổi linh hoạt nên dù nói về hoàn cảnh khó khăn cùng những mất mát do chiến tranh mang lại nhưng câu thơ vẫn toát lên chất thơ, chất lính và cả cái hóm hỉnh, lạc quan của những người lính lái xe.

Chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt, hiểm nguy, ngay cả phương tiện chiến đấu là những chiếc xe cũng bị phá hủy đến tàn tạ, mất đi hình dáng ban đầu thì những người lính lái xe vẫn không nhụt chí, e sợ mà vẫn luôn lạc quan, chủ động làm chủ hoàn cảnh. Đoàn xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Tham khảo thêm:  

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

“Xe vẫn chạy” không chỉ gợi hình dung về đoàn xe nối đuôi nhau trên con đường Trường Sơn để vào chi viện cho miền Nam ruột thịt mà còn thể hiện quyết tâm chiến đấu, quyết không chịu đầu hàng trước hoàn cảnh của những người lính. Chỉ cần còn một hơi thở, những người lính vẫn giữ vững một niềm tin, một tinh thần quật cường vào tương lai tươi sáng của cuộc đấu tranh. Tiếng gọi của miền Nam, tiếng gọi của Tổ Quốc đã mang đến sức mạnh và quyết tâm chiến đấu mạnh mẽ cho những người lính.

Hai câu thơ cuối cùng của bài đã tái hiện sống động vẻ đẹp của những người lính lái xe. Đó là những người lính gan dạ, kiên cường, không quản những khó khăn gian khổ, sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy và cái chết kề cận để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả mà Tổ quốc giao phó: đấu tranh giải phóng đất nước. Có thể nói nhà thơ Phạm Tiến Duật đã rất thành công khi tái hiện được tình yêu nước và tinh thần thời đại của những người lính lái xe “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).

Đối lập với những cái không có, cái thiếu thốn của hoàn cảnh, phương tiện chiến đấu là một cái có. Đó chính là trái tim ấm nóng của người lính. Hình ảnh “một trái tim” được coi là kết tinh đẹp đẽ nhất cho toàn bộ nội dung tư tưởng của bài thơ. Trái tim vừa là ẩn dụ vừa là hoán dụ chỉ tình yêu nước, là ý chí, quyết tâm chiến đấu vì miền Nam của những người lính lái xe. Chính tình yêu nước, lòng căm thù giặc đã giúp những người lính vững tay lái, sôi sục quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Như vậy, trong khổ thơ cuối, nhà thơ Phạm Tiến Duật một lần nữa gợi mở trước mắt người đọc chân dung méo mó, thiếu thốn của những chiếc xe: không kính, không mui, không đèn để từ những cái không có ấy, nhà thơ làm nổi bật vẻ đẹp của ý chí và lòng quyết tâm của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn xưa: gan dạ, kiên cường, không quản khó khăn, gian khổ.

Phân tích khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay

Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” tiêu biểu cho sáng tác của ông trong giai đoạn đó. Bài thơ đã làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe dũng cảm trên tuyến đường Trường Sơn. Đặc biệt, ở khổ thơ cuối, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận được những khó khăn mà người chiến sĩ gặp phải trong khi thực hiện nhiệm vụ. Qua đó, ngợi ca tình yêu nước, ý chí chiến đấu của người lính.

Trong thời điểm cuộc chiến đấu đang diễn ra gay go, ác liệt, những chiếc xe bị tàn phá nặng nề:

“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”

Bằng việc sử dụng biện pháp tu từ liệt kê “kính, đèn, mui xe” kết hợp với điệp từ “không”, tác giả đã nhấn mạnh hình ảnh những chiếc xe méo mó, tàn tạ bước ra từ chiến trường khốc liệt. Con đường Trường Sơn vốn đã gập ghềnh, giờ chiếc xe lại còn thiếu đủ thứ càng làm công cuộc di chuyển của người lính gặp thêm nhiều khó khăn.

Gian khổ là vậy nhưng có lẽ không gì có thể làm chùn bước những đoàn xe. Họ vẫn cứ nối đuôi nhau, băng băng tiến về miền Nam ruột thịt:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Mặc kệ làn mưa bom bão đạn, những người lính lái xe vẫn vững chắc tay lái. Bước vào cuộc chiến với tinh thần yêu nước, người lính luôn đặt lợi ích của cả dân tộc lên trên. Họ không quản ngại khó khăn, gian khổ bởi họ tin rằng lòng yêu nước, ý chí chiến đấu sẽ giúp mình chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Hai câu thơ cuối đã tái hiện hình ảnh tuyệt đẹp về người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Tinh thần đó khiến chúng ta nhớ những vần thơ của Tố Hữu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Hay điều đó còn thể hiện rất rõ trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu: “Đêm nay rừng hoang sương muối/Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Tất cả đều nhằm thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó đáng ngưỡng mộ của những con người thời chiến.

Bằng việc sử dụng kết hợp biện pháp tu từ điệp từ và liệt kê, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã làm nổi bật hiện thực tàn khốc của chiến tranh. Nhưng vượt lên trên tất cả, những người lính lái xe vẫn hiên ngang tiến về phía trước. Qua đó, khiến người đọc càng thêm trân trọng, biết ơn công lao của thế hệ đi trước.

Phân tích khổ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 1

Khổ thơ nêu bật ý chí quyết tâm giải phóng miền nam của người chiến sĩ lái xe. Hai câu đầu tác giả sử dụng biện pháp liệt kê, điệp ngữ nhấn mạnh sự thiếu thốn đến trần trụi của chiếc xe ”không kính”, ”không đèn”, ”không mui”, ”thùng xe xước” qua đó cho ta thấy mức độ ác liệt của chiến trường.

Những chiếc xe trần trụi ấy vẫn băng ra chiến trường dù mọi thứ trong xe không còn nguyên vẹn chỉ cần vẹn nguyên 1 trái tim người lính – trái tim vì miền nam thì xe vẫn chạy.

Đó không chỉ là sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên mọi gian khổ ác liệt mà còn là sức mạnh của tình yêu nước. Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng chiếc xe nhưng ko đè bẹp được tinh thần, ý chí chiến đấu của những chiến sĩ lái xe,x e vẫn chạy không chỉ vì có động cơ máy móc mà con có cả động cơ tinh thần ”vì miền nam phía trước”.

Nghệ thuật đối lập những cái ”không có” ở bên ngoài là một cái ”có” ở bên trong – đó là trái tim người lính. Trái tim thay thế cho mọi thiếu thốn, hợp nhất với người chiến sĩ trở thành 1 cơ thể sống không gì ngăn cản, tàn phá được trái tim chạy bằng xương máu của người chiến sĩ.

Trái tim ấy tạo ra niềm tin, niềm lạc quan và sức mạnh chiến thắng. Trái tim yêu thương, trái tim cam trường của người chiến sĩ lái xe vừa là hình ảnh hoán dụ vừa là hình ảnh ẩn dụ gợi ra bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp thiêng liêng tất cả vì miền nam thân yêu. Trái tim người lính tỏa sáng rực rỡ đến muôn thế hệ mai sau khiến ta ko quên được 1 thế hệ thanh niên thời kháng chiến chống Mỹ oanh liệt của dân tộc.

Phân tích khổ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 2

Phạm Tiến Duật (1941-2007) quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp trường đại học sư phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ chống Mĩ cứu nước. Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ông có giọng thơ sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của ông viết về đề tài chiến tranh và hình tượng người lính.

Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã đưa vào một hình tượng vô cùng mới lạ mà không kém phần độc đáo, thú vị đó chính là hình ảnh của những chiếc xe không kính – phương tiện của những người lính lái xe khi thực hiện nhiệm vụ chi viện cho miền Nam ruột thịt. Hình ảnh những chiếc xe được nhà văn tái hiện với những mất mát, những phá hủy bạo tàn của chiến tranh:

“Không có không phải xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Những chiếc xe bị bom đạn của chiến tranh làm méo mó, không nguyên vẹn. Những chiếc kính xe cũng bị phá hủy hoàn toàn. Nhưng những mất mát ấy không thể làm lung lay tinh thần quyết tâm cũng không thể làm gián đoạn được hành trình của những người lính cách mạng trên tuyến đường Trường Sơn. Những người lính dường như không hề bị tác động, họ vẫn ung dung, lạc quan ngồi trong khoang lái điều khiển những chiếc xe cùng một tinh thần vô cùng kiên định “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.

Cái nhìn của những người lính lái xe được Phạm Tiến Duật miêu tả chi tiết về ba điểm dừng chính, đó chính là nhìn đất- cũng là nhìn con đường thực hiện hành trình, nhiệm vụ của mình. Nhìn trời- như nhìn về tương lai tốt đẹp của dân tộc,của đất nước. Nhìn thẳng ở đây lại thể hiện được sự kiên định của những người lính, bom đạn chiến tranh không thể làm nao núng tinh thần quyết tâm của họ.

Sự quyết tâm cũng như vẻ đẹp trong lí tưởng, tâm hồn của những người lính được thể hiện rõ nét nhất qua bốn câu thơ cuối của bài thơ:

“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mùi rồi thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Nhà thơ đã kể ra những mất mát,những thứ bị tàn phá, không chỉ mất đi những tấm kính mà đèn xe cũng mất, xe không mu rồi thùng xe cũng xước. Những công dụng cơ bản của chiếc xe đều bị bom đạn tàn phá cho mất hết tất cả làm chúng ta liên tưởng đến việc chiếc xe không thể hoạt động vì đã quá tàn tạ. Nhưng không, chiếc xe mang trong mình nhiều vết thương ấy vẫn chạy về phía trước, vẫn tiếp tục cuộc hành trình của mình “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Sức sống, cuộc hành trình không mệt mỏi, bất chấp gian nguy ấy được tạo nên bởi tinh thần mãnh liệt, kiên cường của trái tim những người lính.

Phân tích khổ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 3

Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước. Ông được gọi là “Viên ngọc Trường Sơn của thơ ca” bởi thi sĩ đã mang cả hào khí thời đại cùng dãy Trường Sơn vào thơ. Đặc biệt mảng thơ về người lính lái xe của ông đã để lại ấn tượng thật thú vị, đó là “Vết xe lăn” nóng bỏng trong những bài thơ Trường Sơn thời chống Mĩ.

Trong số những vần thơ thông minh, dí dỏm về người lính lái xe Trường Sơn của Phạm Tiến Duật, phải kể đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

Bài thơ được viết năm 1969, in trong tập “Vầng trăng – Quầng lửa”. Hình tượng thơ hết sức độc đáo: những chiếc xe không kính băng băng ra trận bất chấp hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh. Để cuối bài thơ, tác giả đưa ra một ý tưởng thật bất ngờ – đó là “trái tim cầm lái”

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim

Ở phần đầu bài thơ, Phạm Tiến Duật đã giải thích rất đơn giản mà sắc sảo “Không có kính không phải vì xe không có kính” bởi vì: “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Thật là đơn giản ! Chiến tranh bom đạn tàn phá. Xe không kính chắn gió vẫn ra trận thanh thản mà ung dung. Hai câu đầu khi kết, tác giả một lần nữa tả hình dáng của chiếc xe quân sự thời chống Mĩ:

Tham khảo thêm:   Cách tải Microsoft Teams về máy tính, tạo tài khoản Microsoft Teams

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước

Đã không kính – gió, bụi, mưa tuôn vào buồng lái, khó khăn chồng chất hơn khi xe lại không có đèn, rồi không có mui xe thùng xe có xước. Một hình ảnh trần trụi do chiến tranh gây nên. Người lái xe phải huy động mọi giác quan, năng lực để lái xe trong mạo hiểm, phiêu lưu. Tất cả đều vượt qua bởi:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim

Đây là chủ đề sâu thẳm của bài thơ. Đây mới là điều hệ trọng và thiêng liêng mà cả bài thơ vui nhộn chưa hé lộ. Nhà thơ đã nói đúng tinh thần thời đại Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai (Tố Hữu). Cả nước lên đường đánh Mỹ vì Miền Nam ruột thịt. Vậy là trái tim đã giúp những người lính vượt qua gian khổ trên những chiếc xe không kính, không đèn, không mui xe… Trái tim rực lửa căm thù giặc Mỹ và nóng bỏng yêu thương đồng bào miền Nam ấy chính là vẻ đẹp sâu thẳm của tâm hồn Việt Nam thời đánh Mỹ, là trái tim nhân hậu, thủy chung của cả dân tộc .

Thơ là thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Phạm Tiến Duật đã thể hiện thành công tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam yêu nước trong những năm tháng đánh Mỹ hy sinh gian khổ mà vĩ đại của dân tộc ta.

Phân tích khổ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 4

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã ghi dấu vẻ đẹp người lính là vẻ đẹp ở tư thế của người ra trận đầy khốc liệt trộn không lẫn của tuyến đường vận tải có một không hai trên thế giới, với một khí phách lái xe bất chấp mọi bom đạn nắng mưa, gió bụi, đói ăn, đói ngủ. Bài thơ khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, thái độ bất chấp khó khăn coi thường gian khổ hiểm nguy, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, trái tim yêu nước nồng nhiệt của tuổi trẻ thời chống Mĩ. Vẻ đẹp độc đáo được thể hiện rất hay trong khổ cuối bài thơ của bài thơ:

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước .
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

thơ dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ và thú vị làm nổi bật sự khốc liệt trong chiến tranh nhưng cũng làm nổi bật ý chí chiến đấu, quyết tâm sắt đá, tình cảm sâu đậm với miền Nam ruột thịt. Đó là sự thống nhất giữa hai sự vật tưởng như tương phản gợi ấn tượng về chất thơ lãng mạn và sự trần trụi khốc liệt. Những chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng trơ trụi, trụi trần ”Không có kính rồi xe không đèn- không có mui xe, thùng xe có xước” Nhưng điều kỳ lạ là những chiếc xe trụi trần ấy vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Tác giả lại một lần nữa lí giải bất ngờ và rất chí lý: “chỉ cần trong xe có một trái tim” Trái tim người lính cách mạng- trái tim của lòng quả cảm.

Hai câu thơ :

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.

dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: những chiếc xe bị hư hỏng nhiều hơn “không kính, không mui, không đèn, thùng xe có xước…” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hy sinh. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên nhiều lần thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc như những chặng gập ghềnh, khúc khuỷu đầy chông gai, bom đạn…. Ấy vậy mà những chiếc xe như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Hai câu thơ đã khắc đậm hình ảnh đẹp đẽ của người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn . Âm điệu đối chọi mà trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Những chiếc xe ấy đã bị bom đạn chiến tranh phá hủy nặng nề, mất đi cả những hệ số an toàn, tưởng như không thể lăn bánh. Vậy mà những người chiến sĩ lái xe đâu có chịu dừng. Những chiếc xe vận tải của họ chở lương thực, thuốc men, đạn dược vẫn chạy trong bom rơi đạn lửa bời phía trước là miền Nam đang vẫy gọi. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi.

Công cuộc giành độc lập tự do của nửa nước vẫn phải tiếp tục. Dùng hình ảnh tương phản đối lập, câu thơ không chỉ nêu bật được sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên gian khổ, ác liệt mà còn nêu bật được ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Hơn thế hình ảnh hoán dụ “một trái tim” là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ .Hình ảnh trái tim là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì Miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm tuyệt vời. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam.

Hình ảnh này kết hợp cùng kết cấu câu “vẫn – chỉ cần” đã lý giải về sức mạnh vượt khó, khẳng định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc chiến của người lính lái xe. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái? Tình yêu Tổ Quốc, tình yêu thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc tay lái, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích?

Ẩn sau ý nghĩa trái tim cầm lái, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là con người- con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc. Có thể nói hay nhất là câu thơ cuối cùng này. Nó là nhãn tự, là con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ. Vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính nhưng câu thơ lại lắng sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý nghĩa như một lời thề thiêng liêng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có đạn bom nào của kẻ thù có thể làm lay chuyển được. Chính điều đó đã tạo nên cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng để chúng ta mãi mãi yêu quý và cảm phục.

Người lính trong thơ Phạm Tiến Duật đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những người có lý tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên họ rất dũng cảm và mang những nét thanh thản, vui tươi. Bài thơ không chỉ phản ánh được cái khốc liệt, sự gian khổ của chiến tranh qua hình ảnh những chiếc xe không kính mà từ trong những gian khổ, sự khốc liệt ấy bài thơ còn là lời khẳng định ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Hình ảnh những người lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng mọi người với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.

Phân tích khổ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 5

Phạm Tiến Duật là một trong các nhà thơ thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước. Thơ của ông lôi cuốn người đọc bằng sự sống động, tự nhiên, táo bạo. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những bài thơ để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc bởi hình ảnh người chiến sĩ lái xe hiên ngang dũng cảm, bất chấp khó khăn, cùng quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt.

Hình ảnh chiếc xe bị bom đạn Mỹ phá đến biến dạng càng góp phần khắc họa rõ nét hình ảnh người chiến sĩ lái xe dũng cảm, kiên cường vì sự nghiệp giải phóng miền Nam. Ở hai câu đầu của khổ thơ cuối, hình ảnh chiếc xe không kính trên tuyến đường Trường Sơn đã hiện lên với một vẻ rất kỳ quặc:

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe cỏ xước.

Ở đầu bài thơ, Phạm Tiến Duật đã giải thích cho người đọc biết vì sao những chiếc xe làm nhiệm vụ không có kính. Bom đạn chiến trường đã làm cho chúng trở thành như vậy. Thế nhưng, hình chiến tranh ngày càng ác liệt, những chiếc xe “từ trong bom rơi” cũng ngày càng trơ trụi hơn, tàn tạ hơn. Từ việc không có kính, rồi không có mui, giờ đây, chiếc xe không còn có cả đèn – một bộ phận vô cùng quan trọng, nhất là khi chạy trên con đường Trường Sơn gập ghềnh, đầy hố bom vào ban đêm. Rồi xe không có mui che chắn, vì vậy, nếu gặp trận mưa thì thùng xe sẽ chứa đầy nước.

Câu thơ thể hiện được sự khốc liệt của chiến tranh. Nhưng đây không phải là lời ca thán, bi ai. Bằng giọng thơ ngang tàng pha chút hóm hỉnh, giọng điệu tự nhiên, rất lính tráng, Phạm Tiến Duật đã mang được vào trong thơ cả chất trẻ trung, sự hồn nhiên, yêu đời của người chiến sĩ cách mạng:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim

Không có kính, không đèn, không có cả mui. Điệp từ “không” nhấn mạnh được sự khó khăn của các chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn. Thế nhưng, xe vẫn bon bon lăn bánh trên con đường ấy, bất chấp tất cả mọi hiểm nguy. “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”, câu thơ đã phần nào lột tả ý chí chiến đấu vì miền Nam, vì Tổ quốc của những người lính lái xe quả cảm. Từ “vẫn chạy” cho thấy sự kiên cường, dù phải chịu bao nhiêu nguy hiểm, khó khăn, họ cũng không lùi bước. Còn cụm từ “vì miền Nam phía trước” toát lên niềm tin vào hòa bình, thống nhất, là sự thể hiện mạnh mẽ tình yêu quê hương, đất nước của những người lính lái xe, nó đã ăn sâu vào con người các anh. Ý chí đó kết tinh sâu đậm ở câu thơ cuối:

Tham khảo thêm:  

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Đây là câu thơ thể hiện sự hiến dâng trọn vẹn của những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy “mưa bom bão đạn”: “chỉ cần” có một “trái tim”, chỉ cần trái tim còn nhịp đập, chỉ cần còn sống, còn một hơi thở cuối cùng các anh vẫn chiến đấu không chùn bước. Hình ảnh “trái tim” chính là hình ảnh ẩn dụ về người lính lái xe mà trái tim các anh đã ngấm sâu lý tưởng cách mạng, lý tưởng về một Tổ quốc thống nhất, tươi đẹp.

Trong bài thơ Vầng trăng và những quầng lửa, tình cảm của những người chiến sĩ lái xe với miền Nam cũng trỗi dậy ngọt ngào, thúc giục:

Xe chạy trong đêm rì rầm, rì rầm
Tiếng mạch đất hai miền hòa làm một

(Phạm Tiến Duật)

Khẳng định khó khăn, gian khổ ngày càng tăng nhưng nhiệm vụ đánh giặc vẫn là trên hết. Không có khó khăn nào, kẻ thù nào cản nổi xe ta đi. Đơn giản vì trong xe có một trái tim của người chiến sĩ lái xe anh hùng. Có thể nói, nhà thơ đã khai thác thật hiệu quả nghệ thuật đối lập giữa “không” và “có” giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, vẻ bên ngoài xe và bên trong chiếc xe không kính, không đèn, không mui. Để bất ngờ sáng lên hình tượng trái tim, trái tim nồng nàn nhiệt huyết yêu nước của người lính. Phải chăng, đây chính là cội nguồn sức mạnh, cội nguồn của bao phẩm chất sáng ngời của người lính giải phóng quân? Và phải chăng, hình tượng trái tim cao đẹp ấy cũng chính là lời khẳng định sâu sắc về một chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người, con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và niềm tin vững chắc. Câu thơ tỏa sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng người lính. Tứ thơ thoải mái, nhẹ nhõm mà gợi suy luận, triết lý thật sâu xa.

Đường ra trận gian nan nhưng tâm hồn người lính không vì thế mà không rực sáng. Hình ảnh những chiếc xe không kính với trái tim nồng nàn tình yêu quê hương đất nước bon bon làm nhiệm vụ sẽ luôn là một hình ảnh đẹp trong lòng độc giả nhiều thế hệ.

Phân tích khổ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 6

Trong chặng đường văn học giai đoạn 1945 – 1975, cùng với rất nhiều nhà thơ trẻ khác Phạm Tiến Duật cũng mạnh dạn góp ngòi bút của mình vào vườn thơ ca kháng chiến. Với bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ông đã phần nào khẳng định tài năng, trách nhiệm của mình trước vận mệnh của dân tộc. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh của những chiếc xe không kính cùng phong thái ung dung ngang tàng của những người lính lái xe. Và khép lại bài thơ là ý chí bền bỉ chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước:

“Không có kính rồi xe không có đèn
……………
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Lời thơ tựa như lời kể chuyện, kể thêm về cái khốn khó của một thời chiến đấu không thể nào quên. Với ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, những mốc chiếc xe không chỉ không có kính mà còn hơn thế là:

“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước”

Cùng với điệp ngữ “không có” cùng một loạt hình ảnh liệt kê “thùng xe, mui xe, đèn xe” giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn cái ác liệt nơi chiến trường. Giờ đây, xe không chỉ không có kính mà xe còn không có đèn rồi lại không có mui xe, thùng xe thì bị xước trở nên biến dạng, xấu xí. Chiếc xe bỗng trở nên trần trụi và dị dạng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trái ngược với hình dạng không ưa nhìn của những chiếc xe là tâm hồn phơi phới dậy tương lai của những người lính lái xe:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”

Dù cho ngoại cảnh có khốc liệt, vật chất có thiếu thốn như thế nào đi chăng nữa thì bánh xe vẫn lăn thẳng về miền Nam thân yêu. Phải chăng chính tình yêu Tổ quốc, tinh thần tự tôn dân tộc đã thôi thúc, động viên những người lính trẻ cầm chắc tay lái vượt qua rào cản khó khăn và với họ thì:

“Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Dẫu có bao nhiêu gian khó thì cũng chỉ cần có “trái tim” là đủ. “Trái tim” nồng nàn yêu nước hay tinh thần lạc quan của người lính thì cũng vậy. Nó đã vượt lên cái khốn khó “không đèn, không kính, không mui xe, thùng xe xước” để hóa thành tinh thần lạc quan, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hình ảnh khép lại bài thơ lại có sức lan tỏa, làm sáng dậy một tình yêu đất nước sâu nặng. Mọi thứ có thể thiếu nhưng thứ duy nhất không thể mất đi chính là niềm tin vững vàng của người cầm lái. Chỉ có con người và chỉ có tình yêu mới có thể giúp cuộc kháng chiến của dân tộc thành công. Đến đây, câu thơ như đang biểu dương, ngợi ca những người lính lái xe, những anh bộ đội cụ Hồ.

Nếu như trong thơ của Chính Hữu, người lính trong kháng chiến chống Pháp xuất thân từ những miền quê nghèo khó nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc họ từ giã quê hương bước vào mặt trận, họ bước vào kháng chiến với muôn vàn khó khăn:

“Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

hay:

“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá”

thì khi đến với “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ta lại bắt gặp một thế hệ trẻ bước vào kháng chiến với niềm vui và tinh thần lạc quan, họ được giác ngộ về lí tưởng Cách mạng, họ là những người lính có học thức cao hơn, ý thức hơn về trách nhiệm của mình với vận mệnh của dân tộc.

Cảm nhận khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Phạm Tiến Duật được gọi là “Viên ngọc Trường Sơn của thơ ca”. Đặc biệt mảng thơ về người lính lái xe của ông đã để lại một ấn tượng thật thú vị. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những “Viên ngọc Trường Sơn” đó. Cuối bài thơ tác giả đưa ra một tứ thơ bất ngờ – đó là trái tim cầm lái: “Không có kính….trái tim”. Chiếc xe không kính – Một hình ảnh trần trụi của chiến tranh, trong chiếc xe ấy người lái xe phải huy động mọi giác quan, năng lực để lái xe trong mạo hiểm, phiêu lưu. Tất cả đều vượt qua bởi một điều hết sức giản dị mà thiêng liêng:

Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Đây là hình ảnh sâu sắc nhất của cả bài thơ. Nhà thơ đã nói đúng tinh thần thời đại: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu), cả nước lên đường đánh Mĩ vì miền Nam ruột thịt. Vậy là trái tim vì miền Nam yêu thương đã giúp người lính vượt qua gian khổ trên những chiếc xe không kính, không đèn, không mui xe.. Trái tim rực lửa căm thù giặc Mĩ và nóng bỏng yêu thương đồng bào miền Nam ấy chính là vẻ đẹp sâu thẳm của tâm hồn Việt Nam thời đánh Mĩ là trái tim nhân hậu thủy chung của cả dân tộc. Phạm Tiến Duật đã thể hiện thành công tâm hồn một thế hệ trẻ Việt Nam yêu nước trong những năm tháng hi sinh gian khổ mà vì dân tộc ta.

Chiến tranh đã lùi xa, nhưng thơ Phạm Tiến Duật với hình tượng người chiến sĩ lái xe và “Vết xe lăn Trường Sơn” sẽ còn sống mãi trong tâm hồn của những người Việt Nam yêu nước. Những chiếc xe cùng con người anh hùng của một thời ấy đã góp phần làm nên huyền thoại về Trường Sơn, về Việt Nam anh dũng kiên cường.

Cảm nhận tình yêu nước của người lính lái xe qua khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Tình yêu nước thiết tha, tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” của người lính lái xe thể hiện rõ ràng nhất qua khổ cuối của bài thơ. Bằng ngôn ngữ, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã tạc nên bức thành đồng của dân tộc, khắc vào thế kỉ hình tượng người lính anh dũng, kiên cường, không bao giờ bị khuất phục bởi một lí do duy nhất: tình yêu miền Nam ruột thịt và khát vọng thống nhất đất nước là nguồn sức mạnh bất diệt, thúc giục các anh bất chấp hiểm nguy, đưa xe ra trận.

Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất vô tư, sôi nổi, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Khó khăn gian khổ các anh coi thường. Khí phách ấy thể hiện qua cách nói chắc nịch: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”. Thái độ “chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc”, “chưa cần thay, lái trăm cây số nữa” là sự thách thức, coi thường khó khăn gian khổ. Những chiếc xe từ trong bom rơi, bị bom giật, bom rung, nhưng người chiến sĩ vẫn ung dung. Các anh nhìn thẳng phía trước, vui vẻ bắt tay nhau.

Xe hư hỏng không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước, nhưng “xe vẫn chạy vì miềnn Nam phía trước”. Tất cả vì tiền tuyến, mặt trận. Đó là khẩu hiệu của họ. Và những chiếc xe mang đầy thương tích vẫn lăn bánh ra mặt trận dù đạn bom man rợ đang thét gào. Có thể nói những người lái xe, người làm chủ phương tiện là yếu tố quyết định làm nên thắng lợi trên mặt trận vận tải và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Cuộc chiến đấu ngày càng gian khổ, ác liệt (qua hình ảnh những chiếc xe ngày càng méo mó, biến dạng). Bất chấp gian khổ, hy sinh, những chiếc xe vẫn thẳng đường ra tiền tuyến. Những người lính lái xe quả cảm vững tay lái vì họ có một trái tim tràn đầy nhiệt tình cách mạng, tình yêu tổ quốc nồng nàn, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam sắt đá.

Hai câu cuối của “bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã khắc đậm hình tượng đẹp đẽ của người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn.

“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Những chiếc xe ấy đã bị bom đạn chiến tranh phá huỷ nặng nề, mất đi cả những hộ số an toàn tưởng như không thể lăn bánh. Vậy mà những người chiến sĩ lái xe đâu có chịu dừng. Những chiếc xe vận tải của họ chở lương thực, thuốc men, đạn dược vẫn chạy trong bom roi đạn lửa bởi phía trước là miền Nam đang vẫy gọi. Công cuộc giành độc lập tự do của nửa nước vẫn phải tiếp tục.

Dùng hình ảnh tương phản đối lập, câu thơ không chỉ nêu bật được sự ngoan cường, dũng cảm vượt lên trên giản khổ, ác liệt mà còn nêu bật được ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Hơn thế hình ảnh hoán dụ “một trái tim” là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ chỉ người lính lái xe, chỉ có sự nhiệt tình cứu nước, lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Hình ảnh này kết hợp cùng kết câu câu “vẫn – chỉ cần” đã lý giải về sức mạnh vượt khó, khẳng định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc chiến của người lính lái xe. Chính điều đó đã tạo nên cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng để chúng ta mãi mãi yêu quý và cảm phục.

Yêu nước, quyết đánh giặc cứu nước chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe tiến về miền Nam. Để ước mơ này trở thành hiện thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi. Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính 4 Dàn ý & 11 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *