Bạn đang xem bài viết ✅ Văn mẫu lớp 12: Phân tích cái tôi trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông (Dàn ý + 4 Mẫu) Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài Ai đã đặt tên cho dòng sông bao gồm gợi ý cách viết chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu khác nhau cực hay. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều tài liệu học tập củng cố kỹ năng làm văn hay.

TOP 4 bài phân tích cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường mà Wikihoc.com giới thiệu dưới đây sẽ là tài liệu thiết thực đối với các em trong quá trình học tập, tự học và tự đọc để nâng cao mở rộng vốn cảm nhận văn học của mình thêm phong phú. Ngoài ra các bạn xem thêm bài văn mẫu: mở bài Ai đã đặt tên cho dòng sông, Phân tích vẻ đẹp của dòng sông Hương khi ở thượng nguồn.

Dàn ý cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường

I. Mở bài

– Giới thiệu về Hoàng Phủ Ngọc Tường và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, giới thiệu cái tôi trữ tình của tác giả trong tác phẩm

II. Thân bài

a. Giải thích cái tôi trữ tình và khái quát cái tôi trữ tình của nhà văn

– Cái tôi trữ tình là một thuật ngữ thuộc lĩnh vực Lý luận Văn học, chỉ tâm trạng, cảm xúc, cảm nhận của tác giả, là tâm hồn của riêng tác giả trước hiện thực khách quan. Qua cái tôi trữ tình, người đọc có thể cảm nhận được những suy nghĩ, tư tưởng và quan niệm…của tác giả trước cuộc đời.

– Cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là cái tôi mê đắm, tài hoa, uyên bác và có tình yêu say đắm quê hương, xứ sở, đặc biệt với Huế và Hương giang.

b. Cái tôi mê đắm và tài hoa

– Miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương từ góc nhìn địa lý

  • Cẩn trọng và kì công đúc kết từng câu từng chữ tinh tế và ngập tràn ưu ái, miêu tả dòng chảy của Hương giang từ thượng nguồn đến khi về đồng bằng
  • Dẫn chứng: “bản trường ca của rừng già”, “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”, “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”…

=> Tất cả những câu văn miêu tả sông Hương đều đẹp đến lạ lùng.

– Góc nhìn lịch sử về dòng sông.

  • Trong cái nhìn của nhà văn, sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.
  • Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một dòng chảy địa lý của thiên nhiên, nó từ lâu đã trở thành một sinh thể có tâm trạng, biết yêu nước trong những tháng ngày gian khổ hào hùng của dân tộc.

– Cái tôi tài hoa, mê đắm của ông cảm nhận được không chỉ một vẻ thuần nhất của dòng sông mà còn rất nhiều vẻ đẹp phong phú khác. Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm nhận riêng cho người đọc.

– Tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp nghệ thuật.

  • Đoạn văn miêu tả sông Hương ở thượng lưu : “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
  • Lối hành văn uyển chuyển với ngôn từ đa dạng và hình ảnh phong phú.
  • Đặc biệt, sử dụng thành công nghệ thuật nhân hóa, so sánh, gợi hình ảnh dòng sông sinh động như con người, lúc “rầm rộ” và “mãnh liệt”, lúc “dịu dàng” và “say đắm”; khi lại “vui tươi hẳn lên”.

=> Trí tưởng tượng phong phú cùng những liên tưởng táo bạo đã giúp tác giả nêu bật những cảm nhận đa dạng về sông Hương. Cuộc hành trình tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông” trở nên đầy say mê và hào hứng.

c. Cái tôi uyên bác và giàu vốn hiểu biết

– Miêu tả sông Hương, nhà văn dường như thông thuộc từng bước đi, ngã rẽ, dòng chảy. Không chỉ biết chỗ nào cuộn xoáy, chỗ nào yên ả…

– Ông thậm chí phát hiện được những điều mà ngay cả người Huế cũng không nghĩ đến: sông Hương giống như “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.

– Cái tôi uyên bác của nhà văn đã khám phá và phát hiện những đặc điểm văn hóa thú vị của sông Hương.

  • Vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của con sông khi chảy bên những lăng tẩm đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn… Hay còn là dòng sông thi ca, cội nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ.
  • Giai thoại tuyệt đẹp về nguồn gốc tên gọi của sông Hương: “Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”.

=> Hoàng Phủ Ngọc Tường nhờ đó đã mang đến cho người đọc nhiều tri thức về sông Hương nói riêng và Huế nói chung.

d. Cái tôi yêu tha thiết quê hương, xứ sở, Huế và sông Hương

– Nếu chỉ là cảm xúc rung động nhất thời trước vẻ đẹp của con sông, của xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ không thể viết lên được những trang văn mê đắm và rất đỗi tài hoa như thế.

– Yêu Huế, yêu Hương giang, nhà văn mới có được những rung cảm mãnh liệt

– Tình cảm đặc biệt ấy hóa thành những dòng chảy trong tâm hồn nhà văn để rồi tạo nên cả cái tôi mê đắm, tài hoa và uyên bác.

– Tình yêu Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho Hương giang thực ra chính là tình yêu tha thiết, mãnh liệt dành cho đất nước.

III. Kết bài

– Đánh giá lại cái tôi trữ tình và phong cách tác giả, giá trị tác phẩm

Phân tích cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường – Mẫu 1

Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là một trong những thiên tùy bút xuất sắc nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng và của thể loại bút kí, tùy bút trong nền văn học nước ta nói chung. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả của nó từng được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay”. Bởi như chúng ta đã biết, ở thể loại bút kí, sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ phụ thuộc vào những ghi chép của tác giả với lượng tri thức phong phú, thông tin mới mẻ mà còn tùy thuộc vào “duyên ngầm” của cái “tôi” nhà văn. Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ bộc lộ mình như một người nghệ sĩ có năng lực khảo cứu của nhà khoa học, là một nhà khoa học mang trong mình cốt cách của người nghệ sĩ tài hoa mà còn thể hiện mình như một nhà thơ viết văn xuôi, một nhà văn có tâm hồn thi sĩ. Chính sự đan cài, “hai trong một” của các yếu tố ấy đã làm nên một hình tượng cái “tôi” đầy hấp dẫn, có sức mời gọi bạn đọc, góp phần quan trọng vào thành công của tác phẩm.

Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là bài kí đặc sắc về con sông Hương của xứ Huế. Đọc bài kí, ai cũng dễ dàng nhận thấy : tác giả của nó – nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành hết tâm sức và tình cảm của mình, thậm chí cả tinh hoa và tinh huyết của một đời văn để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của Hương giang. Chỉ nói riêng về thủy trình của dòng sông từ thượng nguồn đổ về xuôi rồi đi ra biển, ta có thể thấy nhà văn đã say sưa và kì công “đúc câu luyện chữ” để dành tặng cho dòng sông mà mình yêu dấu như thế nào : ở thượng nguồn, sông Hương là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Khi rời vùng núi để về đồng bằng, con sông hiện lên giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”. Chảy giữa lòng thành phố yêu thương sông Hương là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, để rồi trước khi chia tay “người tình mà nó mong đợi” ở “thị trấn Bao Vinh xưa cổ” sông Hương giống như nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa… Dường như nhà văn đã dành những câu chữ đẹp nhất trong vốn liếng ngôn ngữ của mình để gọi tên sông Hương, để định danh những vẻ đẹp vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo của nó. Những lời hay ý đẹp ấy đâu phải dễ thường mà có ngay được. Nó hẳn phải là kết tinh của tình yêu sâu đậm, của những hiểu biết tường tận về dòng sông và của một lối tư duy sắc bén đã được tưới tắm trong niềm xúc cảm say mê, để rồi thăng hoa trong cảm hứng nghệ thuật.

Tuy nhiên, đó mới chỉ là góc nhìn địa lý. Từ góc nhìn lịch sử, con sông của xứ Huế cũng hiện lên trong cảm hứng say mê ngợi ca của nhà văn. Sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Trong chiến tranh, nó “biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công”. Nhưng khi trở về đời thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm một “người con gái dịu dàng của đất nước”. Thì ra, với Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ lâu sông Hương đã không còn đơn thuần là một dòng chảy địa lý mà nó giống như sinh thể có tâm trạng, nó là một người dân Việt Nam yêu nước trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Cũng như những dòng sông khác trên đất nước Việt Nam, như con người Việt Nam, nó mang trong mình vẻ đẹp truyền thống đã làm thành bản sắc văn hóa Việt :

Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa

(Nguyễn Đình Thi)

Sống vững trãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa

(Huy Cận)

Có thể nói, bằng tình yêu và tài năng của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm kiếm, phát hiện và khẳng định những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương. Hành trình chữ nghĩa ấy về con sông xứ Huế không chỉ nói lên tình cảm yêu mến, sự say mê đến độ đắm đuối của nhà văn trước những vẻ đẹp độc đáo, đa dạng của Hương giang mà còn cho thấy sự tài hoa, chất lãng mạn bay bổng của tác giả.

Nói đến sự tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thiết nghĩ trước hết phải nói đến cách nhìn nhận và phát hiện của nhà văn về vẻ đẹp của dòng sông. Ở đây, sông Hương không hiện lên với một vẻ đẹp thuần nhất mà hiện ra trong những vẻ đẹp khác nhau và hết sức phong phú. Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm nhận riêng thú vị cho độc giả. Chỉ riêng việc hình dung vẻ đẹp của sông Hương như vẻ đẹp của người thiếu nữ, ta đã thấy ít nhất năm lần trong đoạn trích này sông Hương mang những nét quyến rũ riêng : “cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”; “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”; “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”; “giống như nàng Kiều trong đêm tình tự”; “người con gái dịu dàng của đất nước”. Ngoài những “mệnh đề” đã được khái quát như thể chỉ dành riêng cho sông Hương, các đoạn miêu tả dòng chảy uốn lượn của con sông đều đem đến cảm nhận về vẻ đẹp gợi cám, đáng yêu của người thiếu nữ. Khi thì giống như những đường cong trên thân thể người con gái : “sông Hương đã chuyển dòng liên tục, vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”; khi thì như tấm lụa mềm mại “dòng sông mềm như tấm lụa”; có lúc lại giống cái dáng vẻ yêu kiều và tiếng nói dễ thương của người gái đẹp : “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”…

Tham khảo thêm:   Giáo án Khoa học tự nhiên 8 sách Cánh diều Kế hoạch bài dạy lớp 8 môn KHTN (Cả năm)

Có thể thấy, trí tưởng tượng phong phú và những liên tưởng mạnh mẽ đã cung cấp cho tác giả những cách nhìn khác nhau về sông Hương. Không những thế, nó còn cung cấp nguyên liệu cho những suy cảm của cái tôi trữ tình về con sông yêu dấu. Trong những suy cảm ấy, không ít suy cảm sao mà đẹp, mà đầy chất thơ và độc đáo, cuốn hút đến lạ thường. Chẳng hạn như khi cái tôi tác giả hình dung sông Hương ở thượng nguồn như “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Ai cũng biết những cô gái Di-gan hay Bô-hê-miêng là những người thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát. Họ mang trong mình vẻ đẹp nguyên sơ, bản năng, tự nhiên đầy quyến rũ. Ví sông Hương như những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dã nhưng cũng rất tình tứ của con sông xứ Huế. Đặc biệt, trong cách nhìn và cách nghĩ về Hương giang, nhà văn rất hay liên tưởng sông Hương với những trang Kiều của Nguyễn Du. Chẳng hạn, ông đã nhìn thấy sự tương đồng giữa những bức tranh phong cảnh trong truyện Kiều với khung cảnh thiên nhiên hữu tình của Huế, của dòng sông Hương thơ mộng : “dòng sông đáy nước tin trời và nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết”. Ông đã thấy “sông Hương và thành phố của nó” như hình ảnh “của cặp tình nhân lý tưởng của truyện Kiều”, như đôi tài tử giai nhân Thúy Kiều – Kim Trọng “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”. Điều này, thậm chí, còn được lặp lại một lần nữa khi nhà văn tưởng tượng chỗ rẽ của dòng sông để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ với “nỗi vương vấn” của nàng Kiều “chí tình” trở lại tìm Kim Trọng “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Vậy đó, địa thế của con sông, khúc đổi chiều của dòng nước đã được nhà văn hình dung như nỗi niềm, tâm sự của con người, của Thúy Kiều trong trang sách của Nguyễn Du…

Cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường – Mẫu 2

Một chiều thu xưa cũ, tôi ngồi nghe lại khúc “Diễm xưa” của Trịnh Công Sơn:

“Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”.

Đã mấy thập kỷ trôi qua, mà nhạc Trịnh vẫn khiến người ta si mê nhiều đến thế. Vậy điều gì đã thực sự làm nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật? Tôi thiết nghĩ đó là trái tim, là tài năng và là cái “tôi” của một người nghệ sĩ. Không có Trịnh, sẽ chẳng có một “Diễm xưa”, sẽ chẳng có những lời ca gieo vào lòng người biết bao nhiêu là thổn thức. Trịnh, hay chính tài năng của Trịnh, cái “tôi” của Trịnh đã tạo nên thứ nghệ thuật thoát li ra khỏi mọi định luật băng hoại của thời gian ấy. Chẳng riêng gì âm nhạc, câu chuyện sáng tạo nghệ thuật là câu chuyện của muôn đời, muôn thời, muôn người nghệ sĩ. Phải lăn lộn với nghề nhiều năm, phải thực sự gắn bó với kiếp sống của đời nghệ sĩ “uống mặn nồng nhưng chỉ thấy chua cay”, phải đau đớn thay cho những thân kiếp sống trên đời, phải thương yêu vạn vật tất thảy, phải xót xa cho những gì đã mất, và hoài tiếc cho những thời đã qua, người nghệ sĩ mới có đủ trải nghiệm, đủ dạn dĩ để chắp nên những áng văn chương bất hủ. Đi nhiều, nghĩ nhiều, ngẫm nhiều, sống nhiều, người nghệ sĩ mới có thể phát kiến ra và đưa vào trong những trang sách cái “tôi” của riêng mình. Và Hoàng Phủ Ngọc Tường với tuyệt bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã tỏ rõ cho hậu thế hôm nay và mai sau cái “tôi” của một đời văn nhân trào dâng nơi đầu ngọn bút.

Sáng tạo nghệ thuật là biểu hiện rực rỡ của các phạm trù: cái chủ quan, cái cá biệt, cái đặc thù, cái không lặp lại trong tài năng của nghệ sĩ. Cá tính sáng tạo biểu hiện ở cái nhìn nghệ thuật độc đáo, ở cách cảm nghĩ của nhà văn có khả năng đề xuất những nguyên tắc, biện pháp nghệ thuật mới mẻ, tạo thành một ngôn ngữ nghệ thuật mới trong việc biểu hiện những nội dung mới của đời sống và tư tưởng. Nếu cá tính sáng tạo của nhà văn mờ nhạt, không tạo ra được một tiếng nói riêng, một giọng điệu riêng thì đó chính là sự tự sát trong văn học. Bởi lẽ “tự tử đối với người nghệ sĩ không phải phát súng hay dây thừng mà là khi ngồi vào bàn viết anh ta không viết được điều gì mới mẻ”. Vậy nên các nhà văn, nhà thơ đều ý thức được việc “làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Cái “tôi” được hiểu là nét riêng, điểm khác biệt của mỗi cá nhân. Trong lĩnh vực nghệ thuật, cái “tôi” không chỉ thể hiện con người mà còn thể hiện phong cách nghệ thuật của tác giả. Chính nhờ cái tôi đó mà người nghệ sĩ kia mới có thể tạo ra cho mình một dấu triện riêng trên bến văn đàn, để mỗi tác phẩm nghệ thuật của mình mang hình hài một chiếc lá, thả mình vào dòng chảy niên viễn của thời gian.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong những thiên tùy bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng và của thể loại bút kí, tùy bút trong nền văn học nước ta nói chung. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Tô Hoài nhận xét: “Hoàng Phủ Ngọc Tường trầm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của Huế”. Ông đã lắng nghe rất kĩ, ghi tạc rất sâu những khoảnh khắc tưởng đâu chừng đã quá đỗi dung dị , quá đỗi đời thường của dòng Hương giang ấy, để khi những dệt rung cảm tế vi, mến thương ấy ngập tràn trong đôi mắt; tâm thức ông, ngòi bút ông sẽ viết, thật đẹp và thật hay. Tài liệu của trang thayhieu.net. Ông viết về sông Hương như viết đôi ba dòng thư tình dành tặng người con gái mình yêu, ban sơ và bình dị. Và chắc cũng vì cái lẽ đó mà thứ còn lại sau một lời “phu chữ” của ông chính là những áng văn chương về sông Hương được chắp nên từ cái “tôi” tài hoa, uyên bác và nặng lòng với quê hương xứ sở.

Tuy nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” có phần nhiều nghiêng về tùy bút, tức là thiên về chất trữ tình và sự phóng khoáng nhưng cái hồn cốt của nó không vì thế mà mất đi. Bản chất của kí là ghi chép và người viết chính là “thư kí trung thành của thời đại”. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người thư ký như thế và thậm chí là một “thư kí” xuất sắc của dòng Hương giang. Ông am tường về sông Hương trên mọi bình diện lịch sử, văn hóa, địa lí. Ở góc độ địa lí, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm hiểu sông Hương trực tiếp ở thượng nguồn để phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Đây là dòng sông có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà nó mang trong mình dáng dấp của một bản trường ca rừng già với tiết tấu hùng tráng, dữ dội. Với dòng Hương giang, ông không chỉ thân thuộc từng cái “chuyển dòng”, từng khúc “uốn mình” “vòng giữa”, từng đường cong, từng ngã rẽ; không chỉ nắm bắt từng chỗ cuộn xoáy, từng chỗ yên ả, phẳng lặng… của con sông trong từng không gian địa lí mà còn là cả một chiều dài “bốn nghìn năm đất nước”, từ thuở “nó còn là một dòng biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng”. Trong cái nhìn về địa ví và lịch sử, ông không chỉ am tường về những kiến thức đã có trong các tư liệu mà còn là cả những kiến thức không mấy người biết đến và nghĩ đến, ông cũng đều thấu tỏ tận tường. Ấy là vai trò của dòng sông – “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”. Bấy lâu nay khi viết về sông Hương, bất kì người nghệ sĩ nào cũng đắm chìm trong vẻ đẹp “phóng khoáng và man dại” của “cô gái Di-gan” sắc nước nghiêng thành. Hoàng Phủ Ngọc Tường, con người dành trọn một hành trình sống của mình để yêu và thương sông Hương, đã thoát ra khỏi kiểu đồng phục tư tưởng để chạm khắc nên dòng sông trên con đường độc đạo của riêng mình. Dưới ngòi bút của ông, Hương giang mang trong mình vẻ đẹp dịu dàng, toàn bích và đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con xứ Huế, bồi đắp nên nền văn hóa hai bên bờ sông cho cố đô bằng dòng phù sa ngọt ngào, ấm nóng. Đã mấy mươi thế kỉ trôi qua, trải qua bao bể dâu của cuộc đời, bao hưng phế của thời đại, sông Hương vẫn thế, vẫn lặng lẽ, vẫn âm thầm cống hiến, bồi đắp phù sa để hình thành nên nền văn hóa rực rỡ, giống như một người mẹ hiền lúc nào cũng thầm lặng hi sinh, chịu đựng, tất cả vì những đứa con thương yêu, chẳng mưu cầu đáp trả, chỉ mong sao “mai này con ta lớn lên/ con sẽ mang đất nước đi xa/ đến những tháng ngày mơ mộng”.

Nhưng thú vị nhất vẫn là những khám phá, phát hiện và miêu tả của nhà văn về sông Hương dưới góc độ văn hóa. Dấu tích văn hóa ở cả trên và hai bên bờ sông. Đó là “vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi” của “người con gái dịu dàng của đất nước” khi chảy qua lăng tẩm của những vua chúa triều Nguyễn; là cái nôi của nền âm nhạc cố đô. Đó còn là dòng sông thi ca – nơi đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ văn nghệ sĩ nói chung và các nhà thơ nói riêng. Như Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường Giang như kiếm lập thanh thiên”. Như Hàn Mặc Tử đứng trước dòng sông mà trắc ẩn, bồi hồi: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp tối nay”. Tài liệu của trang thayhieu.net. Như Thu Bồn đã từng nhìn điệu chảy lững lờ của Hương giang mà băn khoăn “Con sông dùng dằng, con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Hay như một con sông Hương cứ mãi quan hoài trong nỗi sầu vạn cổ của Bà Huyện Thanh Quan, có sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ của Tố Hữu. Quả không ngoa khi nói sông Hương là mảnh đất hiện thực màu mỡ, luôn nghiêng mình hiến dâng thứ mực trân quý nhất, để mỗi nhà văn khi đến nơi đây đều có thể chấm bút vào nghiên mà chưng cất nên “những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ như đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu”.

Có thể nói bằng những hiểu biết phong phú, nhà văn đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin lớn về địa lí, lịch sử, văn hóa Huế nói chung và sông Hương nói riêng. Vốn kiến thức sâu rộng đó hẳn phải là kết quả của nhiều chuyến du lãm và du khảo trên dặm dài mảnh đất cố đô. Nhưng cái chính vẫn là những trang văn về Hương giang đã đuộc tưới tắm trong vô vàn những cung bậc cảm xúc của tác giả, đã thăng hoa trong cảm giác mê đắm của một đời văn nhân.

Cái “tôi” của tác giả còn là một cái “tôi nặng lòng với quê hương, xứ sở. Chắc rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường phải yêu, phải thương cái mảnh đất này lắm mới có thể lột tả dòng sông quê hương một cách xuất sắc đến vậy. Ông đã dành toàn bộ tâm huyết của mình để theo dõi toàn bộ thủy trình với vốn hiểu biết sâu rộng về các kiến thức liên quan. Chính vì thế, những áng văn của ông luôn là những gì trong veo, ban sơ nhất của dòng sông Hương tự buổi hồng hoang. Và vì thứ tình cảm nồng đượm đối với những điều dung dị, đời thường nhất của dòng sông Hương như thế nên con chữ ông chính là thứ còn lại của một thời đại, một đời văn nhân yêu mến những điều nhỏ bé, những vẻ đẹp mong manh cơ hồ tựa mảnh trời xanh như muốn vỡ ra dưới hiên nhà một chiều nắng nhạt. Chính con sông đã khiến trái tim ấy, tâm hồn ấy, con người ấy phải ngân rung lên những nhịp yêu thương với nhiều cung bậc khác nhau: khi thì băn khoăn, trăn trở, e ngại con người; khi lại khắc khoải đến nao lòng một nét sông Hương với điệu chảy lững lờ mà ông gọi là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế; có khi “thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày” bởi “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”… Những cảm xúc ấy chỉ là một trong số rất nhiều những biểu hiện của tình cảm gắn bó yêu thương đối với sông Hương mà nhà văn đã trực tiếp nói ra và kín đáo thể hiện. Tình cảm đối với sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, xét cho đến cùng, là tình cảm đối với đất nước, là tấm lòng yêu mến quê hương xứ sở đến độ nồng cháy của nhà văn. Tài liệu của trang thayhieu.net. Tôi tự hỏi nếu không phải xuất phát từ cái tình chân thành, nồng cháy đó thì làm sao ông có thể viết, làm sao con chữ của ông có thể chạm được đến những khoái cảm thẩm mĩ của biết bao thế hệ? Con chữ dưới ngòi bút ông được ướp đắp trong men say của cái tình thuần khiết ấy, của cái tình chân thành và dung dị nhất, dễ gây thương nhớ nhất. Và vì thế, văn của con người ấy bao giờ cũng ẩn mình dưới lớp ngôn từ dịu nhẹ, một vùng ánh sáng lấp lánh mà chỉ ai trân quý cái đẹp, trân quý dòng Hương giang và trân quý quê hương, xứ sở mới có thể tỏ tường.

Tham khảo thêm:   Văn mẫu lớp 7: Đoạn văn giải thích câu tục ngữ Một mặt người bằng mười mặt của 2 đoạn văn mẫu lớp 7

Và cái “tôi” tinh tế, lãng mạn với trí tưởng tượng phong phú, bay bổng chính là điều cuối cùng giúp Hoàng Phủ Ngọc Tường đặt dấu triện của mình vào văn đàn Việt Nam hiện đại. Nghệ thuật chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hiện thực cuộc sống chính là kho đề tài vô tận để người nghệ sĩ khám phá, phát hiện. Nhưng đối với mỗi cây bút, nó lại được chiếu rọi dưới một thứ ánh sáng riêng. Nghệ sĩ chân chính là người biết khai thác những ấn tượng riêng, chủ quan của mình và biết làm cho ấn tượng ấy có hình thức riêng biệt, độc đáo. Ý thức được sự lặp lại tẻ nhạt chính là cái chết của nghệ thuật, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm cho mình “một giọng nói riêng không thể tìm thấy ở bất kì cuống họng nào khác”. Ông viết về sông Hương như viết về một người tình với mối lương duyên tự ngàn xưa. Sông Hương dưới ngòi bút của ông hiện lên với những nét tính cách độc đáo và vẻ đẹp phong phú. Khi sống giữa lòng Trường Sơn, sông Hương mang trong mình dòng máu của một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Nhưng khi vừa đặt chân ra khỏi cánh rừng đại ngàn, nó chuyển mình, mang nét đẹp dịu dàng, đắm say để bắt đầu một cuộc tìm kiếm có ý thức, tìm kiếm người tình trong mộng. Tài liệu của trang thayhieu.net. Thế nên đoạn chảy này được tác giả so sánh như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, đầy hào hoa và đam mê. Nét dịu dàng, đắm say ấy thoáng chốc tan biến để nhường chỗ cho cái vẻ “trầm mặc”, “cổ thi” khi “người con gái ấy” uốn mình qua những lăng tẩm, tạo cảm giác như dòng sông Hương đang chiêm nghiệm, đang thành kính nghĩ suy về một thời quá khứ vàng son dựng nước và giữ nước. Nhưng cũng rất nhanh thôi, sông Hương lại tìm về với cái sức sống vốn có của nó, bừng sáng và trẻ trung khi nghe thấy âm thanh của thành phố; e ấp và thẹn thùng khi nằm trong vòng tay của kinh thành Huế như người con gái cuộn mình trong cái ôm của tình nhân. Rồi khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương lại tìm về với vẻ đẹp mơ màng, hư ảo khi đi qua những nương dâu, lũy trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ. Và khi nó “đột ngột chuyển dòng như sực nhớ ra một điều gì chưa kịp nói”, tác giả lại gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo trong tình yêu. Đặc biệt hơn cả, trong suốt hải trình của mình, sông Hương luôn được hình dung như một “người gái đẹp” với nhiều dáng vẻ, nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Sáng tạo nghệ thuật chính xác là một hình thức “tự rủ mình vào cửa khó” nhưng nhà văn của chúng ta đã không ngần ngại mà “vật lộn với con chữ của đời” để viết nên những áng văn chương “không trộn lẫn”. Thử hỏi có được mấy ai dám cầm bút mà đặt vào so sánh giữa cái cụ thể là dòng sông Hương và cái trừu tượng là vẻ đẹp “như triết lí, như cổ thi”? Thử hỏi có được mấy ai nghĩ đến dòng sông Hương như một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”? Thử hỏi có được mấy ai dám đặt dòng sông xứ sở mình lên bàn cân so sánh với con sông Nê-va trứ danh thế giới? Không, không ai làm được điều đó, ngoại trừ ông, Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng cái “tôi” tinh tế và lãng mạn mới đủ dạn dĩ mà chắp bút viết nên một thiên tùy bút lặng đọng trong lòng người đọc bao thế hệ.

Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương dương như đã hóa thành máu thịt ông, tâm hồn ông, thể xác ông. Bởi thế dù trong những trang văn, dấu chân lữ hành của ông đã lang thang qua sông Seine của Pháp hay dòng Volga nước Nga; đi suốt những dòng sông Việt từ sông Hồng, sông Đuống, sông Lô đến dòng Hiền Lương, Thạch Hãn quê nhà hay yêu đến tận tụy dòng Thu Bồn xứ Quảng, sông Côn đất võ, những dòng sông phương Nam đỏ nặng phù sa… thì cuối cùng, còn lại với Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn là những nhịp yêu thương dành dụm, góp nhặt dành cho sông Hương trào dâng qua đầu ngọn bút. Và vì thứ văn chương của ông bước ra từ chính những tình cảm ấp iu, nồng đượm đó nên cái “tôi” của ông trên từng con chữ không hề khiên cưỡng mà lạ thay lại rất tự nhiên, ban sơ đến nghẹn ngào. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự hội tụ cái tài, cái tâm của một đời cầm bút. Đó là cái “tôi” nặng lòng với sông Hương, với xứ Huế, với quê hương đất nước mình. Đó cũng là cái “tôi” uyên bác, tài hoa trong nghệ thuật thể hiện của thể bút kí.

Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã làm rõ cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường và như một lời khẳng định tên ông trên bến văn đàn. Bởi lẽ làm một nhà văn không phải chuyện dễ dàng vì ở họ không chỉ hội tụ về nhân cách bản chất thẩm mĩ cuộc sống, của con người mà họ còn phải nắm bắt được trọn vẹn những phong phú, đa dạng và chuyển biến trong từng khoảnh khắc. Và vì thế cho nên họ luôn phải sống sâu để cảm nhận được hết những “phong phú và đa dạng ấy”. Bên cạnh đó, họ còn phải là một “con người lớn” và rành rọt mọi chuyện “bếp núc” của văn chương: Đó chính là cái “tôi” lớn của một đời lăn lộn với chữ nghĩa – bởi vì nó cũng chính là một trong những nhân tố quyết định cho “hơi thở”, cho sức sống của một tác phẩm vĩ đại, một nhà văn vĩ đại!

Phân tích cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường – Mẫu 3

Tác phẩm là nơi thể hiện con người và cá tính sáng tác độc đáo của các tác giả, vậy cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Ai đã đặt tên cho dòng sông đã thể hiện đặc sắc như thế nào, các em cùng phân tích cái tôi tác giả để hiểu hơn về phong cách văn chương của nhà văn tài hoa này.

Một người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói lửa chiến tranh,vừa bừng bừng khí thế chống giặc ngoại xâm, vừa hào hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng,một tư thế tự do, tự tin và tự hào để mà nhìn vào mối quan hệ và dòng chảy của lịch sử dân tộc để khẳng định sức sống, sức mạnh của nó.

Một người nghệ sỹ giàu rung động và rất lãng mạn khi chọn cho mình một điểm nhìn thật đặc biệt về con sông.Chất lãng mạn, nghệ sĩ thể hiện ở sự lựa chọn thời gian mùa thu và không gian khu vườn cổ sầm uất, một khu vườn mùa nào cũng có hoa nở và trái chín mà vẫn thể hiện một “thần thái yên tĩnh và khoáng đạt giống như một sự tự do nội tâm”- một không gian vừa cổ kính, vừa thắm tươi, vừa phóng khoáng. Trong không gian ấy, tâm thế của nhà văn trở nên thư thái, có sự tự do nội tâm để cảm nhận một cách tinh tế và có chiều sâu về đối tượng. Sự thư thái biểu hiện trong những hoạt động cụ thể: vừa ăn trái hồng ngọt và thanh để cảm nhận hương vị thực, vừa đọc Kiều để đắm mình trong thế giới tưởng tượng của thơ ca. Đi giữa cõi thực và cõi thơ, sống trong sự giao thoa của những rung động với khung cảnh thiên nhiên và những rung động trước một mối tình say đắm trong những trang Kiều để từ đó nhà văn có một phát hiện độc đáo về mối liên hệ giữa những câu Kiều với âm hưởng sâu thẳm của Huế: “dòng sông đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết…” và quan trọng nhất là nhận ra rằng sông Hương và thành phố của nó như một vang bóng trong thời gian hình tượng cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”. Có thể thấy đó là một tư thế và tâm thế rất thích hợp với việc bộc lộ những rung động của tình yêu – một thứ tình yêu rất sâu và rất đắm say của nhà văn với con sông xứ Huế.

Niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến rũ riêng của con sông xứ Huế ở các phương diện không gian và thời gian, lịch sử và văn hoá. Cả bài tuỳ bút dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải “Ai đã đặt tên cho dòng sông” Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông xứ Huế hiện lên trong cuộc tim kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con sông địa lý mà là một sinh thể, một con người “sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều” vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hoá riêng của nó.

Vô cùng phong phú. Có khi nó được bộc lộ trực tiếp với các trạng thái nội tâm: vừa thích thú, vừa lơ đãng , miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đổi sắc không ngừng, nhớ da diết điệu chảy lặng lờ của con sông khi ngang qua thành phố, cái điệu chảy như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế trong trăm nghìn ánh hoa đăng; thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu bởi hiểu sâu sắc rằng nền âm nhạc Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương, là linh hồn của con sông nên chỉ là chính nó vang lên trong đêm giữa tiếng rơi bán âm của nước từ những mái chèo khuya. Có khi cảm xúc yêu thương da diết với xứ Huế lại được bộc lộ gián tiếp trong cuộc hành trình lặng lẽ với rất nhiều những tìm kiếm và phát hiện: Cái “tôi” tác giả khi thì chứng kiến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi nhạc đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”, khi bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con sông và con người ở “nỗi vương vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”; có khi lại cũng vì yêu Huế mà đọc văn kiện của Liên Hiệp quốc về Huế bằng sự rung động thẩm mỹ của tâm hồn để “thấy hiện bóng khuôn mặt quyến rũ và tươi trẻ của dòng sông thành phố giữa lòng thế giới hiện đại”; đồng thời cũng hoài niệm đến khắc khoải khi phát hiện ra một sắc màu xưa cũ của chiếc áo cưới ở Huế ngày xưa, rất xưa “màu áo lục điều với loại vải…ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện” để từ cái sắc màu văn hoá ấy mà liên tưởng một cách rất ngẫu hứng mà có lí tới “màu của sương khói trên sông Hương giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông”. Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một nốt nhạc trong bản đàn lòng để tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương.

Phong phú và có chiều sâu. Có thể nói trong bài bút ký pha tuỳ bút này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp nhiều mặt về con sông Hương từ địa lý, lịch sử, văn hoá, văn chương và đời sống, tự nhiên và khảo cổ, cái hiện sinh và những gì thuộc về xa xưa…Đọc bài viết có thể thấy công phu nghiên cứu, tìm hiểu của nhà văn thật đáng nể: vừa quan sát để thấy được từng nét diện mạo của con sông trong từng khoảng không gian cụ thể, vừa nghiên cứu để thấy mối liên hệ giữa đặc điểm địa lý với đặc điểm dòng chảy của con sông, vừa tìm hiểu con sông trong từng thời kỳ lịch sử, vừa thâm nhập thực tế để nhận biết một cách cụ thể những nếp sinh hoạt, những cách thức lao động, những hương vị riêng của cỏ cây, hoa trái, đất đai, vừa đọc tư liệu, sách vở để hình dung ra quá khứ một thời vang bóng trong những dấu tích còn lại của thành quách, đình đền. Trong khối lượng kiến thức được huy động, đáng kể nhất là kiến thức địa lý, lịch sử và văn hoá. Các mặt kiến thức này không tách rời nhau, không độc lập tồn tại mà hoà quyện, hỗ trợ nhau tạo thành một điểm tựa vững chắc cho ngòi bút nhà văn khi miêu tả con sông của xứ Huế.

Tham khảo thêm:   Tiếng Anh 11: Review Unit 8 Soạn Anh 11 Friends Global trang 107

Cả bài tuỳ bút là cuộc hành trình hào hứng và cẩn trọng, say sưa và rất nghiêm túc để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Đây là câu hỏi ngỡ như bâng quơ của một nhà thơ nào đó khi đến với Huế song cũng là một câu hỏi đầy ngụ ý của chính Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hỏi như một cách để xác lập mối quan hệ giữa dòng sông với con người, giữa cái tên của dòng sông với cách nhìn, cách nghĩ và những cảm nhận của con người về nó. ý thức về điều này nên trong khi tìm hiểu về sông nhà văn cũng rất công phu tìm hiểu về cuộc sống và con người bên dòng sông ấy. Nghĩa là con sông đã được đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với con người. Trong mối liên hệ ấy, sông đã được soi ngắm từ nhiều góc độ, thời gian và không gian, văn hoá và lịch sử, sinh hoạt và phong tục, đời sống sinh hoạt và thế giới tinh thần…Và trong quá trình tìm hiểu “Ai dó đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ mình không chỉ là một cái tôi giàu hiểu biết, ham tìm hiểu mà còn là một cái tôi rất mực tinh tường và vô cùng sâu sắc trong những khám phá, tìm hiểu những chiều sâu văn hoá tinh thần, tâm hồn của sông Hương cũng là của con người xứ Huế.

Phân tích cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường – Mẫu 4

Văn chương là hành trình đi từ trái tim đến những trái tim qua ngòi bút của người sáng tác. Khi những trang văn khép lại, cái còn đọng lại trong lòng người đọc chính là cái tôi trữ tình của tác giả. Nhắc đến cái tôi trữ tình trong văn học Việt Nam không thể không nhắc Hoàng Phủ Ngọc Tường với bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Cái tôi trữ tình của ông trong bài ký là cái tôi mê đắm lãng mạn, tài hoa, uyên bác và yêu say đắm quê hương, xứ Huế, ghi lại nhiều ấn tượng sâu sắc.

Cái tôi trữ tình là một thuật ngữ thuộc lĩnh vực Lý luận Văn học, chỉ tâm trạng, cảm xúc, cảm nhận của tác giả. Hay thực chất là thế giới nội tâm, là tâm hồn của riêng tác giả trước hiện thực khách quan. Qua cái tôi trữ tình, người đọc có thể cảm nhận được những suy nghĩ, tư tưởng và quan niệm…của tác giả trước cuộc đời. Cái tôi trữ tình từ đó chính là yếu tố quan trọng góp phần hình thành phong cách nghệ thuật của riêng tác giả.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt ở thể kí. Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói chung, cho cái tôi trữ tình của ông nói riêng. Qua bài ký, tác giả khéo léo thể hiện cái tôi mê đắm, tài hoa, uyên bác và có tình yêu say đắm quê hương, xứ sở, đặc biệt với Huế và dòng Hương giang.

Đến với “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, trước tiên gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả là cái tôi Hoàng Phủ tài hoa và mê đắm, tinh tế và vô cùng lãng mạn. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành hết tâm sức, tình cảm và nhiệt huyết văn chương để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương từ góc nhìn địa lý. Ngay từ những câu văn đầu miêu tả thủy trình của dòng sông, nhà văn đã cẩn trọng và kì công đúc kết từng câu từng chữ tinh tế và ngập tràn ưu ái. Ở thượng nguồn, sông Hương hiện lên là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Khi rời núi rừng để về với đồng bằng, nó lại hiện lên giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”. Lúc chảy giữa lòng thành phố thân thương, sông Hương lại là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, để rồi trước khi chia tay “người tình mà nó mong đợi” ở “thị trấn Bao Vinh xưa cổ” sông Hương giống như nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa… Tất cả những câu văn miêu tả sông Hương đều đẹp đến lạ lùng. Nó không chỉ miêu tả được vẻ đẹp độc đáo của dòng sông mà còn thể hiện được lối tư duy sắc bén được nuôi dưỡng trong dòng cảm xúc đam mê và cảm hứng nghệ thuật.

Cái tôi mê đắm tài hoa của tác giả còn được thể hiện rõ nét qua góc nhìn lịch sử về dòng sông. Trong cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Những năm tháng chiến tranh ác liệt, nó “biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công”. Khi trở về đời thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm “người con gái dịu dàng của đất nước”. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một dòng chảy địa lý của thiên nhiên, nó từ lâu đã trở thành một sinh thể có tâm trạng, biết yêu nước trong những tháng ngày gian khổ hào hùng của dân tộc.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tinh tế phát hiện ra những vẻ đẹp vô cùng độc đáo của dòng sông Hương. Cái tôi tài hoa, mê đắm của ông cảm nhận được không chỉ một vẻ thuần nhất của dòng sông mà còn rất nhiều vẻ đẹp phong phú khác. Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm nhận riêng cho người đọc. Chỉ riêng việc miêu tả sông Hương đẹp như vẻ đẹp người con gái, tác giả đã sử dụng nhiều cách diễn đạt khác biệt. Khi thì là “cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại” khi là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”; ở khúc khác lại “giống như nàng Kiều trong đêm tình tự”; “người con gái dịu dàng của đất nước”…

Tài hoa tinh tế trong cách cảm nhận vẻ đẹp sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn vô cùng tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp nghệ thuật. Trong bài ký, có bao nhiêu góc nhìn về sông Hương thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được sử dụng. Tiêu biểu như đoạn văn miêu tả sông Hương ở thượng lưu : “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Hay “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế…”.

Chúng ta có thể thấy được lối hành văn uyển chuyển với ngôn từ đa dạng và hình ảnh phong phú. Từng từ từng chữ đều mang đậm hơi thở tài hoa của người nghệ sĩ. Đặc biệt, tác giả còn sử dụng thành công nghệ thuật nhân hóa, so sánh, gợi hình ảnh dòng sông sinh động như con người, lúc “rầm rộ” và “mãnh liệt”, lúc “dịu dàng” và “say đắm”; khi lại “vui tươi hẳn lên”. Hình ảnh so sánh “đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu” hay “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non” vô cùng ấn tượng và gợi cảm. Trí tưởng tượng phong phú cùng những liên tưởng táo bạo đã giúp tác giả nêu bật những cảm nhận đa dạng về sông Hương. Cuộc hành trình tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông” trở nên đầy say mê và hào hứng.

Bên cạnh cái tôi mê đắm tài hoa, người đọc còn cảm nhận được cái tôi uyên bác và giàu tri thức về lịch sử, địa lý, văn hóa Huế. Miêu tả sông Hương, nhà văn dường như thông thuộc từng bước đi, ngã rẽ, dòng chảy. Không chỉ biết chỗ nào cuộn xoáy, chỗ nào yên ả… Hoàng Phủ Ngọc Tường còn tường tận cả lịch sử của dòng sông. Ngoài tri thức địa lý, lịch sử đã ghi lại, ông thậm chí phát hiện được những điều mà ngay cả người Huế cũng không nghĩ đến. Đó là vai trò quan trọng của Hương giang – “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Người ta có lẽ chỉ nhìn sông Hương qua vẻ bên ngoài của nó mà không biết được nó là khởi nguồn của cả một không gian địa lý và văn hóa Huế. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường lại hiểu rõ.

Cái tôi uyên bác của nhà văn đã khám phá và phát hiện những đặc điểm văn hóa thú vị của sông Hương. Đó là cái vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của con sông khi chảy bên những lăng tẩm đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn; là nền âm nhạc cổ điển đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này. Hay còn là dòng sông thi ca, cội nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ. Đặc biệt là giai thoại tuyệt đẹp về nguồn gốc tên gọi của sông Hương: “Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”. Nếu không có Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhiều người chắc chắn sẽ không bao giờ biết đến giai thoại này. Vì vậy, nó trở thành thông tin vô cùng hấp dẫn trong tác phẩm, nhấn mạnh cái tôi uyên bác của nhà văn. Hoàng Phủ Ngọc Tường nhờ đó đã mang đến cho người đọc nhiều tri thức về sông Hương nói riêng và Huế nói chung.

Ai đã đặt tên cho dòng sông ngoài ra còn thể hiện cái tôi trữ tình của nhà văn với tình yêu say đắm và sự gắn bó sâu sắc với quê hương, xứ sở, với Huế và Hương giang. Nếu chỉ là cảm xúc rung động nhất thời trước vẻ đẹp của con sông, của xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ không thể viết lên được những trang văn mê đắm và rất đỗi tài hoa như thế. Yêu Huế, yêu Hương giang, nhà văn mới có được những rung cảm mãnh liệt, sông Hương không đơn thuần là cảnh đẹp mà còn chiếm trọn tâm hồn ông. Chính con sông đã khiến trái tim ông chảy xuôi vô vàn cung bậc cảm xúc. Khi thì băn khoăn, trăn trở, khi lại nhớ đến nao lòng…

Tình cảm đặc biệt ấy hóa thành những dòng chảy trong tâm hồn nhà văn để rồi tạo nên cả cái tôi mê đắm, tài hoa và uyên bác. Bởi vì yêu nên say sưa trong vẻ đẹp của dòng sông, cố gắng tìm hiểu và tinh thông tri thức, dành hết tài hoa để miêu tả thành hình trọn vẹn vẻ đẹp của nó. Hương giang là một phần của Huế, cũng là một dòng chảy trong rất nhiều dòng chảy của non sông. Tình yêu Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho Hương giang thực ra chính là tình yêu tha thiết, mãnh liệt dành cho đất nước.

Xuyên suốt bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn dắt người đọc theo dòng cảm chảy ấn tượng. Cái tôi mê đắm, tài hoa, cái tôi uyên bác, tinh tế cùng cái tôi yêu sâu sắc quê hương xứ sở hòa quyện vào nhau kết hợp cùng nghệ thuật ngôn từ và các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Từ đó không chỉ vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp về dòng sông Hương cùng xứ Huế mộng mơ mà còn thể hiện phong cách nghệ thuật của riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhà văn cùng “Ai đã đặt tên cho dòng sông” bởi vậy đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong lịch sử văn học dân tộc. Để rồi thời gian trôi đi, tác giả và tác phẩm vẫn lặng lẽ chảy mãi trong tâm hồn độc giả, giống như dòng chảy Hương giang không bao giờ ngừng lại.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích cái tôi trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông (Dàn ý + 4 Mẫu) Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *