Bạn đang xem bài viết ✅ Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Bài ca ngất ngưởng (2 mẫu) Những bài văn mẫu lớp 11 ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Bài ca ngất ngưởng là một chủ đề rất hay nằm trong chương trình Ngữ văn lớp 11. 

Trong bài viết dưới đây Wikihoc.com xin giới thiệu đến các bạn 2 mẫu Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Bài ca ngất ngưởng. Tài liệu được chúng tôi tuyển chọn từ các bài làm hay nhất của học sinh trên cả nước. Qua đó các bạn có thêm nhiều tư liệu tham khảo, trau dồi vốn từ, củng cố kiến thức khi viết văn. Ngoài ra các bạn tham khảo thêm một số dạng bài văn mẫu khác tại chuyên mục Văn 11.

Phân tích vẻ đẹp của Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 1

Thơ là con người, là cuộc đời và còn là thơ nữa. Có rất nhiều những bài thơ câu hát mang vẻ đẹp tâm hồn của người sinh ra nó. Bởi vậy mới nói mỗi tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của các nhà thơ nhà văn. Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ đã thể hiện được vẻ đẹp của ông “Hi Văn” với lối sống khác người khác đời nhưng một lòng trung hiếu đem hết tài năng mình có giúp vua giúp nước.

Có lẽ vẻ đẹp bài thơ nằm ở từ “ngất ngưởng”. Từ này mang lại cho chúng ta cảm giác chông chênh, dễ ngã nhưng cũng rất thú vị. Mở đầu bài thơ, tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng toàn chữ Hán Việt. Điều này mang lại cảm giác trang trọng khi nói về trách nhiệm của người nam nhi đối với nước, với dân:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng

Điều đó chứng tỏ nhà thơ ý thức sâu sắc vai trò, trách nhiệm của mình đối với cuộc đời. Tự xếp mình vào hạng những người: “Đã sinh ra ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”, nhà thơ tự xưng tên “ông Hi Văn” đã “vào lồng”. Nhà thơ với một quan niệm vô cùng ngông nghênh, nó thể hiện luôn phong cách của ông, ông là một người thích tự do, chính vì vậy ông cho rằng làm quan là một việc trói buộc, ông luôn luôn cương quyết thích sống một cuộc sống tự do, tự tại, không muốn điều gì cản trở sự tự do của chính bản thân mình. Từ vào lồng trong câu thơ đã thể hiện một thái độ không thích với chốn quan trường, đây là một nơi đấu đá và không được sống tự do. Từ khi ông đỗ đạt làm quan, ông cảm thấy cuộc đời mình đã bị bó buộc vào nơi đây, ông không thích và muốn sống tự tại, do con người và bản tính ngông nghênh của ông.

Tất cả những điều mà ông thể hiện trong tác phẩm đó đều thể hiện tính cách của ông khi làm quan. Tính cách của ông không chỉ thể hiện qua các tác phẩm nghệ thuật, mà nó còn được thể hiện trong lúc ông là quan. Ông liệt kê các chức tước trong triều đình như thủ khoa, tham tán, tổng đốc đây đều là những vị trí mà họ đã phải cố gắng để có được. Vì vậy, về địa vị họ đã hơn rất nhiều người, đây là điều mà tác giả thể hiện sự ngất ngưởng của mình không chỉ riêng trong cuộc sống, mà trong rất nhiều việc khác. Ông cũng luôn thể hiện một thái độ tích cực và mang lại cho người đọc nhiều suy ngẫm và có nhiều ý nghĩa to lớn, ông đã thể hiện sự ngất ngưởng của mình qua địa vị. Và đây không chỉ là điều để ông thể hiện được tài năng của chính bản thân mình, mà còn cho người đọc biết được con người của ông:

Tham khảo thêm:   Nghị định 62/2020/NĐ-CP Vị trí việc làm và biên chế công chức

Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng

Khi tuổi trẻ luôn phấn đấu để trở thành một vị quan, và ông cũng luôn thể hiện sự ngất ngưởng trong con đường làm quan của mình. Ông còn thể hiện sự ngất ngưởng đó qua cả thái độ của mình khi về quê, ông không những đã thoát khỏi cái lồng đã chôn chân ở đó, mà ông luôn mong ước mình sống một cuộc sống tự tại, tự do, đó là những điều mà ông luôn luôn mong muốn để đạt được. Những điều đó thể hiện ngay trong thái độ và cảm quan của ông trong khi sáng tác nên chính tác phẩm này. Nó không chỉ để lại cho con người nhiều cái nhìn mới mẻ mà nó còn để cho người đọc thấy được thái độ ngông và phong thái ung dung tự tại của ông:

Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Từ khi ông trút bỏ áo quan để về nhà ở ẩn, ông đã thể hiện một thái độ khác người, phong cách của ông không giống ai. Thái độ của ông khiến cho người đọc có một cái nhìn lạ, bởi nó khác thường so với những người khác, nhưng chính điều đó lại làm nên cuộc đời của ông, mang lại cho ông một phong cách riêng đặc trưng cho cá nhân và con người của ông. Ông không quan tâm đến những lời khen chê của người khác đối với ông, đó đều là những chuyện nhỏ mà ông không quan tâm tới. Ông say mê trong những cuộc chơi lạ kì và những vui thú của hát nói, có rượu ngon, có ca nhạc. Một cuộc sống đúng chất của an nhàn và hạnh phúc mỹ mãn, đây mới chính là cuộc sống tự do mà ông luôn mong muốn hướng tới.

Tiếp theo đó là những lời mà ông tự cho rằng đó là cả cuộc đời của mình tuổi trẻ đã làm quan, ông không còn vướng bận điều gì, khi đã làm tròn trách nhiệm của mình với dân với nước, đó là những điều mà ông luôn trăn trở nhưng nay ông đã làm được và ông không còn điều gì phải hổ thẹn nữa:

Tham khảo thêm:   Thông tư 10/2019/TT-BTP Tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tư pháp

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Trong triều đình ông là duy nhất, và không ai có một thái độ ngất ngưởng như ông, đó là những điều mà ông đã nói đến trong tác phẩm của mình. Thái độ đó đã mang lại cho người đọc cái nhìn bao quát nhất về con người cũng như toàn bộ cuộc sống của ông. Ông đã sống trọn tình nghĩa và giờ ông đang muốn hưởng một cuộc sống tự do và thoải mái nhất.

Bài ca ngất ngưởng không đơn thuần chỉ một tác phẩm văn học mà nó còn là linh hồn, phẩm chất của chính Nguyễn Công Trứ gửi gắm trong đó. Tác phẩm đã thể hiện mạnh mẽ được thái độ cũng như phong cách của ông – ngất ngưỡng và vô cùng riêng biệt.

Phân tích vẻ đẹp của Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 2

Nguyễn Công Trứ (1778-1858) biệt hiệu là Hi Văn, một danh tướng triều Nguyễn, văn võ toàn tài. Về sự nghiệp văn chương, ông để lại khoảng 150 bài thơ, câu đối, bài “Hàn nho phong vị phú” là một kiệt tác. Với những bài thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ có giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng: “Chí nam nhi”, “Chí khí anh hùng”, “Nợ tang bồng” trong đó, độc đáo nhất là “Bài ca ngất ngưởng”.

Vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” thật đặc sắc và rất thú vị. Đó là vẻ đẹp của một nhà nho giàu cá tính, dám đem tài năng thi thố với đời, dám hành động cho thỏa chí nam nhi, đồng thời cũng dám hành lạc biểu lộ bản ngã của một khách tài tử. Vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” còn là chất thơ, chất nhạc in đậm dấu ấn của một tao nhân mặc khách, một tài tử mang cốt cách anh hùng. Thơ trung đại vốn phi ngã, nhưng “Bài ca ngất ngưởng” đã thể hiện cái tôi một cách đàng hoàng với tất cả niềm tự hào hiếm thấy.

Một cách xưng danh thật hào hùng. Trong xã hội phong kiến đã mấy ai dám nói như Nguyễn Công Trứ?

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.”

Kẻ nam nhi dám đem “tài bộ” ra thi thố với thiên hạ, làm tròn trách nhiệm với đời. Phải ngất ngưởng, phải sống khác người, vì đã có công danh, về cử nghiệp đã đỗ thủ khoa. Về binh nghiệp đã làm Tham tán, về hoạn lộ đã làm Tổng đốc Đông. Có tài thao lược mới có thể ngất ngưởng, mới dám sống ngất ngưởng:

“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”.

Có thể hiểu ngất ngưởng vì hơn đời, hơn người, do có “tài bộ”. Con đường công danh như được trải dài và mở rộng. Ông Hi Văn đang sống lại những tháng ngày oanh liệt:

“Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

Chữ “khi” được điệp lại bốn lần, đan xen với chữ “lúc”, đã nêu bật tính thời gian và con đường công danh của một kẻ sĩ anh hùng được mở ra với bao tự hào, kiêu hãnh. Giọng thơ mạnh mẽ hào hùng thể hiện cốt cách của một đấng nam nhi tài ba lỗi lạc. Con người ấy đã sống đẹp hơn bao giờ hết:

Tham khảo thêm:   Bài tuyên truyền tháng hành động bình đẳng giới Tài liệu tuyên truyền về bình đẳng giới

“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”.

(Nợ tang bồng)

Bức chân dung tự hoạ của ông Hi Văn là một trong những vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” mà ta cảm nhận được. Giữa triều đình, ông Hi Văn đã sống hết mình, đem tài bộ ra thi thố với thiên hạ “đã nên tay ngất ngưởng”. Lúc trả áo mũ về trí sĩ, ông Hi Văn lại chơi hết mình: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”. Chiếc mo cau đeo sau đuôi con bò cái như để che miệng thế gian, như để giễu đời.

Thật ung dung và thảnh thơi giữa chốn lâm tuyền. Như có một sự hoá thân kì lạ:

“Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.

Nhìn thấy “dạng từ bi” đó của ông Hi Văn, làm sao Bụt chẳng “nực cười” được? Mọi chuyện được mất, khen chê bỏ hết ngoài tai, “ông ngất ngưởng” chính là một khách tài tử, rất thanh cao. Các điệp ngữ (khi, không) làm cho nhịp thơ, điệu thơ, giọng thơ như nhún nhảy. Cũng là một nét đẹp của ông Hi Văn, cũng là một nét đẹp của “Bài ca ngất ngưởng”:

“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.

Bức chân dung tự hoạ của “ông ngất ngưởng” đã hoàn chỉnh, vừa bề thế, vừa trang trọng. Sự thuỷ chung về “nghĩa vua tôi” là cái thần của bức chân dung tự hoạ ấy. Sao không tự hào được?

“Chẳng Trái, Nhạc cũng phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”.

Vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” đâu chỉ có thế. Còn là vẻ đẹp văn chương, vẻ đẹp của một bài thơ hát nói dôi khổ (hai khổ thơ). Ngôn từ thật biến hoá: khi là “tay ngất ngưởng” rồi lại “đeo ngất ngưởng lúc trở thành “ông ngất ngưởng” rồi còn cất tiếng hỏi: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”.

Câu thơ co duỗi biến hoá: sáu chữ, bảy chữ, tám chữ; sử dụng điệp ngữ thần tình, giọng thơ du dương, trầm bổng. Chất nhạc cũng làm nên vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng”. Nguyễn Công Trứ đã làm Dinh điền sứ tổ chức di dân lấn biển, lập nên hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình) đến nay vẫn được nhân dân hai miền quê ấy thờ cúng, đội ơn sâu.

Nguyễn Công Trứ đã trải qua nhiều thăng trầm trên con đường hoạn lộ, nhưng lúc nào ông cũng thể hiện một bản lĩnh đáng trọng và tự hào: “Lúc làm đại tướng, ta không thấy thế làm vinh; lúc làm lính thú, ta cũng không lấy thế làm nhục”. Nói về vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” là nói về vẻ đẹp của chí anh hùng, chí nam nhi là nói về vẻ đẹp ung dung thanh cao của một tao nhân mặc khách đã để lại nhiều bài thơ hát nói nổi tiếng. Ngất ngưởng sao mà đẹp vậy!

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Bài ca ngất ngưởng (2 mẫu) Những bài văn mẫu lớp 11 của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *