TOP 16 bài Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 thấy rõ tâm trạng đau khổ, bế tắc tới đột cùng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã khắc họa chân thực nỗi cô đơn, bơ vơ, tuyệt vọng của nàng Kiều khi phải chôn vùi tuổi xuân ở lầu Ngưng Bích. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Wikihoc.com để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Dàn ý phân tích tâm trạng Thúy Kiều (2 mẫu)
- Phân tích tâm trạng Thúy Kiều ngắn gọn
- Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích (12 mẫu)
- Phân tích tâm trạng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích qua 4 bức tranh: Buồn trông
- Cảm nhận tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích
- Phân tích nghệ thuật miêu tả tâm trạng Thuý Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích
Dàn ý phân tích tâm trạng Thúy Kiều
1. Mở bài:
- Giới thiệu về đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
- Giới thiệu về tâm trạng của Thúy Kiều.
2. Thân bài:
a) Nỗi cô đơn, buồn tủi:
– “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”: Kiều bị Tú Bà giam lỏng trong lầu Ngưng Bích.
– Không gian:
- “Non xa” – “Trăng gần”: nghệ thuật đối.
- “Cát vàng cồn nọ” – “Bụi hồng dặm kia”: nghệ thuật đảo ngữ. Đây vừa là cảnh thật, vừa là cảnh ước lệ cho không gian mênh mông rộng lớn. Cảnh vật trong không gian mênh mông nhưng lại xa cách nhau thể hiện nỗi cô đơn của Kiều.
=> Cảnh đẹp nên thơ nhưng không gian bao la, rộng lớn, vắng vẻ.
– Thời gian: “Mây sớm, đèn khuya” => Vòng tuần hoàn khép kín.
– Tâm trạng: “Bẽ bàng”, “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
=> Kiều chán nản, buồn tủi, cô đơn giữa ngày dài tháng rộng, không có ai bầu bạn.
b) Nỗi thương nhớ Kim Trọng:
- “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”: Nhớ nhung về đêm thề nguyền, hẹn ước giữa mình và Kim Trọng năm xưa.
- “Rày trông mai chờ”: Kiều tưởng như Kim Trọng vẫn còn chờ đợi tin tức của nàng.
- “Bơ vơ”: Hoàn cảnh của Kiều lúc đó.
- “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”: Tấm lòng son sắc thủy chung dành cho Kim Trọng đã bị hoen ố vì chốn lầu xanh nên không thể làm sạch được nữa.
=> Kiều vô cùng nhớ thương, đau đớn, tủi hổ khi nhớ đến Kim Trọng.
c) Nỗi thương nhớ cha mẹ:
- “Xót người tựa cửa hôm mai: Thương cha mẹ ở nhà ngóng trông tin tức của nàng.
- “Quạt nồng ấp lạnh”, “Sân Lai”: Dẫn từ điển tích, điển cố -> Lo lắng, không biết có ai lo lắng, chăm sóc cho cha mẹ hay không.
- “Gốc tử”: Nỗi nhớ mong cha mẹ đã già ở nhà.
=> Kiều nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ ở nhà không có ai chăm sóc.
d) Tâm trạng của Kiều:
- Điệp từ “buồn trông” thể hiện tâm trạng buồn tủi, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của nàng Kiều”.
- Cặp lục bát thứ nhất: Nỗi nhớ nhà, cô đơn khi ở giữa không gian mênh mông rộng lớn.
- Cặp lục bát thứ hai: Buồn cho số phận trôi nổi, bơ vơ vô định của mình.
- Cặp lục bát thứ ba: Nỗi tuyệt vọng, cô đơn, chán chường khi bị giam giữ ở lầu Ngưng Bích.
- Cặp lục bát cuối cùng: Dự cảm không lành về tương lai đầy bão tố.
e) Nghệ thuật:
- Tả cảnh ngụ tình đạt đến tuyệt bút.
- Đảo ngữ, đối, điệp từ, từ láy.
- Sử dụng nhiều điển tích, điển cố.
- Nhịp thơ linh hoạt, biến đổi khôn lường.
3. Kết bài:
- Khái quát lại tâm trạng của Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều ngắn gọn
Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương Việt Nam. Đại thi hào Nguyễn Du đã vận dụng tài năng của mình, sử dụng nhiều hình tượng nghệ thuật độc đáo để khiến cho những lời thơ trở nên vừa bình dị, gần gũi, vừa trang trọng. Thế nhưng, nổi bật nhất phải kể đến bút pháp miêu tả nội tâm, tâm lí nhân vật cực kì đặc sắc. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tác giả đã khắc họa rõ nét tâm trạng cô đơn, chán chường của Thúy Kiều.
Trước hết, ở sáu câu thơ đầu, ta thấy được nỗi cô đơn, bất hạnh, tội nghiệp của Kiều:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Câu thơ đầu tiên đã cho ta biết được hoàn cảnh của Kiều. Dù Tú Bà đã dùng những lời nói ngon ngọt dỗ dành nhưng Thúy Kiều vẫn không chịu tiếp khách. Vậy nên bà ta đành giam lỏng nàng trong lầu Ngưng Bích, đợi nàng khuất phục. Mỗi ngày, nàng đều đứng trên lầu cao ngắm nhìn cảnh vật xung quanh có “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”. Đây đều là cảnh thiên nhiên tươi đẹp trong thực tế nhưng cũng là cảnh ước lệ cho không gian mênh mông, vô định trước mắt nhân vật. Nghệ thuật đối, đảo ngữ được sử dụng khiến cho ta cảm thấy sự vật đều cách nhau rất xa, thể hiện sự bao la, vắng vẻ. Thúy Kiều thật đáng thương khi phải chịu đựng nỗi cô đơn trong khung cảnh rộng lớn cùng thời gian tuần hoàn khép kín “mây sớm, đèn khuya”. Cảm tưởng như nàng sẽ phải chôn vùi tuổi xuân ở nơi này mãi mãi. Thế nên nàng càng chán nản, buồn tủi hơn giữa ngày dài tháng rộng, cảnh vật xa cách không có ai bầu bạn.
Vì thế, nàng đành dùng cách nhớ về những người thân yêu để nguôi ngoai phần nào nỗi cô đơn. Thế nhưng, càng nhớ lại càng đau đớn, xót xa hơn:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Chân trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.”
Đầu tiên, nàng nghĩ về chàng Kim. Thúy Kiều nhớ lại đêm thề nguyền cùng nâng chén hẹn ước giữa hai người. Thế nhưng giờ đây mộng tàn tình tan. Nàng đã ở một chân trời khác còn Kim Trọng có lẽ vẫn đang không ngừng mong ngóng tin tức của nàng. Chàng Kim đâu biết, thế giới của Kiều giờ đây đã nhuốm màu u tối. Nàng đã bị vấy bẩn bởi chốn lầu xanh, không thể giữ sự thủy chung son sắt nữa. “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” là một câu hỏi không có lời đáp, cũng là lời than thở, bộc bạch thể hiện nỗi đau, sự tủi nhục của Thúy Kiều. Dù có làm cách nào, đôi uyên ương cũng không thể quay lại như khi xưa được nữa.
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”
Tiếp theo, Kiều nhớ đến cha mẹ ở nhà vẫn tựa cửa ngóng tin bình an của con gái. Tuy đã tự bán mình để có tiền chuộc cha và em thoát khỏi chốn lao tù, thế nhưng nàng vẫn day dứt vì không thể ở bên chăm sóc cha mẹ. Ở đoạn thơ này, Nguyễn Du đã sử dụng các điển tích, điển cố, thành ngữ như “quạt nồng ấp lạnh”, “Sân Lai”, “Gốc tử” để thể hiện nỗi lòng hiếu thảo của Thúy Kiều. Nàng lo lắng khi mình rời xa, sẽ không ai quạt cho cha mẹ ngủ khi trời vào hè nóng nực, không ai ấp chăn ấm cho cha mẹ nằm lúc trời trở gió đông. Thời gian trôi dần qua, cha mẹ ngày một già yếu, không biết cha mẹ có ai đó ở bên bầu bạn hay không.
Qua dòng hồi tưởng, người đọc đã thấy được hình ảnh của một nàng Kiều chung thủy, hiếu thảo. Dù đã không còn ở bên những người thân yêu nhưng chữ hiếu, chữ tình chưa vẹn toàn vẫn khiến nàng day dứt khôn nguôi. Từ đó, Kiều phóng tầm mắt ra ngắm nhìn cảnh vật xung quanh lầu Ngưng Bích. Thế nhưng “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nỗi buồn của nàng đã thấm lên cả cảnh vật xung quanh:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Trong tám câu thơ cuối này, bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao. Chỉ bằng điệp ngữ “buồn trông” ở đầu câu kết hợp với những từ láy miêu tả khung cảnh, ông đã cho ta thấy tâm trạng của nàng Kiều. Ở cặp câu lục bát thứ nhất, ta thấy cảnh cửa biển, con thuyền buổi chiều hoàng hôn gợi nỗi nhớ nhà da diết trong không gian mênh mông. Cặp lục bát thứ hai có hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi” chính là số phận lênh đênh, vô định, không thấy bến đỗ của Kiều. Cặp lục bát thứ ba thể hiện nỗi cô đơn, tuyệt vọng của Thúy Kiều khi khắp nơi chỉ có một màu xanh tẻ nhạt, ảm đạm. Và cuối cùng là dự cảm không lành về tương lai đầy bão tố sắp xảy đến. Khi nhìn ra ngoài mặt duềnh, Thúy Kiều mới chỉ thấy nó nổi lên mà trong tâm trí nàng đã nghe thấy âm thanh “ầm ầm” của thiên nhiên. Đây là cảm giác bất lực khi biết trước những bão tố sắp đến nhưng không thể làm gì được, chỉ có thể bị động ngồi chờ điều đó đến.
Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều biện pháp tu từ như: đảo ngữ, đối, điệp từ, từ láy,… để miêu tả khung cảnh thiên nhiên nhưng thực tế là đang bày tỏ nỗi lòng của nhân vật trữ tình. Qua đó, người đọc nhận ra sự cô đơn, chán chường, tuyệt vọng của một giai nhân đang để tuổi xuân qua đi một cách vô ích nơi lầu son gác tía.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều – Mẫu 1
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong Truyện Kiều của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du – một tác phẩm có giá trị văn hóa lớn và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đoạn trích là tiêu biểu và thể hiện đầy đủ nhất cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tài năng của Nguyễn Du. Nổi bật trong đoạn trích là tâm trạng của Thúy Kiều khi bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích.
Mở đầu tác giả đã vẽ ra khung cảnh không gian và thời gian tại lầu Ngưng Bích, không gian rộng lớn, tĩnh mịch làm nổi bật lên tâm trạng cô đơn và cảnh ngộ bi kịch của Kiều:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân…
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
“Khóa xuân” chính là tình cảnh bị giam hãm, cầm tù của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích, cảnh ngộ của Kiều đầy bi kịch. Các từ ngữ miêu tả: “vẻ non xa”, “bốn bề bát ngát”, “cát vàng cồn nọ”,… gợi không gian mênh mông rợn ngợp, bày tỏ tâm trạng lạc lõng, bơ vơ của Kiều trước đất trời rộng lớn. Bức tranh có màu sắc, đường nét nhưng lại vắng bóng con người, sự sống, càng tăng thêm vẻ trống trải, hoang vắng và lạnh lẽo. Từ chính hoàn cảnh đó, Thúy Kiều đã ý thức về cảnh ngộ đầy bi kịch của mình:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích thông qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích“Bẽ bàng” chính là tâm trạng hoang mang đến tột độ và chua xót khôn cùng của Kiều với số phận. “Mây sớm đèn khuya” là vòng tuần hoàn khép kín của không gian và thời gian, chính như nỗi đau không có điểm dừng của nàng Kiều. Tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ của Kiều về người yêu, cha mẹ, trước hết là nàng nhớ về Kim Trọng:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng…
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Đây là một nỗi nhớ kín đáo mà Kiều dành cho Kim Trọng, nàng cảm thấy tiếc nuối và xấu hổ khi đã không giữ được lời thề trăm năm. Sau nỗi nhớ về Kim Trọng, nàng nhớ về gia đình:
“Xót người tựa cửa hôm mai…
Sân lai gốc tử đã vừa người ôm”
Nghĩ về cha mẹ, Kiều không ngừng xót xa thương cảm, nàng đã không thể làm tròn chữ hiếu, không thể bên cạnh phụng dưỡng cho cha mẹ. Nàng nhớ người yêu trước, nhớ cha mẹ sau cũng là điều dễ đồng cảm, bởi nàng đã phá lời thề với Kim Trọng, phụ tấm lòng của chàng nên cảm thấy rất có lỗi. Còn với cha mẹ, nàng đã kịp báo hiếu phần nào, hơn nữa còn có em trai và Thúy Vân chăm lo. Đặc biệt trong tám câu thơ cuối bài, tâm trạng buồn đau của Thúy Kiều được diễn tả theo nhiều cung bậc khác nhau:
“Buồn trông ngọn nước mới sa…
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Bốn cặp câu thơ lục bát với điệp từ “buồn trông” ở mỗi cặp câu vừa làm hiện lên bức tranh cảnh vật lại tô đậm tâm trạng của nàng Kiều. Nỗi buồn đau, xót xa ngày càng tha thiết, nàng hoang mang trước những dự cảm chẳng lành về một cuộc đời đầy rẫy những sóng gió, đau khổ.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh đầy tâm trạng, tâm trạng của nàng Kiều được đại thi hào Nguyễn Du diễn tả thật sinh động và chân thực. Qua tâm trạng đó, người đọc cảm nhận được cảnh ngộ đầy bi kịch, số phận bèo bọt của Thúy Kiều nói riêng và người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều – Mẫu 2
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du được xem là một kiệt tác tiêu biểu và nổi bật. Giá trị vững bền của tác phẩm được tạo nên không chỉ ở mặt nội dung cốt truyện hấp dẫn mà còn thể hiện qua những bút pháp nghệ thuật đặc sắc và nổi bật là nghệ thuật miêu tả tâm lí, nội tâm nhân vật. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những trích đoạn thể hiện rõ biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả Nguyễn Du. Trong đoạn trích này, chúng ta có thể thấy được tâm trạng buồn tủi, nỗi nhớ thương cùng dự cảm của Thúy Kiều trong hoàn cảnh bơ vơ, lạc lõng tại lầu Ngưng Bích.
Trong sáu câu thơ đầu tiên, tâm trạng của Thúy Kiều được làm nổi bật với sự chán ngán, bơ vơ, lạc lõng và buồn tủi qua khung cảnh lầu Ngưng Bích. Đó là không gian chơi vơi giữa trời nước, núi non: “Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung” và Kiều chỉ nhìn thấy được “Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” với những “cồn cát vàng”như đang chuyển động lượn sóng và bụi hồng vướng trải trên hàng dặm xa xăm. Tất cả đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên được phóng chiếu ở cả chiều cao và chiều rộng, gợi ra sự mênh mang, hoang vắng và đầy rợn ngợp nhưng lại bị bó gọn trong khoảng thời gian “mây sớm, đèn khuya” tuần hoàn, khép kín; làm nổi bật hơn nữa tâm trạng “bẽ bàng” của nhân vật trữ tình khi bị giam lỏng trong vòng luẩn quẩn đầy tù túng. Khung cảnh đó như chia cắt và xoáy sâu hơn nữa vào bi kịch của Thúy Kiều: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” và khơi gợi nỗi nhớ về những ngày đã qua.
Ngòi bút tinh tế của tác giả Nguyễn Du tiếp tục lách sâu vào dòng tâm trạng của nhân vật khi miêu tả nỗi nhớ của Thúy Kiều. Trước hết, nàng nhớ về hình bóng chàng Kim và đêm thề nguyền nguyện ước giữa hai người:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”
Tình yêu đối với chàng Kim trở thành nỗi day dứt mạnh mẽ nhất trong tâm trạng của Thúy Kiều, bởi “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”, và nàng đã chọn cách đoạn tình để làm trọn đạo hiếu. Sau đó nàng nhớ về cha mẹ mình:
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”
Là một người con có hiếu, dù đã bán mình chuộc cha nhưng trong lòng Kiều vẫn trĩu nặng nỗi nhớ thương về cha mẹ. Tác giả đã sử dụng điển cố điển tích- một biện pháp nghệ thuật điển hình trong thi pháp của nền văn học trung đại để nói lên tấm lòng hiếu thảo của nàng Kiều. Nhưng điểm đặc sắc là tác giả đã đặt nỗi nhớ của chàng Kim lên trước nỗi nhớ về cha mẹ, thể hiện rõ nét sự tinh tế trong việc miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả Nguyễn Du. Bởi lẽ với cha mẹ, nàng đã bán mình, hi sinh bản thân; còn đối với chàng Kim, nàng vẫn còn mang nợ một lời thề cùng một tình yêu son sắt thủy chung và nàng tự cho mình là người phụ bạc.
Sau khi nhớ về quá khứ, về tình yêu, về gia đình thì tâm trạng của nàng Kiều chìm trong nỗi buồn đau, cô đơn và lo sợ về thực tại và tương lai. Bút pháp tả cảnh ngụ tình đã được tác giả vận dụng một cách điêu luyện để miêu tả những con sóng trong tâm lí nhân vật:
“Buồn trông cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới ra
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Đây là tám câu thơ hay nhất trong trích đoạn này khi miêu tả tâm trạng của nàng Kiều. Cảm xúc sầu buồn đã được miêu tả thông qua bức tranh thiên nhiên từ xa đến gần với gam màu ảm đạm trong không gian u tối, và mỗi cặp câu bắt đầu bằng cụm từ “Buồn trông” lại mang những ý nghĩa ẩn dụ vô cùng ý nghĩa. Trước hết, tác giả đã khắc họa nỗi buồn tha hương cũng như khao khát đoàn tụ qua hình ảnh cửa bể- con thuyền. Hơn ai hết, nàng hiểu rõ rằng chút hi vọng nhỏ nhoi thoát khỏi sự giam cầm vẫn là vô vọng. Bởi vậy nàng đã buồn cho số phận trôi dạt mong manh đầy bi kịch của mình thông qua hình ảnh “hoa trôi man mác”. Câu thơ kết thúc bằng từ nghi vấn “biết là về đâu” đã tạo nên một câu hỏi tu từ gợi nên sự mơ hồ, hoài nghi về hiện tại và tương lai. Dự cảm đó tiếp tục được lặp lại và nhấn mạnh hơn nữa trong hai câu thơ cuối cùng:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Âm thanh của tiếng sóng đã được tác giả nhấn mạnh thông qua việc sử dụng từ láy tượng thanh “ầm ầm” kết hợp với biện pháp đảo ngữ, gợi tả thành công sự dữ dội như đang gào thét nơi biển xa. Trước không gian rộng lớn ầm ầm sóng vỗ, Thúy Kiều đã có những dự cảm và nỗi lo sợ đầy bất an về những bất trắc đang ập đến và vùi dập cuộc đời. Như vậy, với tám câu thơ được kiến tạo theo câu trúc lặp lại của cụm từ “Buồn trông”, tác giả Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mênh mông, rộng lớn, vừa vắng vẻ vừa dữ dội để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc của nỗi buồn trong tâm trạng của Thúy Kiều.
Thông qua diễn biến dòng tâm lí của nhân vật Thúy Kiều, chúng ta càng hiểu rõ hơn nữa về cuộc đời của Thúy Kiều – “tấm gương oan khổ” thể hiện rõ số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh và trải qua vô vàn bi kịch về gia đình, về tình duyên, về nhân phẩm. Đồng thời, thấy được tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật thông qua bút pháp “tả cảnh ngụ tình” và sử dụng những biện pháp nghệ thuật vô cùng đặc sắc.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều – Mẫu 3
Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, đoạn nói về tâm trạng của Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích vẫn được người đọc xưa nay coi là một trong những đoạn thơ tuyệt vời về nghệ thuật tả cảnh và tả tình. Thế nhưng cái hay của cả đoạn thơ như ngưng đọng trong những câu thơ cuối cùng, ở bốn bức tranh:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
……….
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Tám câu thơ trên là cảnh nhưng thực sự là tình, Nguyễn Du tả cành nhưng thực sự là tả tình.
Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng “buồn trông” nghĩa là nỗi buồn đã sẵn tự trong lòng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn ấy. Vừa ngắm vừa buồn, càng ngắm càng buồn, càng buồn càng ngắm. Nói như thế thật là hợp lí, thật đúng với tâm trạng Thuý Kiều lúc này. Vì sao vậy? Vì nỗi buồn của Kiều là nồi buồn lớn, không phải là nỗi buồn thoáng qua vì một duyên cớ chốc lát, mà là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người. Quá thật, trong suốt phần đầu của “Truyện Kiều”, chưa bao giờ Kiều buồn như lúc này, bởi chưa bao giờ Kiều kịp có lúc để nhìn vào chuyện buồn của mình, ngẫm cho kĩ, thấm cho sâu về chuyện buồn ấy. Xa Kim Trọng, phải bán mình chuộc cha, Kiều chỉ kịp đau đớn, nhưng gia biến nặng nề, nỗi đau của cha, nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của các em, những điều ấy đòi hỏi Kiều phải đứng vững, tạm quên mình đi để giải quyết việc nhà cho trọn đạo một người con. Một người chị, phải rời gia đình, cùng Mã Giám Sinh ra đi, trong nỗi buồn vì không vẹn tình với Kim Trọng, Kiều có niềm an ủi đã cứu được gia đình. Vừa đến Lâm Tri, bước vào nhà mụ Tú Bà, chưa kịp hồi sức sau một chặng đường dài “Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”, Kiều đã hoảng hốt vì quang cảnh nhà mụ. Kiều đã gặp ngay một trận “ tam bành” của con mụ bán thịt người ác độc. Có lẽ Kiều đã đau, đã nhục, đã căm hờn, nhưng chưa kịp buồn.
Bây giờ mới thực sự buồn. Ta hình dung Kiều ngồi một mình trên lầu Ngưng Bích (thực chất là lầu rước khách của mụ Tú), bốn bề là mênh mông vắng lặng. Cảnh ấy dội vào lòng Kiều, xui nàng nghĩ về thân phận của mình. Nỗi buồn mỗi lúc một thấm thía. Nàng buồn vì nhớ tới Kim Trọng, người mới cùng nàng thề bồi tha thiết mà nay thì vĩnh viễn cách xa. Nàng buồn vì nỗi xa cha mẹ, từ nay mỗi ngày một già yếu mà không có nàng để hôm sớm đỡ đần chăm sóc. Nỗi buồn thật là vời vợi mênh mông, giờ đã đọng thành khối trong lòng Kiều. Nếu ban đầu nỗi buồn còn từ cảnh một dội vào lòng thì lúc này nỗi buồn lại chính từ lòng buồn. Với hai tiếng’ “buồn trông”. Nguyễn Du sao mà hiểu lòng người sâu sắc quá vậy!
Kiều trông gì?
Đây là bức tranh thứ nhất:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
Trông về “cửa bể” mà lại là “cửa bể chiều hôm”. Lúc ấy mặt trời sắp tắt, chỉ còn để lại những ánh sáng thoi thóp cuối cùng trên mặt nước. Nhìn về cửa bể tức là còn nhìn thấy cả một mặt bể đang mất hút đi ở cuối chân trời. Phía ấy không có gì cả ngoài một trống vắng mênh mông, một bầu trời đang dần tối. Thế mà trên cái nền trống vắng lại nổi lên hình ảnh “thuyền ai”. “Thuyền ai” tức là chỉ có một chiếc thuyền, chứ không phải cảnh đoàn thuyền đông đúc tấp nập từ biển trở về để gợi lên một điều vui vẻ. Con thuyền gần như mất hút cuối chân trời, vì Kiều chỉ nhìn thấy cánh buồm của nó, mà cánh buồm thì lại cũng chỉ ‘’thấp thoáng”. “Thấp thoáng”, hai âm “th” gợi một cảm giác kịp lại. Với hai âm “ấp” và “oáng” một âm tấc, một âm vang – diễn tả hình ảnh cánh buồm mờ mờ tỏ tỏ, chợt hiện rồi chợt ẩn, nhấp nhô trên sóng biển, như mơ hồ, như ảo ảnh ở cuối biển xa xa. “Thuyền ai …” thuyền ai đó, thuyền ai thế nhỉ? Thuyền đang đi về nơi quê nhà thân yêu của ta chăng? Hay thuyền đang đi về nơi vô định, cũng cô đơn, cũng lưu lạc giang hồ như chính ta? Tâm sự này đã buồn, trông vào cảnh ấy, sao có thể không thấm thía nỗi buồn hơn.
Như để tìm một chút lãng quên, Kiều ngoảnh mặt nhìn sang hướng khác. Thì đây:
“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Trước mắt Kiều là một ngọn nước từ trên thác cao đang đổ xuống. Mới từ lòng suối chảy trôi khỏi đầu ngọn thác, ôi thôi, thế là tan tác đời trong trẻo với êm đềm của nước. Bây giờ là lúc bắt đầu của dập vùi, cuồn xoáy, sôi trào, xô dập, ngầu đục cát bùn. Kinh hãi thay cái phút từ trên mỏm đá cao sa xuống thác! Cảnh ngọn nước đã buồn, mà nhìn đến chân ngọn nước thì: hoa trôi man mác … Giá nhà thơ viết ”tan tác” thì cũng đành đi một nhẽ, cho nó tan vỡ đi, chìm lấp đi, những cánh hoa mỏng manh kia! Nhưng không, hoa rụng xuống dòng nước và bập bềnh trôi đi, bị đưa qua đẩy lại, rồi lại trôi đi, lặng lẽ, buồn bã, để đến một nơi nào không làm sao có thể biết được. Ngọn nước mới sa ấy, cánh hoa trôi ấy. có khác chi cuộc đời Kiều! Chính Kiều cũng là một ngọn nước vừa mới đi qua lòng suối êm đềm và vừa mới sa xuống giữa ngọn xoáy dập vùi. Chính Kiều cũng là đóa hoa đang man mác trôi đi. Đơn độc và mỏng manh trên một dòng nước vừa dài vừa rộng với bao nhiêu đe doạ chưa thế nào hình dung ra hết.
Lòng đã buồn, cảnh lại buồn quá. Thôi, hãy đưa mắt trông đi nơi khác.
“Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.”
Lại một cảnh mênh mông hoang vắng: một đồng cỏ phẳng lặng kéo mãi đến cuối tầm nhìn, không một bóng cây, không một dòng sông, không một gò núi, không nhà để phá vỡ bớt cái đơn điệu chán nản ấy đi. Chỉ có cỏ, cỏ và cỏ. Mà cỏ thì tươi tốt gì đâu! Từ “dầu dầu” không chỉ gợi lên ý buồn bã, mà còn hình dung thấy những ngọn cỏ lưa thưa ủ ê như đang dần héo hắt đi, đang mất sức sống. Đây không phải là đồng cỏ xuân đầy sức sống và niềm vui khi Kiều đi hội thanh minh:
“Cỏ non xanh rợn chân trời… ”
Đây là đồng cỏ cuối mùa, cũng đang buồn bã như chính lòng người ngắm cảnh, thế mà cái đồng cỏ ấy, cái màu cỏ ủ ê ấy lại kéo dài ra vô tận, tiếp cả với nền trời, thành một màu duy nhất: “xanh xanh”. Nêu Nguyễn Du viết:
“Chân mây mặt đất một màu xanh tươi”
Thì hẳn nàng Kiều đã tìm được ở đó một niềm an ủi, đôi chút lãng quên. Nhưng xanh xanh thì chưa hẳn là xanh, chỉ có vẻ xanh thôi, một màu xanh nhợt nhạt, xa xôi, làm gợi lên một niềm ngao ngán. Và có lẽ cái màu “xanh xanh” ấy là cái màu của tâm trạng được nhìn từ đôi mắt đẫm ướt khổ đau.
Thế là Thuý Kiều đã ngoảnh nhìn hết ba hướng. Nàng chỉ còn một hướng cuối cùng. May ra có chút đổi thay chăng?
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Hóa ra cái buồn của ba cảnh trước tuy buồn mà chưa thực là buồn. Ba cành trên buồn đến thế còn là nhẹ quá. Cảnh này mới thực là buồn. Ba bức tranh trên chi là những bước chuẩn bị cho cảnh buồn cuối cùng này. Một vùng biển ăn sâu vào đất liền, ngoài kia là biển lớn. Gió biển hun hút chạy vào duềnh, gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn, trắng xóa một màu. Sóng vỗ “ầm ầm” chứ không phải “ầm” như những ngày ít gió; sóng gào thét cuồng nộ, dập vào bờ, xô dập nhau, lớp sóng này chưa tan đã ào lên lớp sóng khác, liên tục, bất tận. Tiếng sóng lớn lắm, không chỉ vang ầm trên biển mà vang đi rất xa, vang khắp bốn bể. Kiều dường như mình không còn ngồi trên lầu Ngưng Bích nữa, mà ngồi đau chính giữa duềnh biển mênh mông ấy, bốn bên nàng là sóng vỗ. Mấy từ ”ầm ầm tiếng sóng” nghe đã dữ dội bên tai nàng, dâng lên gào thét trong tâm hồn nàng, vây bủa lấy nàng.
Nếu trong ba bức tranh trên, giữa người và ngoại cảnh còn là hai đối tượng phân biệt, đâu là chủ, đâu là khách, thì đến bức tranh này, con người đã nhập vào ngoại cảnh; ngoại cảnh trùm phủ lấy con người, nỗi buồn thực đã đi đến mức cùng tột của cao trào. Lúc này, con người sẵn sàng tan đi cùng với ngoại cảnh, sẵn sàng làm bất cứ việc liều lĩnh nào để hoặc thoát khỏi nỗi buồn ghê gớm ấy, hoặc có thể chết đi cũng không cần. Chính tâm trạng này đã dọn đường cho việc Kiều gặp Sở Khanh, liều lĩnh theo y rồi bị lừa gạt.
Bốn bức tranh của Nguyễn Du thật ra thì không lạ lùng. Nhưng thật là lạ lùng cách của Nguyễn Du diễn tả những bức tranh ấy trong sự hòa hợp với hoàn cảnh và tâm trạng của Thúy Kiều. Bởi Nguyễn Du rất tinh tế khi nhìn cảnh, rất sâu sắc về tình người, nhưng còn bởi điều này nữa: Nguyễn Du rất tài tình trong ngôn ngữ.
….
Phân tích tâm trạng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích qua 4 bức tranh: Buồn trông
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong thơ ca trung đại Việt Nam khá đặc sắc.Trong đó, đại thi hào Nguyễn Du là bậc thầy về miêu tả tâm lý nhân vật qua những bức tranh phong cảnh nhiều cảm xúc. Tác phẩm “Truyện Kiều”, một truyện thơ Nôm bất hủ của ông có nhiều đoạn thơ hay, đặc biệt là đoạn được coi là bức tứ bình bắt đầu bằng hai từ “buồn trông”, miêu tả tâm trạng Kiều ở Lầu Ngưng Bích:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Kiều vốn là một cô gái xinh đẹp, tài hoa và rất đỗi lương thiện.Sinh ra trong một gia đình trung lưu trong xã hội phong kiến, Kiều sống trong mái ấm gia đình cùng cha mẹ và hai em, được yêu thương và hạnh phúc trong nề nếp gia phong tốt đẹp.Thế rồi xã hội thối nát, với thế lực đồng tiền tàn nhẫn đã làm cho mái ấm gia đình ấy tan nát chỉ qua lời vu khống của “thằng bán tơ”.Kiều vì hiếu thảo, bán mình chuộc cha mà bị lừa dối, rơi vào lầu xanh của Tú Bà. Sau đó nàng bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích, một nơi hoang vắng, đáng sợ. Tâm trạng chua xót của Kiều trong những ngày tháng đơn độc ở đây đã được Nguyễn Du khắc họa qua một ngòi bút vô cùng sâu sắc và cảm động.
Mở đầu của bức tranh tứ bình, tác giả vẽ lên cảnh vật:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Đó là một bức tranh mênh mông của cảnh biển khơi “cửa bể” trong khoảng thời gian “chiều hôm” dễ gợi cho lòng người con gái xa quê hương xứ sở nhiều nỗi buồn thương. Giữa khung cảnh trời nước ấy là một con thuyền đang đi về đâu phía cuối chân trời. Nếu xét về ngòi bút tả cảnh thì đây quả thật là một bức tranh đẹp bằng ngôn từ, với tất cả sự khoáng đạt của thiên nhiên với mặt biển tuôn trào sóng vỗ. Nhưng đằng sau đó, ta như nhìn thấy nàng Kiều đang dõi mắt nhìn theo cánh buồm thấp thoáng xa dần. Buồm trôi về đâu, phải chăng đi về phía quê hương xa xăm, hãy cho nàng nhắn nhủ vài lời thương nhớ, bởi “xót người tựa cửa hôm mai…”.Và như vậy, con thuyền phía xa cửa bể đã chứa nặng mối tình quê của Kiều. Câu thơ lục bát đậm đà chất Việt qua những từ ngữ bình dị như “cửa bể”, “thấp thoáng” mà bỗng nhiên khiến người đọc liên tưởng tới cái xúc cảm Đường thi trong câu cuối bài thơ “Tuyệt cú” của Đỗ Phủ: “Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình”. Lúc viết bài thơ “Tuyệt cú”, Đỗ Phủ đang lưu lạc tha hương với nỗi nhớ quê hương canh cánh trong lòng, và ông cũng đành gửi nỗi niềm đó theo bóng con thuyền rồi sẽ rời bến.
Nếu như cái nhìn đầu tiên của Kiều là hướng ra xa khơi, với nỗi nhớ quê dâng trào như ngọn sóng, gửi trọn tình theo cánh buồm thấp thoáng xa dần, thì đến bức tranh thứ hai, Nguyễn Du để nhân vật ngắm nhìn phong cảnh ở tầm gần hơn:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Cái nhìn buồn của Kiều đã phát hiện ra một vài cánh hoa dập dềnh trôi trên ngọn sóng. Cảnh buồn thấm đẫm tâm trạng con người. Với câu hỏi tu từ “biết là về đâu?”, ta cảm nhận được một nỗi đau thân phận của người hồng nhan. Từ lâu, trong văn chương cổ, những cánh hoa trôi đã trở thành hình ảnh ước lệ tượng trưng cho thân phận người con gái có số phận lênh đênh, lạc loài, đáng thương. Như vậy bức tranh ngoại cảnh cũng là tâm cảnh, càng khiến cho nhân vật trữ tình thêm chua xót cho mình.
Rồi phóng tầm mắt về phía khác, không còn là mặt biển, nàng Kiều nhìn thấy hình ảnh:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Câu thơ lục bát trầm buồn, với cách sử dụng từ láy tinh tế “rầu rầu” và “xanh xanh” vừa tả được cảnh mà vừa thể hiện được lòng người. Sắc thái “rầu rầu” của cỏ gợi lên sự úa héo, không sức sống, trái hẳn với màu “cỏ non xanh tận chân trời” mà Kiều từng được ngắm trong tiết thanh minh, thuở đời nàng còn yên ấm. Đó cũng là biểu tượng cho số phận của nàng. Nội cỏ hôm nay ở phía trước lầu Ngưng Bích là một màu xanh xanh mù mịt, không có phương hướng, không có một con đường để có chốn mà đi.Đó chính là tâm trạng bẽ bàng đau xót của Kiều, khi nghĩ về số kiếp hồng nhan của mình, hẳn là nỗi đoạn trường còn đợi ở nơi nào phía trước. Từng khía cạnh lo âu, sợ hãi cứ thế được nhà thơ thể hiện trên từng câu chữ, khiến cho người đọc thêm xót xa thương cảm cho Kiều.
Bức tranh thứ tư không được Nguyễn Du miêu tả nhiều bằng màu sắc và hình ảnh, mà nhà thơ đặc tả cảnh vật bằng âm thanh đe dọa của sóng gió:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Những nét êm đềm, thi vị của cửa bể chiều hôm, ngọn nước- đóa hoa hay nội cỏ đã thay bằng sắc thái khác của cảnh vật. Đó là ngọn gió ở đâu kéo đến, cuốn dữ dội trên mặt duềnh. Có lẽ buổi chiều tà buông xuống, khiến cho sóng gió mạnh mẽ hơn, phong cảnh trở nên u ám, và lầu Ngưng Bích chơ vơ giữa khung cảnh đó càng khiến cho người con gái cô độc trở nên lo âu sợ hãi nhiều hơn. Từ láy “ầm ầm” gợi tả những âm thanh hung dữ của sóng gió, không còn ở đâu xa, mà ngay ở quanh ghế ngồi của nàng Kiều. Phải chăng đó không phải chỉ là sóng gió thiên nhiên, mà còn là linh cảm của Kiều về sóng gió cuộc đời đang bủa vây quanh nàng đầy đe dọa.
Bức tranh tứ bình cảnh vật thực ra là bức tranh tứ bình về tâm trạng, đã thể hiện rất rõ tài hoa của đại thi hào Nguyễn Du. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến bậc thầy trong miêu tả những khía cạnh tâm lý nhân vật. Từng từ ngữ, hình ảnh vừa rất cổ điển, mang tính ước lệ, mà vừa rất thật trong biểu lộ mạch cảm xúc thơ.Điệp từ “Buồn trông” đứng đầu mỗi câu lục bát tạo nên nhịp điệu vừa buồn bã, vừa ngày một dồn dập trong nhịp sóng. Và cũng từ “buồn trông” đó đã giúp người đọc nhìn rõ bức tranh trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn u sầu, âu lo của Kiều, người con gái đáng thương.
Có thể nói, không phải ngẫu nhiên mà “Truyện Kiều” được coi là một tuyệt tác của nền văn học dân tộc, và cũng không phải tự nhiên mà đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã làm lay động trái tim người đọc nhiều thế hệ. Ở đây, chúng ta cảm nhận được ngòi bút thấm thía tình yêu thương con người của đại thi hào Nguyễn Du, và càng thấy xót thương cho nàng Kiều, đóa hoa sen nhiều hương sắc bị chà đạp trong bùn lầy của xã hội phong kiến thối nát. Những nỗi đau xót của nàng Kiều sẽ mãi là tiếng nói tố cáo xã hội đó, và thôi thúc chúng ta thêm trân trọng giá trị cuộc sống bình yên, hạnh phúc ngày hôm nay.
Cảm nhận tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (trích Truyện Kiều) thể hiện rõ nét tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của thiên tài Nguyễn Du. Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích được nhà thơ lột tả từng lớp, từng lớp, cho người đọc một cái nhìn chi tiết về nỗi đớn đau, dằn vặt của Thúy Kiều trước ngưỡng cửa cuộc đời.
Đoạn trích thuộc phần đầu tác phẩm. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, tủi nhục, phẫn uất, nàng định tự vẫn. Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Tú Bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn.
Thứ tự miêu tả đi từ hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều đến thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ và kết thúc trong nỗi hoang mang, hãi hùng của tâm trạng. Sự chuyển tiếp tâm trạng của Thúy Kiều khi ở làu Ngưng Bích có thể là quá nhanh nhưng hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh và tính cách của nàng, một người con hiếu thảo, sống có trách nhiệm, một thiếu nữ với trái tim rạo rực, đắm say, thủy chung son sắt trong tình yêu.
Lầu Ngưng Bích ở chênh vênh trên một sườn núi. Nơi ấy cảnh quan hùng vĩ, thơ mộng, là địa điểm lí tưởng để tao nhân mặc khách du sơn thưởng ngoạn cảnh đẹp. Đất trời quyến luyến khói sương, non cao vọng về biển cả, thiên nhiên vũ trụ hòa hợp nhất thể khiến cho lòng người được an nhiên, tĩnh lặng. Đáng tiếc thay, ngay lúc này, Thúy Kiều không cần đến điều đó. Nàng đang ở trong nghịch cảnh đầy mâu thuẫn và lo toan, dù cảnh đẹp đến mấy cũng không thể khiến nàng khuây khỏa, nguôi ngoai được. Thế nên, Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích thấm đẫm một nỗi buồn ly tan.
Ngưng Bích nghĩa nơi ngưng đọng lại ánh trời xanh. Khóa xuân là khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa không được ra khỏi phòng ở). Nguyễn Du sử dụng từ khóa xuân với ngụ ý mỉa mai, nói lên cảnh ngộ trớ trêu của Kiều như tù nhân bị giam lỏng. Nàng trơ trọi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng: “bốn bề bát ngát xa trông”:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.
Cảnh “non xa”, “trăng gần” gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ trên lầu cao nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng hình thân thuộc bầu bạn, không cả bóng người. Hình ảnh “non xa” “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.
Nơi lầu cao, đẹp mà vô tình, Thúy Kiều ngày đêm đối diện với hoàn cảnh của chính mình, chẳng lúc nào nàng thôi nghĩ ngợi:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh, như chia tấm lòng”.
Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp những nỗi niềm chua xót đau thương khiến tấm lòng Kiều như bị chia xẻ “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Vì vậy, dù cảnh có đẹp đến mấy, tâm trạng Kiều cũng không thể vui được. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của nguyễn Du đã đi vào chỗ vi diệu. Cảnh làm nền cho tình, tả cảnh để tả tình. Cảnh đẹp và tình cũng rất đẹp. Hai yếu tố vừa song song lại vừa hòa cuộn vào nhau khiến cho bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích rối bời, tê tái.
Tám câu thơ tiếp theo diễn tả tâm trạng thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều. Đó là nỗi nhớ chủ đạo và thường trực nhất trong tâm trí Thúy Kiều lúc này:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”
Mối tình Kim – Kiều là nghìn năm có một. Người quốc sắc, kẻ thiên tài lưu luyến nhau thuở ấy đã trở thành kinh điển, mẫu mực cho tình yêu lứa đôi. Kiều “tưởng” như thấy lại kỉ niệm thiêng liêng đêm thề nguyền đính ước “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Cái đêm ấy hình như vừa mới ngày hôm qua. Một lần khác nàng nhớ về Kim Trọng cũng là “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”. Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết tin nàng bán mình, vẫn ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi.
Nàng nhớ người yêu với tâm trạng đau đớn: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thủy chung, không nguôi thương nhớ Kim Trọng. Cũng có thể là Kiều đang tủi nhục khi tấm lòng son sắt đã bị dập vùi, hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa cho được. Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can.
Có thể thấy, mối tình Kim – Kiều không gặp phải sự ngăn trở của gia đình. Tuy không lên tiếng ủng hộ nhưng gia đình không gây những trở lực có thẻ khiến cho hai kẻ yêu nhau phải bận tâm. Thế nên, sau nỗi nhớ Kim trọng, Thúy kiều nhớ về cha mẹ và bổn phận làm con của mình:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa?
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nàng xót xa khi tưởng tượng cha mẹ khi sáng, lúc chiều tựa cửa mong ngóng tin con. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể “Quạt nồng ấp lạnh” phụng dưỡng song thân, băn khoăn không biết hai em có chăm sóc cha mẹ chu đáo hay không. Nàng còn tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay, gốc tử đã vừa người ôm, cha mẹ ngày thêm già yếu.
Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa nói lên sức mạnh tàn phá của tự nhiên đối với cảnh vật, con người. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ. Kiều đã quên mất cảnh ngộ của bản thân, chỉ một lòng nghĩ và hướng về Kim Trọng, về cha mẹ. Tấm lòng ấy khẳng định Kiều là người tình chung thủy, người con hiếu thảo, người luôn nghĩ và sống cho người khác, người có tấm lòng vị tha đáng trân trọng.
Theo sự miêu tả, Kiều nhớ Kim Trọng trước, sau đó mới nhớ đến song thân. Nhiều hủ nho cho rằng như vậy là không đúng với truyền thống dân tộc, đi ngược lại lễ giáo, thuần phong mĩ tục. Thế nhưng, nhìn kỹ, thật ra lại là rất hợp lí. Kiều đã bán mình cứu cha và em, nghĩa là đã đền đáp được một phần công lao cha mẹ, nên nàng đỡ bứt rứt. Còn với Kim Trọng, vì chữ hiếu mà nàng đã bội bạc lời thề kết tóc se duyên, trăm năm đầu bạc với chàng. Kiều thấy mình như một kẻ phụ tình, phụ tấm lòng người yêu, nên nàng cắn rứt khôn nguôi. Đây là một nét bút đặc sắc, hết sức độc đáo của Nguyễn Du, phù hợp với quy luật và chiều sâu tâm lý con người.
Nhớ đến người rồi nàng lại nghĩ về mình. Phận nàng nhỏ bé, còn không gian thì rộng lớn quá, mênh mông quá. Cảnh vật ở lầu ngưng Bích tuyệt đẹp nhưng dưới cái nhìn của tâm trạng đau thương, buồn nhớ của người thiếu nữ, nó đã trở nên hoang vắng, tiêu điều:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Đây là 8 câu thơ thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng con người – mỗi một cảnh lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau, với những lí do buồn khác nhau trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn ấy mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt.
Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được tác giả khắc họa qua điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu có nghĩa là buồn mà trông ra bốn phía, trông nóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. “Buồn trông” có cái thoảng thốt lo âu, có cái xa lạ hút tầm nhìn, có cả dự cảm hãi hùng của người con gái ngây thơ lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang ngược. Điệp từ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau. Điệp ngữ lại được kết hợp với các từ láy chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập, chỉ có một từ láy tượng thanh ở cuối câu tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một tăng, dâng lên lớp lớp, nỗi buồn vô vọng, vô tận. Điệp ngữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng.
Mở ra nỗi buồn là cảnh biển mênh mang. Chiều hôm buông xuống. thời gian gợi nghĩ đến sự trở về đoàn tụ. Có cánh buồm xa xa, tín vật của sự gắn kết nhưng sao xa quá là xa:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.
Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng Kiều. Một cánh buồm nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối cùng của mặt trời sắp tắt; cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia đình, quê hương. Con thuyền gần như mất hút, vẫn còn lênh đênh trên mặt biển khi mà những con thuyền khác đều đã cập bến, biết bao giờ mới tìm được bến bờ neo đậu; cũng như Kiều còn lênh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những người thân yêu.
Đến bức tranh thứ 2, tầm nhìn tuy có gần lại hơn nhưng vẫn còn rộng quá:
“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Từ “Buồn trông” tiếp tục gợi âm điệu buồn mênh mang, nỗi buồn nhân lên khi nàng nhìn thấy cánh hoa trôi lênh đênh vô định. Từ “trôi” chỉ sự vận động nhưng ở thế bị động, những cánh hoa trôi mặc sóng nước vùi dập như số phận Kiều cũng thế. Những cánh hoa tàn lụi trôi man mác trên ngọn nước mới xa khi Kiều càng buồn hơn bởi như nàng như nhìn thấy trong đó thân phận mình lênh đênh, vô định, ba chìm bảy nổi giữa sóng nước. Cánh hoa mỏng manh, vô định gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu.
Không thể tìm thấy nơi để tâm hồn nương trú, nàng thoái tầm nhìn về với cảnh vườn mong tìm chút ấm áp. Thế nhưng, càng ngóng tìm càng thấy chơi vơi:
“Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
Nội cỏ “rầu rầu”, “xanh xanh”, hai sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây đến mặt đất. Có còn đâu cái “xanh tận chân trời” như sắc cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm. Màu xanh này gợi cho Kiều một nỗi chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ. Màu xanh nhợt nhạt héo hắt của cảnh vật chính là ẩn dụ cho tương lai mờ mịt vô vọng của Kiều. Kiều tuyệt vọng, mất phương hướng hoàn toàn. Đây vừa là tâm trạng vừa là cảnh ngộ đáng thương của Thúy Kiều
Cuối cùng, ngoại cảnh không còn niềm tin nào nữa, nàng trở về với chính mình trong nỗi hoang mang cùng cực:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn “gió cuốn mặt duềnh” làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế Kiều ngồi. Cái âm thanh “ ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Tất cả là đợt sóng đang gầm thét, rút gào trong lòng nàng. Lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực. Nỗi buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự tuyệt vọng. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tất cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời “thanh lâu hai lần, thanh y hai lượt”.
Đoạn thơ đã khắc họa thành công tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Có thể xem đây là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển. Để diễn tả tâm trạng Kiều Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” để khắc họa tâm trạng của Kiều lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắt có “ma đưa lối, quỷ đem đường”, đối với Kiều đang ở phía trước. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” như chứa đầy lệ. Lệ của người con gái lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi. buồn thương chua xót vì mối tình đầu tan vỡ, xót xa vì thương nhớ mẹ cha, lo sợ cho thân phận, số phận mình. Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh.
Phân tích nghệ thuật miêu tả tâm trạng Thuý Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích
Có thể nói, điều khiến chúng ta nhớ đến các nhân vật văn học là những nét phác thảo về ngoại hình những thứ giúp chúng ta hiểu về các nhân vật lại là diễn biến tâm lí, tâm trạng của họ. “Truyện Kiều” luôn hấp dẫn bạn đọc suốt hơn hai thế kỉ đến nay không chỉ bởi nội dung tác phẩm đặc sắc mà còn bởi nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Nguyễn Du. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện ngòi bút miêu tả tâm trạng Thúy Kiều của tác giả một cách rất tài tình.
Lầu Ngưng Bích là nơi Tú Bà giam lỏng Thúy Kiều để tạo cơ hội thực hiện một âm mưu khác sau khi nàng có ý định tự tử. Một mình giữa không gian bao la, rộng lớn như vậy, Thúy Kiều cảm thấy cô đơn, buồn tủi:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”.
Kiều rơi vào hoàn cảnh đáng thương đến mức tội nghiệp. “Khóa xuân” là khóa kín tuổi thanh xuân của người phụ nữ. Cuộc đời con người đẹp nhất là quãng thời gian tuổi trẻ vậy mà tuổi trẻ của Kiều lại phải trải qua biết bao biến cố trong quãng thời gian mười lăm năm lưu lạc. Phải chịu sự giam lỏng của Tú Bà ở lầu Ngưng Bích cũng đồng nghĩa với việc nàng không được sống cuộc sống tự do như bao người con gái khác. Lầu Ngưng Bích như nhà tù khóa kín sự tự do của một con người vô tội là Thúy Kiều. Từ đó ta thấy được cảnh ngộ bất hạnh và xót thương cho số phận của một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. Đối mặt với không gian rợn ngợp, nàng thấu hiểu nỗi cô đơn hơn ai hết. Nàng chỉ có “tấm trăng gần” bầu bạn. Cả bốn bề nam – bắc – đông – tây đều bát ngát, xa xăm. Càng hướng tầm nhìn của mình ra xa nàng lại càng cảm thấy vô vọng bởi nơi đây không có chút dấu vết của cuộc sống con người. Thúy Kiều bị cô lập hoàn toàn, xung quanh nàng là những khoảng không gian xa xăm, trống vắng: “non xa”, “tấm trăng gần”, “cát vàng cồn nọ”, “bụi hồng dặm kia”. Kiếm tìm một bóng dáng con người để sẻ chia tâm sự là điều vô cùng khó khăn.
Thực tại đau khổ khiến nàng cảm thấy không còn hi vọng vào tương lai:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
“Bẽ bàng” là tính từ diễn tả cảm giác hổ thẹn, buồn tủi. Thúy Kiều buồn tủi, xấu hổ vì mắc lừa Mã Giám Sinh để hắn bán vào lầu xanh và nàng hổ thẹn vì bản thân không còn sự trong trắng, không còn xứng đáng với mối duyên tình của chàng Kim Trọng. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” diễn tả sự lặp lại tuần hoàn của thời gian. Một mình ở lầu Ngưng Bích, sáng sớm Kiều làm bạn với mây, tối đến nàng làm bạn với ngọn đèn để vơi đi nỗi cô đơn. Tâm trạng lẻ loi, buồn tủi ấy đã khiến tâm trạng nàng chia thành hai nửa: “nửa tình” – “nửa cảnh”. Cảnh vật hoang vắng càng tô thêm nỗi buồn cho bức tranh tâm trạng của nhân vật. Nguyễn Du thật tinh tế khi nhận ra:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Nỗi cô đơn, trống vắng ngày càng lên tới đỉnh điểm được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm khi Thúy Kiều nhớ về cha mẹ và người yêu:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
Kiều nhớ về mối tình đầu bằng nỗi xót xa dâng trào. Chén rượu uống cùng Kim Trọng và lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” cùng chàng vẫn còn khắc ghi trong tâm trí và trái tim nàng. Đã đính ước, thề nguyền bên nhau trăm năm vậy mà giờ đây Kiều đang lưu lạc ở một phương trời xa còn Kim Trọng thì chưa biết hoàn cảnh Kiều gặp phải do chàng về quê chịu tang chú. Nàng mường tượng ra cảnh người yêu đang trò chuyện, mong nhớ về mình. Nhớ về Kim Trọng bao nhiêu thì nàng lại hổ thẹn bấy nhiêu. Thúy Kiều thủy chung một lòng với chàng Kim, “tấm son” ấy vẫn mãi nguyên vẹn dù có phải trải qua bao chông gai, trắc trở. Nhưng nàng cũng đau đớn và tự dằn vặt chính mình khi nhận ra “tấm son” mình dành cho Kim Trọng đã bị mất đi sự trinh bạch:
“Tiếc thay một đoá trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương”.
Tấm lòng thủy chung sắt son bị hoen ố như vậy biết đến khi nào nào mới gột rửa sạch? Nỗi đau của nàng liệu rằng chàng Kim có thấu hiểu được?
Là một người con hiếu thảo, Thúy Kiều không thể không nhớ về cha mẹ:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.
Nàng xót xa khi cha mẹ ngày ngày mong ngóng tin tức của con gái và nàng cũng xót xa cho cảnh ngộ của chính mình. Nàng lo lắng khi cha mẹ về già không có người bên cạnh chăm sóc, phụng dưỡng. Người con hiếu thảo với cha mẹ là người con quạt mát cho cha mẹ khi mùa hè nóng bức và vào chăn nằm trước cho ấm để cha mẹ nằm đỡ bị lạnh khi mùa đông đến. Kiều là chị cả trong gia đình nhưng hiện tại đang bơ vơ bên trời góc bể, không biết khi nào mới có thể trở về đoàn tụ cùng cha mẹ và các em. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” đã diễn tả được sự xa cách về thời gian và không gian địa lí giữa Thúy Kiều và cha mẹ. Đó là một khoảng cách xa xôi, cách trở. Nàng tự vấn rằng không biết khi nào mình mới có thể chăm sóc tuổi già cho đấng sinh thành để làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo. Nàng đang độc thoại với chính bản thân mình bằng một tâm trạng day dứt, đau đớn. Nguyễn Du đã miêu tả tâm lí nhân vật một cách rất rõ nét khiến người đọc, người nghe có thể dễ dàng thấu hiểu và đồng cảm với tâm trạng của Thúy Kiều.
Bút pháp tả cảnh ngụ tình được tác giả sử dụng một cách triệt để ở tám dòng thơ cuối của đoạn trích không chỉ nhằm tái hiện lại khung cảnh lầu Ngưng Bích mà còn giúp bạn đọc đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại ở đầu bốn cặp lục bát cùng các câu hỏi tu từ đã khiến bạn đọc hình dung được đôi mắt u buồn của Thúy Kiều đang hướng về xa xăm với những nỗi lòng chất chứa không biết giãi bày cùng ai. Nỗi buồn chồng chất nỗi buồn tạo thành một khúc ca vang vọng trong lòng bạn đọc. “Chiều hôm” là khoảng thời gian gợi nỗi buồn, nỗi buồn ấy càng dâng lên đến đỉnh điểm khi Thúy Kiều trông ra cửa bể – một không gian rộng lớn. Phía xa xa ngoài biển khơi thấp thoáng cánh buồm nhỏ, cánh hoa nổi trôi vô định giữa dòng nước không biết đâu là bến bờ khiến nàng liên tưởng đến số phận của mình. Cuộc đời của nàng cũng nổi trôi bất định và chịu sự vùi dập như cánh hoa mỏng manh kia. Dòng nước cuộn xoáy và vũ trụ bao la đối lập với cánh hoa mỏng manh là ẩn dụ cho sự nhỏ bé của Thúy Kiều trước không gian rợn ngợp của lầu Ngưng Bích và trước những dập vùi của số phận. Nàng “trông nội cỏ” nhưng nội cỏ cũng chỉ có một màu héo úa, tàn tạ. “Rầu rầu” không chỉ riêng màu sắc của ngọn cỏ mà còn là tâm trạng của con người. Đó là nỗi buồn thảm, bất lực trước thực tại của Thúy Kiều. Màu “xanh xanh” của “chân mây mặt đất” ở đây không phải màu của sự sống, hi vọng mà nó là màu của sự vô vọng, chán chường. m thanh của tiếng gió, tiếng sóng khiến Kiều sợ hãi trước những biến cố sẽ xảy đến với cuộc đời mình. Sóng vỗ “ầm ầm” đến mức dữ dội ngoài biển khơi cũng giống như tiếng sóng vỗ trong lòng Kiều. Nàng không khỏi lo lắng cho những tai ương đang chuẩn bị ập xuống đôi vai bé nhỏ, yếu ớt của mình. Các từ láy “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm” đã góp phần làm nổi bật tâm trạng Thúy Kiều khi đối diện với không gian rộng lớn và nghĩ về thân phận của mình. Nguyễn Du đã sử dụng ngôn từ rất tinh tế kết hợp với các biện pháp tu từ điệp ngữ, ẩn dụ nhằm khám phá nội tâm nhân vật Thúy Kiều một cách chi tiết. Bốn bức tranh về cảnh vật là sự tăng tiến trong tâm trạng của Thúy Kiều từ cô đơn, buồn thảm đến tâm trạng sợ hãi, lo lắng. Nguyễn Du quả là người có “con mắt nhìn xuyên sáu cõi” (Mộng Liên Đường chủ nhân) khi miêu tả tâm trạng nhân vật Thúy Kiều một cách điêu luyện đến như vậy.
Có thể nói “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn trích thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lí, tâm trạng nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du. Qua đó, đoạn trích cũng khơi gợi được sự đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều từ các thế hệ bạn đọc. Đó cũng là lí do mà “Truyện Kiều” được dịch sang nhiều thứ tiếng và vẫn vẹn nguyên giá trị đến ngày nay.
…
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích 2 Dàn ý & 16 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.