Văn mẫu lớp 9: Phân tích Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong văn học trung đại gồm dàn ý chi tiết, cùng 2 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 9 tham khảo để hoàn thiện bài viết của mình thật hay. Vậy mời các em cùng theo dõi nội dung chi tiết trong bài viết dưới đây của Wikihoc.com:
Đề bài: Hãy phân tích Chuyện người con gái Nam Xương, Truyện Kiều và một số bài thơ của Hồ Xuân Hương nhằm làm nổi bật hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong văn học trung đại.
Dàn ý hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại
1. Mở bài
Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ nói chung và người phụ nữ trong văn học trung đại nói riêng.
2. Thân bài
a. Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại
Người phụ nữ trong xã hội trung đại tuy đã có nhiều sự đổi mới nhưng vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng của người phụ nữ phong kiến.
Họ vẫn là những người có đầy đủ công – dung – ngôn – hạnh, vẫn bị phụ thuộc vào số phận và chịu nhiều bất hạnh, tổn thương.
Họ không chỉ là những người có ngoại hình xinh đẹp mà còn là những con người tài giỏi, có nhiều tài lẻ không thua kém bất cứ ai.
Người phụ nữ trong xã hội trung đại luôn nhận được sự yêu thương, đồng cảm, thậm chí là xót xa của bao thế hệ bạn đọc cũng như tác giả. Họ là nguồn cảm hứng bất tận cho những tác phẩm thơ văn.
b. Hình ảnh người phụ nữ trung đại qua một số tác phẩm văn học trung đại
– Vũ Nương: là một người vợ, người mẹ xinh đẹp, đảm đang, một lòng một dạ yêu chồng thương con, chăm lo vun vén cho nhà chồng nhưng lại bị chồng hiểu lầm dẫn đến cái chết đầy oan uổng.
– Thúy Kiều: là cô gái tài sắc vẹn toàn hiếm thấy nhưng lại sống một cuộc đời long đong, lận đận, chịu nhiều biến cố, tổn thương, nhiều lần bị bán vào lầu xanh,… khiến người đọc không khỏi đau xót.
– Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương: bà là tiếng nói mạnh mẽ của người phụ nữ lúc bấy giờ, khi chịu tổn thương đã dám đứng lên bộc bạch tâm tư của mình, mang hình ảnh, ước mơ của người phụ nữ đi vào thơ văn để lại nhiều giá trị cả về nghệ thuật lẫn nội dung.
3. Kết bài
Khái quát lại hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời rút ra bài học và liên hệ đến ngày nay.
Phân tích Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong văn học trung đại
Trong vô số những nạn nhân của xã hội phong kiến có một tầng lớp mà hết thảy các nhà văn nhân đạo đều đau xót, trân trọng và tập trung viết về họ, đó là người phụ nữ. Họ là Hình tượng tiêu biểu cho những số kiếp bi đát, cho những con người trong cuộc đời bế tắc. Họ là những con người có đủ tài năng, có đức hạnh thanh cao nhưng lại bị cuộc đời vùi dập xô đẩy. Trong số những tác phẩm viết về đề tài này, nổi bật nhất phải kể đến sáng tác thuộc trào lưu nhân đạo thế kỉ XVII – XVIII, những tác phẩm của những tác giả nổi tiếng như Nguyễn Dữ với Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn du với Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương với Làm lẽ, Bánh trôi nước vv … Đó là những tác phẩm mà đến nay như vẫn còn vang vọng tiếng kêu cứu não nùng đau đớn của những con người quằn quại trong vũng lầy xã hội cũ.
“Hồng nhan đa truân” – câu ấy có lẽ lại là một lời nhận xét rút ra từ hiện thực cuộc sống của người xưa. Có lẽ lời nhận xét ấy cũng phần nào đúng với thực tế vì trong hầu hết các tác phẩm, những người phụ nữ bất hạnh lại thường là những người phụ nữ đẹp. Đấy là những người có vẻ đẹp trung hậu, dịu dàng của người phụ nữ nông thôn như nàng Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương, có ” tư dung tốt đẹp ” hay vẻ đẹp khỏe mạnh tràn đầy sức sống của cô gái đương độ nhan sắc với nước da trắng và thân hình khỏe mạnh.
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Đến những người con gái có sắc đẹp khuynh nước khuynh thành như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen đua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành…
Vẻ đẹp của nàng làm lu mờ tất cả những gì được gọi là thanh cao nhất, đẹp nhất của thiên nhiên, đôi mắt trong thăm thẳm như làn nước mùa thu, nét mày thanh tú mơn mởn như rặng núi mùa xuân. Và vẻ tươi thắm của hoa, dáng vẻ yêu kiều mềm mại của liễu cũng phải “hờn” phải “ghen” với người con gái tuyệt sắc đó.
Không chỉ đẹp ở tư dung bên ngoài, họ còn có đủ tài năng đức hạnh. Đó là Vũ Nương tính thùy mị, nết na, giữ gìn khuôn phép. Chồng đi lính xã nhà, nàng ở nhà nuôi con, phụng dưỡng mẹ già và chung thủy đợi chồng. Đó là nàng Kiều với lòng hiếu thảo cao cả. Nàng sẵn sàng hi sinh thân mình cứu lấy gia đình khỏi cơn nguy biến, chấp nhận mọi sóng gió cuộc đời.
Với nhan sắc và phẩm hạnh cao quý như thế, đáng lẽ họ phải được sống cuộc đời êm đềm, hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay, bất hạnh lại ập đến với họ. Nỗi đau đớn nhất của người phụ nữ là gia đình tan vỡ và họ phải chịu nỗi giày vò cả thể xác lẫn tinh thần. Nỗi oan nghiệt đã đổ ập xuống đầu Vũ Nương. Khi chồng nàng trở về, chỉ vì lòng ghen tuông mù quáng, nghi vợ con tư tình, bèn đuổi nàng đi, để nàng nhục nhã đến nỗi phải tìm tới cái chết. Đến khi chồng nàng hiểu ra thì đã quá muộn màng. Ước mơ lớn nhất của nàng là được sống bình dị, nhưng hạnh phúc mãi mãi không bao giờ trở thành hiện thực đối với nàng.
Với Kiều, Người con gái “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, cuộc đời nàng con gian truân lận đận hơn nữa. Mối tình tuyệt đẹp giữa nàng và Kim Trọng, một văn nhân hào hoa, phong nhã, vừa mới chớm nở cũng là lúc nàng đau đớn dứt bỏ với tiếng gọi xé lòng :
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Chỉ sau một cơn gia biến, vì sự vu oan trắng trợn của thằng bán tơ, vì “ba trăm lạng bạc việc này mới xong”, mà nàng trở thành một món hàng để cho bọn buôn thịt bán người cò kè ngã giá:
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm
Người đọc đã không nén được xúc động trước nỗi đau khổ dằn vặt của người con gái liễu yếu đào tơ ấy “Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”. Nhưng đó chỉ mới mở đầu cho cả những chuỗi ngày đau khổ nhất cuộc đời nàng. Trong những chuỗi ngày ấy, nàng đã khóc không biết bao nhiêu lần. Từ tay Mã Giám Sinh, Kiều rơi vào tay Tú Bà, vốn nổi tiếng là mụ chủ của làng thanh lâu. Là con gái của gia đình Vương viên ngoại “Gia tư nghi cũng thường thường bậc trung”, vốn có dòng dõi cao quý, là một cô gái con nhà gia giáo. Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái thanh lâu. Nàng đã chịu bao trận đòn tàn khốc của Tú Bà, sau cùng Tú Bà lại bày mưu thuê Sở Khanh lừa nàng để buộc nàng trở thành một cô gái lầu xanh thực thụ. Bắt đầu những ngày ảm đạm nhất trong cuộc đời của nàng Kiều. Từ một cô gái trinh trắng, đức hạnh, nàng trở thành món đồ cho bọn khách làng chơi. Nàng xót xa thay cho số phận mình.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân
Không phải không có lúc dịp may đến với nàng. Nhưng đó là một chút ánh sáng lóe lên rồi chợt tắt ngấm khiến cho cuộc đời tối tăm của nàng tưởng hửng sáng nhưng rồi lại càng tối tăm mịt mù hơn. Ấy là nàng được Thúc Sinh một khách làng chơi hào phóng, ái mộ tài sắc của nàng chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ. Nhưng nàng lại rơi vào tay vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư, một tiểu thư con nhà quan, lại có thừa mưu mô xảo quyệt. Nàng đã bị tra tấn thật tàn nhẫn:
Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi
Hoạn Thư bày ra một cách thật ngang trái. “Ngay trong đêm hàn huyên của hai vợ chồng mụ, nàng đã phải đánh đàn, hầu rượu mua vui cho cả hai vợ chồng, để cho nàng đau đớn cả cõi lòng”, “Người ngoài cười nụ” mà “người trong khóc thầm”.
Đau khổ đến cùng cự, nàng đã định nương nhờ cửa Phật nhưng món nợ trần gian còn mãi đeo đẳng nàng. Nàng lại rơi vào lầu xanh lần thứ hai và lại được Từ Hải – vị anh hùng của cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình cứu ra khỏi lầu xanh. Cuộc hôn nhân của hai con người “trai anh hùng, gái thuyền quyên” đó đã tưởng được bền lâu. Cho đến khi công thành danh toại “Triều đình riêng một góc trời”, đã báo ân báo oán, nàng lại rơi vào cái bẫy hiểm độc của Hồ Tôn Hiến khiến cho nàng vô tình tiếp tay cho kẻ giết chồng mình. Lúc đó Từ Hải chết cũng là lúc Kiều tắt hết niềm hi vọng. “Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi”. Ngay sau cái chết của chồng, nàng bị ép gảy đàn mua vui cho chiến thắng của chúng. Tên tổng đốc Hồ Tôn Hiến bỉ ổi làm nhục nàng, và khi chợt tỉnh hẳn đã không ngại gả nàng cho một viên thổ quan. Lần này nàng tự tử và lại được cứu thoát. Nàng may mắn trở về gặp gia đình, gặp lại người tình xưa nhưng đối với nàng, cuộc sống lứa đôi không còn ý nghĩa. Đó là niềm an ủi cuối cùng của nàng Kiều như một lời nhận xét của nhà phê bình văn học. Đối với những người phụ nữ bình dân, thân phận của họ cũng không hạnh phúc. Bao người con gái đã chịu cảnh sống mà như chết trên cõi đời. Trẻ trung, có chồng nhưng sống như những góa phụ, thực chất họ chỉ là những đầy tớ không công, không hơn không kém. Hồ Xuân Hương có lần chua xót thốt lên:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Người con gái trong xã hội phong kiến không được quyền định đoạt bất kì một vấn đề gì. Thông qua hình tượng chiếc bánh trôi bập bềnh, trôi nổi. Hồ Xuân Hương đã nói đến cuộc sống cũng như đức hạnh của người phụ nữ:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Như chiếc bánh trôi nước, thân phận người phụ nữ tùy thuộc vào bàn tay của người khác, họ đành cam chịu số phận đã sắp đặt sẵn và cố giữ lấy cho mình một phẩm chất tốt đẹp đó là tấm lòng kiên định trong sáng.
Phản ánh những bi thảm của người phụ nữ, các nhà văn nhân đạo không thể giấu nổi tình cảm xót xa, đau đớn của mình. Nhiều khi tác giả đóng vai trò người ngoài cuộc nhưng cũng không thể không bộc lộ những cảm xúc :
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Với nàng Kiều người con gái được coi là biểu tượng của một nỗi đau khổ. Nguyễn Du dành cho tình cảm đặc biệt. Ông cũng nức nở như nàng khi mối tình đầu của nàng tan vỡ, cũng đau đớn khi những lằn roi quất lên làn da thịt nàng, cũng bao đêm cùng nàng thao thức: “Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy, năm canh” Tình yêu thương con người đã khiến nàng vượt lên chính bản thân mình. Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc ở một chừng mực nào đó, ông cũng là đại diện cho từng lớp quý tộc phong kiến, nhưng ông đã thẳng thừng lên án bọn quan lại, những kẻ gây lên cuộc đời đau khổ cho nàng Kiều. Đối với những phường buôn thịt, bán người ông chủ trương trừng trị đích đáng tội ác của chúng ngay tại kiếp này, chứ không cho đến kiếp sau.
Hồ Xuân Hương và một số nhà thơ khác cũng có thái độ tương tự. Chưa bao giờ cuộc sống gia đình và hạnh phúc riêng tư được đề cập đến nhiều như giai đoạn này. Thông qua hình ảnh một người phụ nữ chịu kiếp làm lẽ hẩm hiu, khao khát hạnh phúc. Hồ Xuân Hương đã nói lên tiếng nói đòi quyền được hưởng hạnh phúc, được sống trong mái ấm gia đình của người phụ nữ. Mặt khác bà cũng lột trần bộ mặt của những kẻ được gọi là văn nhân, tài tử trong xã hội phong kiến, chúng mang bộ mặt đạo đức giả luôn tỏ ra cao đạo nhưng thực chất là những kẻ dâm ô nhất. Lên tiếng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ, đồng thời các nhà văn, nhà thơ cũng lên tiếng đả phá chế độ đa thê đã từng chôn vùi cuộc sống của nhiều cô gái trẻ. Đó là dấu hiệu của sự rạn nứt ý thức hệ phong kiến nặng nề đã tồn tại từ bao đời nay.
Viết về người phụ nữ là một sự tiến bộ vượt bậc của các tá giả văn học cổ Việt Nam. Khi phản ánh số phận của những người phụ nữ bất hạnh, các nhà văn đã không khỏi băn khoăn và tìm đến cách lý giải những nỗi khổ của người phụ nữ không tránh khỏi những sai lệch. Nguyễn Du đã lý giải nỗi đau khổ của nàng Kiều là bởi “tài mệnh tương đồ”, vì “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” “Ông trời một thế lực tối cao vô hình vốn ghen ghét đối với những người đàn bà đẹp. Nhưng bằng hiện thực tác phẩm, Nguyễn Du đã lý giải, những kẻ đê tiện, bỉ ổi từng hãm hại cuộc đời nàng Kiều đã hiện lên rất thực rất sinh động. Từ tên bán tơ xảo quyệt, mụ Tú Bà buôn thịt bán người hay tên quan xử vụ kiện họ Vương ăn đút lót “Có ba trăm lạng việc này mới xong”, tới tên tổng đốc trọng thần dâm ô, bỉ ổi Hồ Tôn Hiến … cả xã hội hỗn loạn đó đã vùi dập cuộc đời nàng Kiều chứ không phải ai khác. Một thế lực tuy vo hình nhưng vô cùng tàn bạo cũng là nguyên nhân dẫn đến khổ đau của người phụ nữ. Đó là thế lực của đồng tiền. Đồng tiền làm đảo lộn mọi người phụ nữ. Đó là thế lực của đồng tiền. Đồng tiền làm đảo lộn mọi sinh hoạt của xã hội. Chẳng thế mà đã bao lần nhà thơ đau đớn thốt lên:
– Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền
– Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong
Những hủ tục phong kiến như nam quyền, chế độ đa thê cũng tạo nên đau khổ cho người phụ nữ. Đứng trước nỗi đau đớn ấy, nhiều nhà văn không thể né tránh trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Văn học thời kỳ này đã góp cho nền văn học Việt Nam một trào lưu văn học nhân đạo cao cả với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó cũng là khởi đầu cho mọi trào lưu nhân đạo sau này.
Nhưng tác phẩm văn học đó cho ta thấy lại cả một quãng đời đau thương, tủi nhục của cả một tầng lớp người xưa trong xã hội và nỗi cảm thương sâu sắc với họ, của những nhà văn nhân đạo. Đó là những tác phẩm nghệ thuật chân chính cần được gìn giữ và lưu truyền.
Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại
Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại mang vẻ đẹp ở cả ngoại hình lẫn tài năng và nhân cách. Trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, nhân vật Vũ Nương đã được tác giả thái độ rất trân trọng khi dành những lời giới thiệu về nàng đầy thiện cảm: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”.
Chính vì những nét đẹp đó của Vũ Nương mà Trương Sinh đem lòng yêu mến và “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Qua lời giới thiệu của tác giả, có thể cảm nhận được vẻ đẹp của Vũ Nương rất đỗi thuần khiết, trong sáng, nàng xuất hiện như một mẫu hình, mực thước của vẻ đẹp người con gái truyền thống trong quan niệm của dân tộc ta.
Đến với trang thơ của Hồ Xuân Hương, hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại lại được đặc tả bằng những nét vẽ hoàn mĩ, tràn đầy sức sống: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Chỉ với hai tình từ “trắng”, “tròn”, nữ sĩ Xuân Hương cũng phác họa một bức chân dung của người phụ nữ với vẻ đẹp viên mãn, đầy đặn. Trong một tác phẩm khác, bà cũng lại một lần nữa tái hiện nét đẹp sáng tươi, trong trắng của người con gái không rõ bao nhiêu tuổi mà cứ thấy ngời lên sắc xuân xanh:
“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.”
(“Đề nhị mỹ nhân đồ” – Hồ Xuân Hương)
Khi đề cập tài năng miêu tả vẻ đẹp chân dung, thật thiếu sót nếu không kể đến Nguyễn Du vì thông qua những dòng mở đầu ông viết về hai nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều, thật sự đại thi hào đã để lại trình diện trước mắt người đọc tuyệt phẩm của vẻ đẹp. Vân đã rạng ngời:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Kiều lại càng thêm bừng sáng:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.”
Không chỉ đẹp về ngoại hình, nhân vật nữ của văn học trung đại còn đẹp về nhân cách lẫn tài năng, đây mới là những điều khiến nét vẽ về bức chân dung của người phụ nữ trở nên hoàn thiện. Chẳng hạn như trong lời giới thiệu về Vũ Nương, tác giả cũng đã giới thiệu về tính cách của Vũ Nương trước khi nhắc đến “tư dung tốt đẹp” của nàng.
Trong “Bánh trôi nước”, hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại hiện lên với nhân cách về sự son sắt, thủy chung, trước sau như một được thể hiện bằng câu thơ: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Và những nét đẹp về những người phụ nữ này cũng thường đi liền với tài năng của họ mà Thúy Kiều chính là một trong những gương mặt đại diện của sự toàn sắc, toàn tài, bao gồm cả cầm, kì, thi, họa:
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.”
Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại còn hiện lên với qua bi kịch “hồng nhan bạc phận”. Dù xinh đẹp, tài năng và có những phẩm chất quý giá, thế nhưng họ cũng là nạn nhân của biết bao bi kịch cuộc đời để rồi phải ngậm đắng, nuốt cay. Đó là bi kịch của chế độ xem trọng nam giới, còn nữ nhi xếp vào thứ yếu. Thế nên trong hôn nhân, họ phải chịu sống kiếp làm lẽ và hạnh phúc trọn vẹn đối với họ mà nói dường như chỉ là một định nghĩa quá mong manh.
Họ cũng hiểu, số phận đó không chỉ của riêng một người nào mà là số kiếp chung của tất cả những người phụ nữ khi sống trong xã hội trọng nam, khinh nữ. Họ không trách những người phụ nữ khi chia sớt hạnh phúc của mình, có trách là trách quan niệm của lễ giáo khắc nghiệt:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công”
(“Lấy chồng chung” – Hồ Xuân Hương)
Nếu được chồng yêu thương, thì họ lại phải chịu cảnh xa cách, chia lìa bởi hoàn cảnh chiến tranh. Ngày tiễn biệt thấy sao đầy lưu luyến:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.”
(“Chinh phụ ngâm” – Đặng Trần Côn)
Với người phụ nữ, khi được sống trong sung túc nhưng hạnh phúc chỉ là những gì chắp vá, tạm bợ thì họ cũng chẳng thiết tha. Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại còn hiện lên với người cung nữ trong tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều. Dù sống trong nhung lụa nhưng đối với họ đó lại là những tháng ngày vô cùng buồn bã, cô đơn vì sự lạnh lùng, ruồng bỏ của vua. Tuổi xuân của họ cứ hết ngày này qua tháng khác bị chôn vùi trong cung cấm với nỗi hờn tủi, xót xa:
“Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa.”
“Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhị vàng.”
(“Cung oán ngâm” – Nguyễn Gia Thiều)
Và sau khi tiễn người chinh phụ trong quyến luyến, người chinh phụ hiện lên với tâm trạng cô đơn, lẻ loi đằng đẵng. Không ai có thể chia sẻ nỗi lòng cùng nàng, trong gian phòng đầy ắp những thổn thức, nhớ thương chỉ còn một ngọn đèn leo lét bầu bạn nhưng cũng không thể giúp nàng khôn nguôi nỗi nhớ:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
(“Chinh phụ ngâm” – Đặng Trần Côn)
Người chinh phụ có ra đi, nhưng dẫu sao cũng còn có thể hi vọng có ngày trở về cùng người vợ yêu quý trong đoàn viên. Còn Vũ Nương trong truyện “Người con gái Nam Xương”, nàng đã đợi được ngày vợ chồng đoàn tụ sau những ngày dài chồng đi tòng quân nơi xa xứ, nhưng hạnh phúc lại chẳng tày gang khi Trương Sinh lại là một người chồng đa nghi cho tiết hạnh của nàng. Mặc cho Vũ Nương hết lời minh oan nhưng Trương Sinh vẫn sắt đá không hề lay chuyển. Chính vì vậy, vợ chàng phải tìm đến cái chết như một sự chứng giám cho phẩm giá trong sạch của mình.
Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại còn thể hiện qua những lời tự sự về cuộc đời Kiều qua những trang viết của Nguyễn Du, ta càng đau đớn hơn khi nàng phải sống lưu lạc đến tận mười lăm năm trời, tiếc nuối hơn đó là mối tình như hoa như mộng của nàng với Kim Trọng phải chịu cảnh trâm gãy gương tan. Bi kịch của Kiều là bi kịch được tạo nên bởi sự dồn đuổi của các thế lực độc ác, nhẫn tâm của xã hội nàng sống. Xã hội đầy áp bức, bất công đó đã khiến cho nàng, một người con gái tài sắc vẹn toàn mất đi niềm hạnh phúc mà nàng xứng đáng có được.
Để rồi, sau ngần ấy năm hi sinh vì gia đình, ngần ấy năm tủi nhục, ngày nàng trở về, trong nàng luôn có sự dằn vặt, đau đớn khi nhận hết mọi lỗi lầm phụ bạc người yêu về phía mình. Tình yêu đẹp đẽ một thời tuổi xuân, nay nàng xin chàng hãy xem là duyên “cầm cờ”. Những lời Kiều nói về phận đời của mình với Kim Trọng nghe mà nghẹn ngào, chua xót:
“Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
Ong qua, bướm lại, đã thừa xấu xa.
Bấy chầy gió táp mưa sa,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.
Còn chi là cái hồng nhan?
Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?”
Người phụ nữ ý thức về phẩm giá của mình và có khát vọng vươn lên
Dù bị bi kịch cuộc đời bủa vây có những lúc tưởng chừng như không còn lối thoát nhưng ở những người phụ nữ trong văn học trung đại vẫn luôn cho thấy ở họ có một ý thức sâu sắc về phẩm giá của mình cũng như khát vọng vươn lên để có được một cuộc sống tươi sáng hơn. Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại với vẻ đẹp ấy còn sáng lên qua nàng Kiều trong lần bị đưa đến nhà chứa của Tú Bà, tình cảnh trớ trêu khiến nàng phải sống và chứng kiến cảnh “bướm lả ong lơi”, Kiều đã khóc thương cho bản thân mình:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa.”
Và mặc cho lớp bùn hôi tanh có vùi dập, Kiều vẫn giữ vững tấm lòng sáng trong, tâm hồn thanh khiết:
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.”
Còn người cung nữ nơi cung cấm, ý thức về thân phận, về phẩm giá đôi khi như có lúc như hóa thành hành động muốn tự tháo cũi sổ lồng để giải thoát cho bản thân:
“Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!”
Đó là ước vọng, mong muốn chính đáng và thông qua hành động ấy, người phụ nữ như đã cất lên tiếng nói phản kháng trước những thế lực tàn nhẫn đã vùi hoa, dập liễu, khiến họ phải sống trong những tháng ngày triền miên đau thương, tủi hổ.
Bằng những sáng tác cả về chữ Hán và chữ Nôm, bằng những thể loại đa dạng (truyện, thơ, ngâm khúc…), nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật, các tác giả đã gửi gắm vào nhân vật của mình niềm thương cảm, chia sẻ với những đớn đau, tủi nhục mà họ phải gánh chịu.
Không chỉ vậy, các nhà văn, nhà thơ còn bày tỏ sự trân trọng những vẻ đẹp quý giá của họ. Đó là vẻ đẹp về cả ngoại hình, tài năng, nhân cách và đặc biệt hơn cả là dù sống trong hoàn cảnh như thế nào, họ vẫn cho thấy ở họ có một ý thức sâu sắc về thân phận của mình và khát vọng vươn lên để có được tự do và hạnh phúc.
Tóm lại, thông qua những nhân vật nữ, các tác giả văn học trung đại đã thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, đặc biệt là việc họ quan tâm đến số phận của con người trong hoàn cảnh trớ trêu, nghiệt ngã. Qua hình tượng người phụ nữ, họ đồng thời cũng cất lên tiếng nói tố cáo thế lực tàn bạo chà đạp lên hạnh phúc con người và ca ngợi những vẻ đẹp đạo đức quý giá mà đến mãi muôn đời, thiết nghĩ vẫn sẽ được gìn giữ, trân trọng.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong văn học trung đại Dàn ý & 2 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.