Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga tuyển chọn 17 mẫu hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 thấy được vẻ đẹp chính nghĩa, ngay thẳng của Lục Vân Tiên và nét dịu dàng, trọng ân nghĩa của Kiều Nguyệt Nga.
Qua đoạn thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga đã cho chúng ta thấy được chân lý không bao giờ thay đổi, ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Wikihoc.com để có thêm nhiều vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 9.
Phân tích đoạn thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
- Dàn ý phân tích đoạn thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (3 mẫu)
- Bài văn Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (17 mẫu)
Dàn ý phân tích đoạn thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
1. Mở bài
- Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), là thầy giáo, thầy thuốc, nhà thơ, …được nhân dân mến mộ. “Truyện Lục Vân Tiên” là tác phẩm xuất sắc của ông
- Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” thể hiện tinh thần đề cao đạo lí, chính nghĩa thông qua những hình tượng đẹp, có sức hấp dẫn với đông đảo công chúng
2. Thân bài
2.1. Nhân vật Lục Vân Tiên
* Đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga
- Hoàn cảnh: trên đường đi thi, ghé về thăm nhà.
- Tình thế: đơn độc (một mình) tay không.
- Thái độ: bất bình
- Hành động: bẻ cây làm gậy, xông vô
- Lời nói: “kêu rằng ….. hại dân”.
=> dũng cảm, nghĩa khí, mang khí phách của người anh hùng. Tính cách anh hùng, tài năng, vị nghĩa.
* Nghệ thuật:
- Miêu tả nhân vật qua hành động, lời nói.
- Dùng thủ pháp đối lập.
=> Làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của nhân vật.
* Trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga
– Sau khi đánh tan bọn cướp
– Lời nói:
- Hỏi: “ai than khóc” -> quan tâm, sẵn sàng giúp đỡ.
- Khẳng định: “ta đã…” -> an ủi.
- Can ngăn: “khoan khoan…” -> hiểu và xem trọng lễ giáo, cư xử đúng mực, coi trọng danh dự.
– Thái độ: vô tư, trong sáng, khiêm nhường, coi trọng khí phách, bổn phận của người anh hùng.
=> Thái độ ân cần, chu đáo, cư xử đúng mực, hiểu lễ giáo; tính cách khiêm nhường.
=> Vân Tiên là nhân vật lí tưởng, chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, từ tâm, nhân hậu.
2.2. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga
- Thái độ: biết ơn -> trọng nghĩa.
- Cử chỉ: cúi đầu lạy
- Lời nói: thưa, gửi -> lễ phép.
- Tính cách: chân thực, hiếu thảo, trọng nghĩa.
=> xưng hô khiêm nhường, nói năng dịu dàng, mực thước, bình dị, mộc mạc.
=> Là người con gái hiền hậu, nết na.
Cư xử: mời lên ngồi, mời đến nhà để được đền đáp ơn Vân Tiên
=> cách ứng xử ân tình, ân nghĩa.
=> Nguyệt Nga là cô gái thùy mị, nết na, có học thức và trọng tình nghĩa.
3. Kết bài
- Bút pháp lí tưởng hóa nhân vật;
- Miêu tả thông qua ngôn ngữ hành động, cử chỉ, …
- Ngôn ngữ thơ mộc mạc, bình dị, mang đậm màu sắc Nam Bộ.
- Trích đoạn ngợi ca đạo lý tốt đẹp ngàn đời của dân tộc thông qua các hình tượng nhân vật chính.
…..
Bài văn Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 1
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ, nhà văn, thầy thuốc, thầy giáo nổi tiếng đất Nam Bộ. Tên tuổi của ông gắn liền với “Truyện lục Vân Tiên”. Tác phẩm đại diện cho tiếng nói, quan niệm về đạo lý không chỉ của riêng nhà thơ mà đó còn là tiếng nói của cả dân tộc. Trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là trích đoạn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật và tư tưởng đạo lý của tác giả.
Có thể thấy tấm lòng nhân nghĩa là điểm sáng chói ngời trong nhân vật Vân Tiên. Tạ từ thầy dạy, chàng một mình rong ruổi trên con đường về kinh đô ứng thí. Lòng đầy ước mơ, hoài bão. Không ngờ, giữa đường, lại gặp chuyện chẳng lành. Nhân dân bồng bế, dắt díu nhau trốn chạy hoảng loạn, tiếng kêu van thảm thiết vang trời dậy đất. Ân cần hỏi han, rồi chẳng chút suy tính, chàng liền ra tay tương trợ để cứu dân lành thoát khỏi vòng lao lung.
“Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”
Quá bất bình trước hành động phi nghĩa của lũ bất nhân, chàng thét vào mặt chúng
“Kêu rằng: bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Hành động nhân nghĩa của chàng có lẽ là sự tiếp nối đạo lí tốt đẹp của dân tộc “Thương người như thể thương thân”. Tình yêu thương đã làm cao chí khí và lòng dũng cảm của chàng nho sinh họ Lục. Mặc cho lũ cướp mặt mày hung tợn, đằng đằng sát khí: “mặt đỏ phừng phừng”, chàng một mình lao vào vòng vây trừng trị bọn côn đồ. “Vân Tiên tả đột hữu xung”, một mình chàng với vũ khí thô sơ đấu lại cả bọn cướp gươm giáo sáng lòa. Với tài võ nghệ vô song, chàng tiêu diệt được tên cầm đầu toán cướp. Lũ còn lại như rắn mất đầu, quăng vũ khí, bỏ chạy tan tác. Hình ảnh Vân Tiên lúc này được nhà thơ so sánh như dũng tướng Triệu Tử Long phá vòng Đương Dương thời Tam Quốc. Thật là một hình ảnh đẹp tuyệt vời cho tinh thần đại nghĩa quên mình.
“Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”.
Giọng thơ hứng khởi, tràn đầy nhiệt huyết khi chiến thắng thuộc về người anh hùng dũng cảm.
Đánh tan lũ giặc, chàng Vân Tiên đã cứu thoát nàng Nguyệt Nga cùng người hầu khỏi cảnh nguy nan. Cuộc kì ngộ giữa giai nhân và trang hảo hán diễn ra thật cảm động. Nàng kính cẩn mời tráng sĩ về nhà để cha nàng “báo đức thù công”
“Ngẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”.
Trước lời lẽ chân thành và đầy biết ơn của Kiều tiểu thư, thì Vân Tiên “nghe nói liền cười”. Một nụ cười thật tươi, thể hiện tâm hồn hào hiệp, tính tình vô tư, khảng khái. Chàng coi việc đánh cướp là việc nghĩa nên làm. Người biết võ nghệ phải ra tay diệt trừ cái ác, đem lại công bằng, bình yên cho nhân dân. Nếu thấy việc bất bình mà không ra tay tương trợ thì đâu xứng đáng đứng trong trời đất này nữa:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Cụ Đồ Chiểu đã xây dựng nhân vật Lục Vân Tiên theo mô tuýp người anh hùng thời loạn, trọng đạo nghĩa. Đó là mẫu người anh hùng mà người đọc đã từng gặp trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”
Người anh hùng ra tay tương trợ nên đã cứu được nàng Nguyệt Nga khỏi cơn nguy khốn. Ngoại hình nàng tiểu thư con quan tri phủ không được miêu tả một cách chi tiết, tỉ mỉ mà ta vẫn hình dung ra chân dung của nàng qua cuộc đối thoại ngắn ngủi với chàng Vân Tiên. Đầu tiên là hành động tạ ơn đầy tôn kính đối với ân nhân của nàng.
“Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”.
Đang than khóc vì quá hoảng sợ trước bọn cướp Phong Lai, chỉ cần một lời hỏi han, động viên của Vân Tiên, nàng liền trấn tĩnh lại ngay. Cách nói chuyện không chỉ thể hiện thái độ kính cẩn, biết ơn chân thành, mà còn toát lên khí chất của một tiểu thư dịu dàng, có học thức. Qua cuộc nói chuyện, nàng đã tỏ bày hoàn cảnh của mình. Đó là việc nàng từ ngàn dặm xa xôi, không quản hiểm nguy, khó nhọc để làm theo lời cha “định bề nghi gia”. Tấm lòng hiếu thảo của nàng thật khiến mọi người cảm động:
“Quê nhà ở quận Tây Xuyên
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê
Sai quân đem bức thư về
Rước tôi qua đó định bề nghi gia
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành”.
Không chỉ có cách nói chuyện thùy mị, dịu dàng, nét đẹp tỏa sáng ở Nguyệt Nga có lẽ là lòng biết ơn chân thành, sâu sắc trước những hành động cao quý của chàng tráng sĩ.
“Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng”.
Lời nói thiết tha chân thành xuất phát từ tấm lòng biết ơn sâu nặng. Có thể nhận thấy, Nguyệt Nga là con người sống trọng tình trọng nghĩa. Trước nghĩa cử cao đẹp của Vân Tiên, lần thứ nhất nàng quỳ lạy rồi thưa chuyện gia cảnh của mình, lần thứ hai, nàng lại tha tha thiết mời ân nhân về nhà để được đáp đền ơn sâu nghĩa nặng. Cái ơn đó không chỉ là ơn cứu mạng mà còn cứu cả danh tiết của một người con gái, điều mà với một cô gái, nó còn quan trọng hơn cả tính mạng.
“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”.
Lời chối từ thẳng thắn và thái độ hào hiệp trượng nghĩa của Vân Tiên sau đó càng khắc sâu thêm ấn tượng đẹp đẽ của chàng tráng sĩ trong lòng tiểu thư Nguyệt Nga. Ấn tượng sâu đậm này đã biến mối hàm ơn ban đầu của nàng thành lòng yêu thương âm thầm mà mãnh liệt dành cho chàng Vân Tiên. Lòng thủy chung sâu sắc của nàng càng được bộc lộ sâu sắc và rõ nét ở những đoạn trích sau của tác phẩm.
Đoạn trích đã thể hiện thành công bức chân dung của hai nhân vật chính. Một Vân Tiên văn võ song toàn, hào hiệp trượng nghĩa, một Nguyệt Nga tài sắc vẹn toàn, hiếu thảo, thủy chung, trọng nghĩa tình. Cảnh gặp gỡ đầu tiên như dự báo trong lòng người đọc về một tình yêu đẹp song cũng lắm chông gai, thử thách, khiến người đọc bị lôi cuốn vào những sóng gió tiếp theo đang chờ đợi hai nhân vật ở phía trước.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 2
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, thơ văn của ông không có sự chau chuốt, cầu kỳ về câu từ mà lại rất mộc mạc, dân dã gắn liền với đời sống của con người Nam Bộ. Vì vậy trong nền văn học của Việt Nam, đại thi hào Nguyễn Du nổi tiếng với kiệt tác truyện Kiều, đây là tác phẩm được đông đảo độc giả trong nước, cũng như độc giả nước ngoài đón nhận bởi câu từ mượt mà, văn phong khoa học, giàu giá trị nội dung cũng như tư tưởng thì văn chương của cụ Đồ Chiểu đã thâm nhập vào đời sống, trở thành một phần đời sống của người dân Nam Bộ, người ta đọc Truyện Lục Vân Tiên phẩm của ông quen thuộc như những bài đồng dao dân gian. Truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng bởi chính chất mộc mạc, gần gũi ấy, trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” cũng đã thể hiện được phần nào đặc trưng thơ văn của tác phẩm này.
“Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trích đoạn của tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”, kể về hành động nhân nghĩa, vô tư của Lục Vân Tiên, khi chàng bắt gặp trên đường cảnh bạo tàn, chàng đã không hề né tránh hay e ngại những tai họa sẽ đến mà hết lòng ra tay cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích thể hiện được nét đẹp trong phẩm chất cũng như tâm hồn của Lục Vân Tiên, chàng làm việc nghĩa xuất phát từ tấm lòng mà không hề tính toán đến việc thiệt hơn, báo đáp ân nghĩa. Ngoài ra, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được xây dựng khá đặc sắc, nàng là một tiểu thư khuê các, khi được cứu giúp bởi Lục Vân Tiên nàng đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp như trọng ân nghĩa, hiền thục đoan trang lại là một người con có hiếu.
Mở đầu đoạn trích, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực, sống động những hành động của Lục Vân Tiên, đó chính là khi chàng ra tay diệt trừ cái bạo tàn, không cho phép nó làm tổn hại, gây ra đau khổ cho những người dân lương thiện, đây là một hành động đẹp, là biểu hiện ra bên ngoài của một tấm lòng đáng quý, đáng trân trọng.
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Câu thơ miêu tả những hành động của Lục Vân Tiên khi gặp một sự cố ở trên đường, đó là chứng kiến cảnh lũ cướp hoành hành, đang gây họa cho người dân, bản tính cương trực, căm ghét cái ác lại đề cao hành động nhân nghĩa đã thôi thúc Vân Tiên hành động, và hành động của chàng dường như cũng chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, chàng không hề suy nghĩ, tính toán thiệt mất nếu như mình can dự vào mà chàng lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại ấy, bảo vệ người dân. Và sự gấp rút của tình huống nên chàng không kịp chuẩn bị gì mà tiện tay bẻ luôn cành cây bên đường để làm vũ khí diệt trừ cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách cương trực, thẳng thắn của chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ/ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Lời nói của Lục Vân Tiên là hướng đến chỉ trích, phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng là tuyên ngôn sống đầy cao đẹp của chàng, sống là phải hướng đến bảo vệ cuộc sống của những người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ cho họ. Và những hành động bạo tàn, “hồ đồ” chàng càng không cho phép nó xâm hại đến những con người lương thiện ấy. Vân Tiên không chỉ là một con người có tình thương với con người, mang trong mình tinh thần chính nghĩa cao đẹp mà chàng còn là một chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi, điều này được thể hiện ra trong những hành động chàng chống lại những tên cướp:
“Vân Tiên tả đột hữu xông
………….
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Những động tác của Vân Tiên đều rất dứt khoát, nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, và những hành động anh hùng này được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn bỏ lại gươm giáo mà tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đảng này là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui, làm mục đích kiếm sống. Đối với những tên cướp ngày Lục Vân Tiên tuyệt đối không khoan nhượng,lời nói và hành động đều hết sức quyết liệt nhưng khi hỏi thăm người bị nạn thì chàng lại trở nên vô cùng dịu dàng, phải phép:
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này”
Không chỉ ra tay cứu giúp người bị nạn mà chàng còn hết lòng quan tâm đến họ, thể hiện ngay qua lời hỏi thăm ân cần, và động viên, giúp người bị nạn trấn tĩnh lại tinh thần sau cơn hoảng loạn bằng việc thông báo cho họ biết tình hình bên ngoài, rằng những lũ “kiến chòm ong” đã bị tiêu diệt, cũng tức không còn bất cứ sự nguy hiểm nào có thể đe dọa nữa. Và phẩm chất tốt đẹp của Lục Vân Tiên cũng tiếp tục được bộc lộ khi chàng có cuộc đối thoại với người bị hại, cũng tức Kiều Nguyệt Nga. Khi Kiều Nguyệt Nga có ý định bước ra khỏi kiệu để cúi lạy Lục Vân Tiên vì công cứu mạng thì chàng nhất quyết không chịu nhận:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Chỉ thông qua vài câu nói thôi nhưng ta có thể nhận thấy Lục Vân Tiên là một con người trọng đạo lí, cũng như những khuôn phép trong xã hội xưa. Chàng không muốn Kiều Nguyệt Nga ra ngoài cúi lạy mình vì không muốn sự gặp mặt này ảnh hưởng đến phẩm tiết của nàng, vì trong quan niệm của xã hội phong kiến xưa, thì “nam nữ thụ thụ bất thân”, tức là giữa con trai và con gái cần phải có những khoảng cách nhất định, không được tùy tiện gặp mặt hay có những hành động thân thiết. Lời nói của Lục Vân Tiên cũng thể hiện chàng là một con người có học thức, còn đặt lời nói ấy trong xã hội ngày nay thì ta lại thấy có cái gì đấy đáng yêu ở chàng trai này. Nhưng mục đích của Lục Vân Tiên không chỉ vì lễ tiết mà chàng cũng không muốn nhận sự báo đáp của Kiều Nguyệt Nga, bởi hành động cứu giúp của chàng là xuất phát từ tấm lòng chứ không phải vì mục đích vụ lợi gì “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga càng làm cho con người chàng trở nên đáng trân trọng hơn.
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Trong quan niệm của Lục Vân Tiên thì những việc nhân nghĩa là tất yếu, và nếu làm ơn mà trông ngóng việc trả ơn thì không phải người anh hùng “Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Như vậy, đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã khắc họa một cách chân thực, sống động hình ảnh của người anh hùng hiệp nghĩa Lục Vân Tiên, ở chàng hiện lên với biết bao phẩm chất tốt đẹp, không chỉ là con người nhân nghĩa, thấy việc ác là ra tay diệt trừ, bảo vệ sự bình yên cho con người mà chàng còn là một con người có học thức, trọng những lễ nghi, khuôn phép. Và ở chàng trai ấy ta cũng có thể thấy được một quan niệm sống thật đẹp, đó là quan niệm về việc nghĩa và về người anh hùng. Khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên cũng là cách nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 3
Mở đầu Truyện Lục Vân Tiên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết:
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân san.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình…
Lời thơ giản dị, rành rẽ như một tuyên ngôn, định hướng cho bước đi của toàn bộ tác phẩm. Với nhà thơ xứ dừa ấy, sáng tác văn chương không phải vì sự nghiệp văn chương mà trước hết, quan trọng hơn hết là vì mục đích giáo dục, truyền bá đạo lý, nhân cách con người.
Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được nhân dân ta – nhất là bà con ở Nam Bộ – yêu thích không phải vì có nhiều câu hay, lời đẹp, nghệ thuật tinh tế mà vì những chi tiết, sự việc, những nhân vật tỏa sáng đạo lí, vì những ý tưởng giáo huấn chân thành, thấm thía. Nội dung đạo lý bao trùm toàn thiên truyện là nhân nghĩa, là trung hiếu, tiết hạnh. Song đấy không phải những từ ngữ khô khan trói trong khuôn khổ phong kiến cổ hủ, nặng nề.
Với Nguyễn Đình Chiểu, nhân nghĩa là đạo đức của nhân dân, là căn cốt, gốc rễ để trau dồi, rèn giũa con người. Vì vậy, vào đầu tác phẩm – ở đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – nhà thơ đã hào hứng giới thiệu hai con người trẻ tuổi, biết hướng theo lòng nhân, biết hành động theo việc nghĩa.
Đó là Lục Vân Tiên – chàng trai tài ba dũng cảm, sẵn sàng làm việc “nghĩa”. Vân Tiên vốn con nhà thường dân nhưng học giỏi, văn võ kiêm toàn. Chàng đang háo hức trên con đường lên kinh ứng thi. Vậy mà gặp cướp. Không phải chúng gây sự với chàng, mà chúng đang quấy nhiễu nhân dân.
Trước mắt chàng, bày ra một nghịch cảnh: dân thì “than khóc tưng bừng – Đều đem nhau chạy vào rừng lên non” ; bọn cướp thì “xuống thôn hương – Thấy con gái tốt qua đường bắt đi”. Thế là, sau một lời hứa ngắn gọn: “Tôi xin ra sức anh hào…”, Lục Vân Tiên nhanh nhẹn “Ghé lại bên đàng, bẻ cây làm gậy”, xông thẳng vào giữa bọn cướp.Bọn cướp đông đặc. Tên tướng cướp “Mặt đỏ phừng phừng”, dữ tợn như một con ác thú.
Chúng “Truyền quân bốn phía bủa vây bịt bùng”. Lực lượng thật quá chênh lệch. Bèn kia là cả lũ lâu la đông như ong, như kiến. Bên này chỉ độc nhất một mình chàng trai dũng cảm với lời hứa chân thành “Cứu người ra khỏi lao đao buổi này”, với vũ khí giản dị “cây gậy bên đàng”. Vậy mà, chàng không chút nao núng:
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang.
Nhà thơ không tả tỉ mỉ trận giao chiến mà chỉ kể ngắn gọn bằng mấy dòng thơ, một đấu so sánh và dăm ba từ đặc sắc: “tả đột, hữu xông – Khác nào Triệu Tử…” đúng là một dũng tướng tài ba, đánh nhanh, kín võ, sánh ngang với Triệu Tử Long thời Tam quốc trong trận phá vây quân Tào Tháo ở Đường Đan Trường Bản. Ngày xưa Triệu Tử Long chiến đấu vì ngôi vua nhà Hán, vì bảo vệ ấu chúa A Đẩu, dù sao vẫn là nghĩa vụ của một bầy tôi trung thành.
Còn ngày nay, Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, cứu dân, trừ ác, vì việc nghĩa… hành động đó thật giản dị, vô tư trong sáng và cao đẹp biết bao. Cuộc chiến đấu của chàng y như trận đánh của Thạch Sanh„ diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh của nhân dân, của điều thiện.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đêu quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Lời thơ chân chất, có chỗ còn thô mộc, song hồn thơ chan chứa dạt dào. Đọc Lục Vân Tiên, chúng ta thường gặp nhiều câu chữ chân mộc như thế. Thơ chân mộc nhưng cảm hứng tác giả vẫn bay bổng, mộng mơ. Ngỡ như người thi sĩ mù ấy vừa kể chuyện vừa rung đùi thích thú, gửi tới bạn đọc một lẽ phải nhãn tiền: Người có lòng nhân, biết làm việc nghĩa thì sẽ thắng. Kẻ độc ác, bất nhân sẽ thảm bại như thế đấy. Xuất phát từ lòng nhân, Lục Vân Tiên đã làm được một việc “nghĩa”, một việc xứng đáng được gọi là anh hùng.
Tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ,… tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi, Lục Vân Tiên không một chút kiêu ngạo. Trái lại, chàng thật khiêm nhường, chính trực. Nghe cô hầu Kim Liên than thở nhưng vẫn còn hoảng sợ, Vân Tiên động lòng thương, an ủi: “Ta đã trừ dòng lâu la”.
Rồi ôn tồn, chàng thăm hỏi ngọn ngành từ tên họ, gia cảnh đến quê hương, nguyên cớ gặp nạn của hai cô gái. Trong lời chàng, có ý còn lạc hậu, ảnh hưởng quan niệm phong kiến “Nam nữ thụ thụ bất thân”, song tất cả đều chân thành, duns dị, rất đáng mến. Đáng mến, đáng phục hơn nữa là sau khi nghe cô tiểu thư Kiều Nguyệt Nga (nạn nhân được chàng cứu giúp) kể lể, thở than, ca ngợi và tha thiết muốn đền ơn, thì: Vân Tiên nghe nói liền cười
“Cái cười đáng yêu, đáng kính sao ! Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười của quần chúng rộng lượng, đều nở trên môi Vân Tiên” (Xuân Diệu – Đọc lại thơ văn Nguyễn Đình Chiểu). Sau nụ cười đáng yêu ấy là lời nói, cũng rất đáng yêu:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ – nôm na, giản dị. Nó cất lên từ một cõi lòng chất phác. Chất phác, là cái bên ngoài là cái vỏ xù xì, thô nháp. Nhưng phía trong, phần ruột thì cao đẹp, thắm đỏ, ngọt ngào thơm thảo một quan niệm nhân sinh rất hào hiệp, vô tư của một lớp người, một thế hệ con người. Chúng ta hiểu lời của Lục Vân Tiên như thế nào?. Trước hết, chàng khẳng định việc mình làm là hoàn toàn tự nguyện.
Gọi là ơn cũng được. Hay nên xem đó là việc “nghĩa” ? Làm việc “nghĩa” thì không nên đợi trả ơn, tính hơn thiệt,… vì “ơn nghĩa” là lẽ thông thường của người sống có văn hoá, đang theo đòi kinh sử, người hướng về nghĩa khí, lấy nghĩa lớn, lấy chữ nhân, lòng nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động.
Chàng đã hành động vì nghĩa lớn trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng chỉ mong Nguyệt Nga cũng như mọi người “rõ đặng nguồn cơn” – nghĩa là hiểu rõ, cảm thông với hành động của chàng. Sau nữa, chàng nhắc tới sử sách, nhắc lời các bậc hiền nhân xưa. Người xưa nói: “Kiến ngãi bất vi vô cùng dã”. Nghĩa là “Thấy việc nghĩa mà không làm, không phải người dũng cảm”.
Cách nói của chàng giản dị hơn: “Nhớ câu kiến ngãi bất vi – Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. “Phi anh hùng” là những kẻ tiểu nhân, hèn nhát. Lời của Vân Tiên chắc nịch, vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường, vừa khẳng định việc làm là đúng đắn, là tất yếu, hiển nhiên, thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của minh.
Đó cũng là lẽ sống của biết bao hiền nhân, quân tử ngày xưa, và bao con người chân chính ngày nay. Lời chàng, nhân cách của chàng, gợi nhớ Từ Hải, nhân cách Từ Hải trong Truyện Kiều: “Anh hùng tiếng đã gọi rằng – Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Thế đấy, Lục Vân Tiên thật dũng cảm, trọng nghĩa, khinh tài, tiêu biểu cho những chàng trai Nam Bộ.
Còn Kiều Nguyệt Nga là một cô gái hiền hậu, nết na biết trọng nghĩa tình. Sau khi được cứu thoát khỏi tay bọn bất nhân, độc ác, nàng vô cùng xúc động. Nàng đã nói những lời đẹp nhất để cảm ơn ân nhân:Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Nói “Tiết trăm năm” là nói việc hộ trọng của cả một đời người. “Lạy rồi sẽ thưa” cũng là một thái độ kính nể, thiêng liêng trong quan hệ của con người. Một cô tiểu thư vốn quen được yêu chiều, quen được bảo vệ, chở che mà xử sự như thế, hạ mình như thế, đâu phải chuyện dễ dàng. Nguyệt Nga là tiểu thư – con quan tri phủ – nàng được giáo dục chu đáo, nàng gắn bó với những người dân, nên tiếp nhận được đạo đức của nhân dân.
Đạo đức ấy là chữ “ân”, chữ “nghĩa”. Do đó, sau những phút giao đãi mở đầu, nàng thẳng thắn bày tỏ ý nguyện đền đáp công lao cứu mạng của Lục Vân Tiên. Thái độ và lời nói của nàng có cái gì lúng túng, ngượng ngập, nhưng chất phác, “nghe thánh thót bên tai giọng nói của cô gái miền Nam” (Xuân Diệu):
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Nguyệt Nga nói tới “của tiền”, “vàng bạc” để giãi bày sự thiếu hụt về vật chất. Lại nói tới “báo đức thù công” – đền đáp ơn đức, công lao. Rồi than thở “Lấy chi cho phí tấm lòng…” để giãi bày sự lúng túng vé tinh thần, những xúc động có thật của một tâm hồn trong trắng. Sau đó Nguyệt Nga cố mời Vân Tiên về nhà mình để tạ ơn. Nhưng chàng từ chối. Nàng băn khoăn, day dứt khôn nguôi.
Chỉ đến khi thấy “Vân Tiên nghe nói liền cười…” và an ủi: “Nhớ câu kiến ngãi bất vi – Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”, Nguyệt Nga mới khuây khoả hỏi thăm gia cảnh tuổi tên của vị ân nhân. Vậy đấy, ngay phút gặp gỡ ban đầu với Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga đã tỏ rõ một tâm hồn trung hậu, nết na. Tâm hồn ấy bắt nguồn từ đâu, nếu không phải từ đạo lí nhân nghĩa của nhân dân ta, nhất là nhân dân Nam Bộ cùng quê hương với Nguyễn Đình Chiểu. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng: Lục Vân Tiên là Truyện Kiều của nhân dân Nam Bộ.
Vân Tiên, Vân Tiên, Vân Tiên,
Cho tôi một tiền, tôi kể chuyện thơ…
Những nghệ sĩ hát rong vùng đồng bằng sông Cửu Long, thường giáo đầu bài hát Lục Vân Tiên bằng câu ca như thế. Ngay sau đó, buổi diễn xướng dân gian được đông đảo bà con hưởng ứng, quây tròn quanh người kể chuyện. Người diễn, người nghe giao hoà, say đắm hàng giờ, hàng buổi. Một trong những đoạn truyện được mọi người yêu thích là đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Ngư.
Yêu thích không phải vì văn chương chải chuốt, nghĩa lý thâm trầm như Truyện Kiều, mà trước hết vì: đoạn trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của Nguyễn Đình Chiểu và khắc họa phẩm chất đẹp đẽ của hai người trẻ tuổi – Lục Vân Tiên tài ba dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài ; Kiều Nguyệt Nga nết na, nhân hậu, ân tình.
Tất cả những vẻ đẹp ấy của đoạn thơ phù hợp với phong cách sống, với ước mơ, khát vọng giản dị mà trong sáng của nhân dân ta, mãi mãi dạy chúng ta bài học đạo đức thiết thực và cao cả biết bao.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 4
Trong tác phẩm Lục vân Tiên, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên hình tượng một con người lý tưởng với những vẻ đẹp toàn diện, mà nổi bật lên trong những vẻ đẹp đó chính là tính chính nghĩa cao đẹp. Trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại phẩm chất tốt đẹp đó qua hành động trừ bạo cho dân.
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm trong phần mở đầu của tác phẩm. Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên giã từ thầy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ, Vân Tiên đã gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành, bóc lột của dân lành. Một mình chàng đã đánh tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga.
“Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang
Lâu la bốn phía vỡ tan”
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay”Trên đường về quê,Lục Vân Tiên đã bắt gặp cảnh chướng tai gai mắt, đó chính là sự hoành hành đầy ngang ngược của bọn cướp Phong Lai. Không tính toán thiệt hơn, được mất,Lục Vân Tiên đã bẻ cây bên đường làm gậy xông vào lũ cướp để giải cứu người dân lương thiện vô tội. Không chỉ hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được con người đầy chính nghĩa của chàng “Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”, đó là lời cảnh cáo nhưng cũng là tuyên ngôn sống của chàng,người chân chính là phải bảo vệ nhân dân chứ không phải mang lại đau khổ cho họ.
“Phong Lai mặt đỏ phừng phừng
Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây
Trước gây việc dữ tại mầy
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng”
Đang cướp bóc thì có người phá hỏng “chuyện tốt” của mình, Phong Lai đã vô cùng giận dữ, khuôn mặt của hắn “đỏ phừng phừng” cho thấy đây là con người bạo tàn, gian ác. Trước hành động chính nghĩa của Vân Tiên thì Phong Lai đã vô cùng coi thường mà buông lời thách thức đầy giễu cợt “Thằng nào dám đến lẫy lừng vào đây” và còn nói trước kết cục bi thảm của Tiên khi dám phá hỏng một vụ kiến trác béo bở của chúng “Trước gây việc dữ tại mày”, sau đó hôn quân kéo bầy bủa vây, tấn công Vân Tiên.
“Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay”
Trước sự tấn công của bọn Phong Lai, Lục Vân Tiên đã không hề nao núng mà tả đột hữu xung, với các miêu tả này ta vừa có thể hình dung ra những hành động nhanh chóng, chính xác, vừa thể hiện được bản lĩnh hơn người của Vân Tiên. Và trong cái nhìn của NGuyễn Đình Chiểu thì hành động anh hùng này giống như hình tượng đầy oan phong của Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang, lập được công trạng lớn. Bọn cướp Phong Lai chẳng mấy chốc bị đánh cho tan tành, sợ hãi mà tháo chạy, Phong Lai bị Vân Tiên trừng trị thẳng tay “thác rày thân vong”
“Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi ai than khóc ở trong xe này
Thưa rằng: Tôi thiệt người ngay
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ”
Sau khi đánh tan lũ cướp, Lục Vân Tiên quan tâm đến hỏi thăm người bị hại, nghe tiếng khóc sợ hãi từ trong kiệu, Vân Tiên đã cất tiếng thăm hỏi “ai than khóc ở trong xe này” thì trong xe vọng ra tiếng đáp của một người con gái, nàng đã kể lại hết sự tình cho Vân Tiên nghe, nàng là một người dân thiện lương, vì sa cơ nên mới lọt vào tay của bọn hung đồ “sa cơ nên mới lầm tay hung đồ”. Nàng còn bày tỏ mong muốn gặp mặt,cúi đầu bày tỏ sự biết ơn trước sự hành động ra tay nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên:
“Trong xe chật hẹp khôn phô
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng”
Tuy nhiên, quan điểm sống của Lục Vân Tiên là “làm ơn há dễ trông người trả ơn” đã từ chối lời yêu cầu của Kiều Nguyệt Nga, và một lí do nữa được chàng đưa ra đó chính là sự khác biệt về thân phận, giới tính. Trong quan niệm phong kiến xưa thì “nam nữ thụ thụ bất thân”, vì vậy nên Lục Vân Tiên không muốn cuộc gặp gỡ này ảnh hưởng đến tiết hạnh của Nguyệt Nga. Qua đây ta thấy được Vân Tiên là một con người sống chuẩn mực đối với những lễ nghĩa của phong kiến và là người biết quan tâm đến người khác:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là đoạn trích hay, hấp dẫn đối với người đọc bởi sự chính nghĩa, ngay thẳng, kiên cường của Lục Vân Tiên, qua cuộc trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga ta còn thấy đây là con người có nhiều phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 5
Từ biệt tôn sư về đi thi, giữa đường bất chợt gặp cảnh lũ cướp hoành hành, Lục Vân Tiên vụt dũng mãnh như chàng Thạch Sanh trong truyện cổ tích. Nhân vật ấy đọng mãi trong lòng người đọc là hình ảnh xả thân cứu Kiều Nguyệt Nga:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen cái thói hồ đồ hại dân”…
Có cảm giác là sự việc diễn ra quá bất ngờ, nhanh chóng. Bất ngờ cũng phải thôi, vì Vân Tiên “giữa đường gặp cảnh bất bình”, hoàn toàn ngẫu nhiên. Không kịp suy nghĩ, không kịp đắn đo, chàng bất chấp hiểm nguy, ra tay cứu giúp. Chàng là ai? Người được che chở không hề biết; chỉ biết chàng đang quyết liệt sống mái với lũ cướp đường. Quả thật, theo mạch truyện, chính Vân Tiên đã bị cuốn vào trận đấu một cách không chủ động. Chàng có thể tránh xa nếu là người hèn nhát, có thể dửng dưng nếu là một kẻ ích kỷ…Vân Tiên đã không bàng quan, không để ngoài tai, ngoài mắt những điều trông thấy. Và sự bất ngờ “vào cuộc” của chàng tạo nên thế tự chủ vững vàng trong cái ngẫu nhiên ấy. Giá như Vân Tiên biết rằng người bị cướp tấn công là nàng Kiều Nguyệt Nga xinh đẹp, hiền thục; giá như chàng kịp dừng lại để suy nghĩ một chút thiệt hơn thì đoạn thơ sẽ mất đi cái hấp dẫn của tư thế chủ động “tả đột hữu xông; khác nào Triệu Tử mở vòng…” mạnh mẽ ấy. Ta gặp một chàng trai Nam Bộ thực sự cương trực và… hơi liều lĩnh nữa; thấy cảnh bọn cướp “làm thói hồ đồ hại dân” là xông vào đánh hết mình, đánh bằng lòng căm hờn của một đấng nam nhi quả cảm, bằng tài võ nghệ điêu luyện. Hình ảnh Vân Tiên ngang tàng xông pha giữa đám đầu trâu mặt ngựa như biểu hiện của chính nghĩa đang trừng trị cái ác, cái xấu. Nhân nghĩa và can trường biết bao!
Không hiện lên trước mắt người đọc như một Từ Hải “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, cũng không “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa” như Kim Trọng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhưng qua lời nói, việc làm của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được ấn tượng đậm nét về chàng. Làm ơn mà không màng được trả ơn là cách sống của người quân tử xưa nay; nhưng thái độ của Lục Vân Tiên trước tình cảnh và sự hàm ơn của Nguyệt Nga lại có những nét riêng rất đáng yêu. Mạnh mẽ, xông xáo trong cuộc chiến với lũ cướp bao nhiêu, chàng lại nhút nhát và e dè trước người con gái nhờ mình mà thoát nạn bấy nhiêu. Khi Nguyệt Nga định bước ra tạ ơn, Vân Tiên ngượng ngùng:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai…
Dẫu chưa nguôi sợ hãi, chắc rằng Nguyệt Nga khó mà giấu được nụ cười kín đáo trước chàng trai nhát gái này. Có lẽ người ta sẽ không buột miệng nói như thế nếu là một kẻ thạo đời, lọc lõi trong tiếp xúc với phụ nữ. Liệu hình ảnh Lục Vân Tiên có đẹp một cách trọn vẹn nếu như chàng tỏ ra vồ vập đối với Nguyệt Nga? Thì ra tâm hồn, bản chất chàng trai họ Lục thật trong sáng, tươi trẻ. Càng đáng quý hơn nữa khi cái chất trong trẻo, hiền lành ấy ẩn chứa sau một tính cách khí khái, dũng cảm. Sự cứng rắn của thép, nét non nớt, thư sinh của chàng trai vừa bước vào đời hài hòa trong con người Vân Tiên. Không chỉ qua hành động, cách giao tiếp mà cách ứng xử cũng bộc lộ rõ phẩm cách của chàng. Dám liều mình cứu người, lời lẽ đanh thép khi giao chiến với giặc cướp, để rồi trước một cô gái dịu dàng, Vân Tiên không tránh khỏi ngại ngùng bẽn lẽn – điều đó tự nhiên đã biểu lộ một lối sống lành mạnh, có giáo dục, nề nếp. Lời nói, thái độ khiêm nhường, nhã nhặn: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, “Nhớ câu kiến ngãi bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”… vừa cho ta cảm cái tâm nhân ái, vừa khâm phục trước quan niệm sống trọng nghĩa của Vân Tiên.
Cái nhìn, cách nghĩ của nhà văn bao giờ cũng lộ rõ trong tác phẩm, trong cách thể hiện hình tượng, chi tiết… Có ý kiến cho rằng, cuộc đời Lục Vân Tiên là hình bóng cuộc đời nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Chỉ qua vài chi tiết nhỏ – Vân Tiên “bẻ cây làm gậy” có thể thấy được cảm quan hiện thực của nhà thơ. Không rút gươm, rút kiếm một cách oai phong như các binh tướng hay văn nhân quý tộc cao đạo, hành động của chàng chỉ mang tính dân dã, bộc trực. Bất kỳ một người con trai bình dân nào cũng có thể bẻ cây làm gậy để làm việc nghĩa, không cầu kì, chẳng nề hà. Thực chất ở đây, Vân Tiên vẫn là một chàng trai có học, sống giữa những người lao động, chưa phải là một quan chức của nhà nước phong kiến như ở đoạn sau. Ghi một cử chỉ ấy thôi, người đọc đã thấy rõ sự gắn bó mật thiết giữa tâm hồn, tình cảm của nhà thơ với cuộc sống nhân dân, hồn hậu như hạt lúa, củ khoai. Việc làm và cách nghĩ của Lục Vân Tiên như minh chứng cho quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu về lẽ sống ở đời:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Vẫn là những vần thơ mang đậm phong cách dân gian quen thuộc nhưng được tác giả gọt giũa và nâng cao, tạo được sự hấp dẫn, thích thú đối với người đọc, nhất là trong những lời đối thoại giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Lời thơ trau chuốt, không còn là thứ ngôn ngữ mộc mạc thường ngày:
Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng…
Đây đúng là lời lẽ của một tiểu thư con nhà khuê các, có giáo dục. Và điều đó cùng chứng tỏ nhà thơ đã rất dụng công khi dùng câu chữ và có dụng ý khi thể hiện nhân vật.
Lấp lánh sau những câu thơ giản dị, hồn hậu là nét đẹp của phẩm cách, tấm lòng đáng quý, đáng phục của Vân Tiên, Nguyệt Nga… Đoạn thơ ngời sáng như chính cái tâm nhân ái của cụ Đồ Chiểu.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 6
Truyện Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu, truyện nói về nhân vật Lục Vân Tiên – người anh hùng trượng nghĩa, văn võ song toàn và phẩm chất tốt đẹp. Trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã thể hiện được rõ con người và nhân cách của Lục Vân Tiên.
Trên đường đi thi, Vân Tiên bất chợt gặp cảnh lũ cướp hoàng hành, không kịp suy nghĩ, hay đắn đo, chàng bất chấp hiểm nguy mà ra tay cứu giúp:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng…
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Trong hoàn cảnh gấp rút cứu người ấy chàng không kịp chuẩn bị gì mà chỉ tiện tay bẻ cành cây bên đường làm vũ khí chiến đấu với bọn cướp. Chàng không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà còn thể hiện trong lời nói. Chàng chỉ trích và phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng chính là lời tuyên bố về quan điểm sống đầy cao đẹp của chàng. Sống là phải hướng đến bảo vệ cho người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ, đày đọa cuộc sống của họ. không cho phép những hành động “hồ đồ” xâm hại tới những con người lương thiện. Đoạn thơ đã cho thấy Vân Tiên không chỉ có tình thương với con người mà còn có tinh thần trách nhiệm cao cả. Điều này đã được thể hiện trong cảnh chàng chống lại với lũ cướp:
“Vân Tiên tả đột hữu xông…
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Hành động nhanh, mạnh, dứt khoát của Vân Tiên được tác giả ví với người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng đương Dang. Trước sức mạnh và tài nghệ của Vân Tiên, bọn cướp đã bị đánh tan tác, hoảng loạn bỏ chạy, đó là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ hại người. Sau khi đã dẹp tan bọn cướp, chàng Vân Tiên liền tới gần hỏi thăm người bị nạn:
“Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi: Ai than khóc ở trong xe này”
Vân Tiên không chỉ cứu giúp mà còn hết lòng quan tâm đến người gặp nạn. Chàng hỏi thăm ân cần, động viên và giúp người bị nạn trấn tĩnh tinh thần. Khi trò chuyện với người bị nạn là Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên đã biết là nữ nhi nên đã nhanh miệng:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Câu nói ấy đã thể hiện Lục Vân Tiên là một người rất coi trọng đạo lý và khuôn phép xã hội. Không muốn sự gặp mặt sẽ ảnh hưởng đến phẩm tiết của nàng vì “nam nữ thụ thụ bất thân”. Có thể thấy Lục Vân Tiên không chỉ là một người có học thức, hơn thế chàng còn là một người hào hiệp, trượng nghĩa. Chàng không muốn nhận sự cúi lạy của Kiều Nguyệt Nga cũng như sự báo đáp của nàng, bởi hành động của chàng xuất phát từ tấm lòng chứ không vì mục đích được đền đáp. “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga đã khiến cho người đời rất đáng trân trọng và noi theo:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Đối với Vân Tiên, chàng coi việc nhân nghĩa trên đời là điều tất yếu, nếu làm ơn mà vì được đến đáp, trông ngóng đến việc trả ơn thì đó không còn là người anh hùng.
Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã khắc họa một cách rõ nét, chân thực và đầy sống động về người anh hùng trượng nghĩa Lục Vân Tiên, đó là một hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 7
Nguyễn Đình Chiểu sinh thời vào lúc loạn lạc, dù sớm đỗ đạt nhưng đến năm 26 tuổi đã bị mù, ông trở về làm thầy thuốc, làm một nhà thơ. Bằng tài năng và đức độ hơn người, Nguyễn Đình Chiểu đã khiến biết bao người ngưỡng mộ. Các bài văn thơ của ông dùng để khích lệ tinh thần chiến đấu và mang tính giáo huấn cao. Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ của ông.
Lục Vân Tiên được sáng tác vào những năm 50 của thế kỉ XIX, thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa hình ảnh đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, ân tình. Nội dung chính của tác phẩm này là khi Lục Vân Tiên nghe tin triều đình mở khoa thi, chàng đã vội từ biệt thầy đi đua tài. Trên đường về, vô tình gặp cảnh Kiều Nguyệt Nga bị cướp chàng đã ra tay trượng nghĩa cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích đã làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
Hình tượng Lục Vân Tiên được xây dựng theo mô típ quen thuộc của truyện dân gian, trượng nghĩa, anh tài, ra tay cứu giúp người bị nạn. Đây là nhân vật lý tưởng của văn học trung đại, thể hiện những khao khát mơ ước của nhân dân ta. Chàng mang lí tưởng lớn, lập thân lập danh giúp đời. Và trên đường về gặp chuyện bất bình, Lục Vân Tiên không hề ngần ngại mà ngay lập tức ra tay trượng nghĩa:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Dù chỉ có một mình, trên tay chỉ có cây gậy nhưng Vân Tiên dám đương đầu với lũ cướp vừa đông vừa rất hung hãn. Hành động đó cho thấy tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Trước sự dọa nạt của những tên cướp, Vân Tiên không hề nao núng: “Vân Tiên tả đột hữu xông/ Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang” . Hình ảnh chàng trong trận chiến hiện lên thật đẹp đẽ, như một dũng tướng phá tan kẻ thù. Hành động đó cũng cho thấy bản chất, tấm lòng cao thượng của chàng,vì nghĩa quên mình, một vẻ đẹp tiêu biểu của những người anh hùng.
Không chỉ là một người có tinh thần trượng nghĩa, mà chàng còn là người hết sức khuôn phép, lịch sự với người khác giới. Sau khi đuổi hết lũ lâu la, Vân Tiên còn tiến lại hỏi han, an ủi những người bị nạn. Không chỉ vậy, khi nghe nói họ muốn được lạy tạ ơn, Vân Tiên vội gạt ngay đi:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Theo lễ giáo phong kiến giữa nam và nữ luôn phải giữ khoảng cách, “nam nữ thụ thụ bất thân”, câu nói của Lục Vân Tiên tuy có phần nặng nề lễ giáo phong kiến nhưng cho thấy chàng là người cư xử hết sức đúng mực. Đồng thời nó cũng xuất phát từ chính đức tính khiêm nhường của Vân Tiên “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” . Việc mà chàng làm như là một việc đương nhiên, mà bất cứ ai thấy cũng sẽ hành động như vậy, bởi vậy, Vân Tiên không muốn nhận cái lạy tạ của người con gái và từ chối lời đề nghị về nhà của Kiều Nguyệt Nga.
Dường như với Lục Vân Tiên, làm việc nghĩa là một bổn phận, một lẽ tự nhiên, con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán. Bởi chàng quan niệm:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
Vân Tiên là mẫu anh hùng lí tưởng, mà qua nhân vật này nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm nhiều niềm tin, mơ ước, khát vọng của mình.
Bên cạnh nhân vật Lục Vân Tiên ta còn thấy một nàng Kiều Nguyệt Nga hết sức chừng mực, nết na, hiếu thảo. Nàng xưng hô rất khiêm nhường “tiện thiếp”, cùng với đó là cách nói năng hết sức nhẹ nhàng, khuôn phép: “Làm con đâu dám cãi cha/ Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành” . Lời nói của nàng hết rõ ràng, mạch lạc, vừa đẩy đủ thông tin vừa thể hiện niềm biết ơn chân thành với ân nhân đã giúp đỡ.
Đồng thời nàng cũng là con người biết cách ứng xử, có trước có sau. Việc Vân tiên cứu nàng đâu chỉ là cứu mạng sống, mà còn cứu cả một đời trinh bạch của người con gái, bởi vậy, nàng càng biết ơn Vân Tiên hơn. Cũng bởi thế nàng áy náy không biết lấy gì đền đáp công ơn to lớn đó:
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi
Và cuối cùng nàng đã quyết lấy thân mình, tự nguyện gắn bó cả đời với chàng trai hiệp nghĩa đó. Hàng ngày nâng khăn sửa túi để báo đáp ơn lớn của Vân Tiên đối với nàng. Những nét đẹp trong phẩm chất, trong hành xử của Kiều Nguyệt Nga đã chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân.
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga tuy ngắn ngủi nhưng đã làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật: Lục Vân Tiên trượng nghĩa khinh tài, Kiều Nguyệt Nga thì nết na thùy mị. Hai nhân vật đại diện cho lý tưởng của nhân dân ta. Đồng thời qua các nhân vật này cũng gửi gắm những thông điệp sâu sắc của nhà thơ.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 8
Nguyễn Đình Chiểu là một con người có nhân cách lớn, một tấm gương về sự học, tinh thần vươn lên và tinh thần yêu nước mạnh mẽ. Người đời biết đến ông không chỉ là một bậc danh nho tinh thông y thuật mà ông còn nổi tiếng là một nhà thơ, nhà văn lớn, tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam, nửa cuối thế kỉ XIX. Những áng văn chương của cụ đồ Chiểu luôn nhằm hướng tới truyền bá đạo lý làm người, tình yêu nước và ý chí chiến đấu chống giặc ngoại xâm mạnh mẽ. Và một trong các tác phẩm gây được tiếng vang lớn nhất trong sự nghiệp cầm bút ấy của ông là “Truyện Lục Vân Tiên” – một tác phẩm truyện thơ Nôm rất độc đáo, rất điển hình hướng tới đạo lý làm người: hành hiệp trượng nghĩa, cứu khổ phò nguy, hướng tới lẽ công bằng và tình yêu thương giữa con người với con người. Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là đoạn trích hay, tập trung nổi bật được tư tưởng, đạo lí mà nhà thơ muốn gửi gắm.
Đoạn trích nằm ở phần đầu của truyện. Tác phẩm được viết vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, dài hơn hai nghìn câu thơ, theo thể lục bát, kết cấu theo kiểu truyền thống của loại truyện phương Đông, theo lối chương hồi, xoay quanh diễn biến cuộc đời nhân vật chính. Đây là truyện thơ Nôm mang tính chất là truyện để kể hơn là để đọc, để xem. Vì thế, truyện được lưu truyền rộng rãi dưới hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian như “kể thơ”, “nói thơ, và “hát thơ”. Đoạn trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Chàng thư sinh Lục Vân Tiên – người mang trong mình tràn đầy lý tưởng của tuổi trẻ nhiệt huyết, trọng nghĩa khinh tài, cán cân của công lý, sẵn sàng ra tay trừng trị cái xấu, cái ác, bênh vực cái đẹp, cái yếu đuối, bất hạnh; Còn Kiều Nguyệt Nga lại là một tiểu thư khuê các, dịu dàng, xinh đẹp, hiền hậu, nết na, ân tình.
Trước hết là hình tượng nhân vật Lục Vân Tiên – một nhân vật lý tưởng của cái đẹp: dũng cảm, tài ba, đầy khí phách. Trên đường trở về quê nhà, Vân Tiên thấy bọn cướp Phong Lai đang giở trò cướp bóc, làm hại dân lành, chàng liền ra tay tương trợ đánh tan cái xấu, cái ác. Hình ảnh Lục Vân Tiên hành hiệp trượng nghĩa được tái hiện rất cụ thể trong hành động và lời nói khi chiến đấu với bọn giặc:
Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “bớ đảng hung hồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Hành động đánh cướp trước hết bộc lộ tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Lục Vân Tiên. Một mình chàng, tay không tấc sắt dám đương đầu với cả một toán giặc cỏ với đầy đủ các loại vũ khí gươm giáo sáng quắc trong tay. Hành động “bẻ cây làm gậy” của chàng là một hành động dũng cảm, xuất phát từ cái đức của một con người “vị nghĩa vong thân” (vì việc nghĩa mà không tiếc thân mình). Tuy một mình nhưng chàng vẫn hiện lên vẫn rất uy dũng, mạnh mẽ, hào hiệp xông thẳng vào trận đánh, vừa tiến tới lại vừa thét lên những lời nói đầy giận dữ, quả quyết kết tội bọn giặc”bớ đảng hung đồ”, “chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”. Kết quả, bọn cướp sợ hãi thất kinh mà “vỡ tan” như đàn ong vỡ tổ. Tên cướp cầm đầu là Phong Lai thì chẳng kịp trở tay, bị ăn ngay một gậy chí mạng sống không được, chết cũng không xong.
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quang gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Như vậy, với nghệ thuật so sánh tương phản, tác giả đã tái hiện không khí cuộc đấu tranh giữa Lục Vân Tiên với bọn cướp Phong Lai hết sức cam go, quyết liệt. Qua đó chúng ta thấy Lục Vân Tiên hiện lên là một người anh hùng dũng cảm, không sợ hiểm nguy và thấy việc nghĩa thì ra tay giúp đỡ. Phải chăng đó là cái đức, cái tài và cái dũng của bậc anh hùng trong con người Lục Vân Tiên, đã chiến thắng được thế lực bạo bạo, dù chúng rất hung bạo, dữ dằn. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo, nhân sinh sâu sắc mà cụ đồ Chiểu muốn gửi gắm nơi người đọc.
Sau khi dẹp tan bọn giặc cỏ, thái độ cư xử của chàng trai họ Lục đối với Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ tư cách của con người: chính trực, hào hiệp, khiêm tốn, trọng nghĩa khinh tài, từ tâm nhân hậu và rất mực văn hóa.Ban đầu chàng bộc lộ sự quan tâm bằng cách hỏi han ân cần, chu đáo: “Hỏi: “ai than khóc ở trong xe này?” ; “Tiểu thư con gái nhà ai/ Đi đâu nên nỗi mang tai bất kì?/ Chẳng hay tên họ là chi? Khuê môn phận gái việc gì tới đây?…”. Thấy hai cô gái còn chưa hết bàng hoàng, hoảng hốt, Vân Tiên “động lòng” an ủi, trấn an tinh thần Kiều Nguyệt Nga qua lời nói: “Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la”. Khi biết Kiều Nguyệt Nga định xuống xe lạy tạ, chàng nhất mực từ chối vì giữ lễ tiết:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái, ta là phận trai?”
Đặc biệt chàng còn khiêm tốn không chịu nhận vật trả ơn: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Cuối cùng, hai người cùng xướng họa với nhau một bài thơ rồi nhẹ nhàng từ biệt ra đi, không vấn vương, nuối tiếc. Đến đây, chúng ta thấy Lục Vân Tiên là con người rất mực tâm lý, có nghĩa khí, giữ đúng phép tắc của nho gia, coi thường tiền tài, vật chất. Phải chăng, đối với chàng làm việc nghĩa như là bổn phận, trách nhiệm và vốn lẽ tự nhiên phải làm. Vì thế, ở cuối đoạn trích, có hai câu thơ đã nêu bật được quan niệm về người anh hùng của tác giả:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Người anh hùng là người lấy việc nghĩa khí lên làm đầu. Nếu thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là người anh hùng. Đây cũng chính là quan niệm về người anh hùng của tác giả. Qua đó, tác giả thay mặt nhân dân thể hiện niềm ước mong: trong thời buổi loạn lạc, nhiễu nhương, hỗn loạn, cái xấu cái ác hoành hoành những con người tài đức, dám ra tay cứu nạn giúp đời như Lục Vân Tiên thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao.
Tiếp đến là hình tượng nhân vật Kiều Nguyệt Nga, nàng cũng là nhân vật chính và là nhân vật lí tưởng trong tác phẩm. Với tư cách là một người chịu hàm ơn, Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ rất nhiều những phẩm chất tốt đẹp của người con gái: Cách xưng hô của nàng với Lục Vân Tiên, gọi chàng là “quân tử”, tự xưng mình là “tiện thiếp”. Điều đó, bộc lộ cách ứng xử của một người phụ nữ thùy mị, nết na, khiêm nhường, đầy sự tôn trọng đối với người đang giao tiếp. Tiếp đến, nàng còn hiện lên là người phụ nữ khuôn phép, có học thức của một tiểu thư khuê các, gia giáo:
“Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành”
Cuối cùng, với tư cách là người chịu ơn, nàng cư xử đúng mực, biết trước biết sau, biết ơn với người đã cứu giúp mình:
Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa
Với nàng, Lục Vân Tiên không chỉ cứu mạng mà còn cứu cả cuộc đời trinh bạch trong trắng của nàng: “Lâm nguy chẳng gặp giải nguy/ Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”. Vì thế nàng tìm mọi cách để thuyết phục Lục Vân Tiên nhận sự tạ ơn của mình: “Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”. Cuối cùng, nàng đã cảm mến Lục Vân Tiên mà họa vẽ bức chân dung của mình rồi đưa cho chàng, tự nguyện gắn bó cuộc đời của mình với Lục Vân Tiên, dám liều mình để giữ trọn ân tình, thủy chung với chàng. Đến đây, chúng ta nhận ra một mô típ quen thuộc ở truyện thơ Nôm truyền thống: chàng trai tài giỏi, cứu cô gái khỏi tình huống hiểm nghèo, rồi đi từ ân nghĩa đến tình yêu…
Xét về mặt nghệ thuật, thông qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy được nhân vật trong đoạn trích này chủ yếu được miêu tả qua hành động, cử chỉ, lời nói, ít khắc họa ngoại hình, càng ít đi sâu vào diễn tả nội tâm, rất gần với văn học dân gian; ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày và mang màu sắc Nam Bộ, phù hợp với ngôn ngữ người kể chuyện; lời thơ với giọng điệu kể chuyện linh hoạt, khéo léo, phù hợp với diễn biến tình tiết và tính cách nhân vật.
Tóm lại, đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một đoạn trích hay, độc đáo, có thể coi đây là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa và những đạo đức đáng quý, tốt đẹp ở đời. Thể hiện niềm ước mơ của tác giả, của nhân dân về khát vọng hành đạo, giúp đời, hướng tới lẽ công bằng, cái thiện, cái đẹp sẽ luôn chiến thắng cái xấu, cái ác…
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 9
Lục Vân Tiên là một nhân vật lí tưởng, hội tụ đầy đủ những chuẩn mực của một người anh hùng nghĩa hiệp, tuổi trẻ, tài cao, lòng đầy khát khao được đem công danh, tài năng cứu người, giúp đời. Đoạn trích “ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã phần nào thể hiện được tính cách của Lục Vân Tiên Trên đường đi thi, gặp bọn cướp Phong Lai hoành hành Lục Vân Tiên xông vào đánh cướp để cứu dân. Đây là một việc nghĩa mà chàng không thể không làm với mục đích cao đẹp, xuất phát từ tấm lòng tự nguyện.
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”
Chỉ một mình, lại không có vũ khí, chàng đã dám bẻ gậy xông vào bọn cướp đông người giáo gươm đầy đủ. Hình ảnh Lục Vân Tiên xông xáo tung hoành được nhà thơ miêu tả thật đẹp sánh ngang với hình ảnh Triệu Tử Long – một dũng tướng thời Tam Quốc:
Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan…
Với võ nghệ cao cường, Lục Vân Tiên đã đánh tan bọn cướp và tiêu diệt tên đầu đảng Phong Lai. Hành động của chàng còn tỏ rõ đức độ của người nghĩa hiệp: Giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha. Không sợ nguy hiểm, Vân Tiên sẵn sàng vì nghĩa trừ hại cho dân.
Đánh xong bọn cướp thấy hai cô gái còn chưa hết hãi hùng Vân Tiên đã ân cần hỏi han, an ủi họ. Hành động của chàng thật đàng hoàng, chững chạc. Tuy có phần câu nệ nhưng vẫn là phong độ giữ lễ của một con người có văn hóa trong khi ứng xử với hai người con gái: “Khoan khoan ngồi đó chớ ra. Nàng là phận gái ta là phận trai”. Vân Tiên đã từ chối cái lạy trả ơn, từ chối lời mời đền đáp, không nhận trâm vàng trao tặng mà chỉ nhận lời cùng Nguyệt Nga làm thơ xướng họa. Câu trả lời “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” và đặc biệt là câu nói của Vân Tiên: “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”, cho thấy một người anh hùng lí tưởng của Nguyễn Đình Chiểu là thấy việc nghĩa thì tự nguyện làm, và đã làm việc nghĩa thì không cần trả ơn. Đó cũng là quan niệm của nhân dân ta: Làm phúc không cần được phúc. Lục Vân Tiên, qua đoạn trích, không chỉ là một chàng trai tài ba, dũng cảm mà còn là một con người trọng nghĩa khinh tài.
Hình ảnh Vân Tiên đánh cướp được khắc họa thần tình. Cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử của chàng rất đẹp, mang phong thái người anh hùng, người tráng sĩ ngày xưa. Chúng ta không thể nào quên một Vân Tiên quả cảm, nhân hậu, chí khí của Cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Mẫu 10
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước Nam Bộ. Ông sống trong thời kỳ loạn lạc, xã hội rối ren, chế độ phong kiến Việt Nam suy tàn, bọn vua quan nhà Nguyễn thối nát. Xã hội đen tối, đau thương. Ngoài những thơ văn yêu nước, Nguyễn Đình Chiểu nổi tiếng với truyện thư Truyện Lục Vân Tiên dài 2082 câu thơ lục bát.
Truyện thơ đề cao trung, hiếu, tiết, hạnh theo quan niệm đạo lí của nhân dân ta. Đạo làm tôi, đạo làm con, tình bằng hữu, nghĩa vợ chồng… được nhà thơ hết lời ca ngợi:
Trai thời trang hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga là hai nhân vật trung tâm của truyện thơ sáng ngời trung hiếu, tiết hạnh.
Đoạn thơ Lục Vân Tiên đánh cướp là một trong những đoạn thơ hay nhất của tác phẩm, tiêu biểu cho bút pháp tự sự của Nguyễn Đình Chiểu. Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc họa thành mẫu người anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp: giàu lòng thương người, dũng cảm và vị nghĩa cao cả.
Lòng thương người là đức hạnh tốt đẹp nhất của Lục Vân Tiên. Từ giã thầy, chàng xuống núi, hăm hở về kinh đô ứng thí. Lộ trình đầy gian nan. Giữa đường, Lục Vân Tiên bất ngờ gặp nhân dân dắt díu nhau chạy trốn, tiếng kêu khóc vang lên thảm thiết. Chàng đã ân cần hỏi han sự tình đầu đuôi và quyết ra tay đánh cướp để cứu dân lành thoát khỏi cảnh đau thương, nước sôi lửa bỏng:
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này!
Căm giận lũ bất lương, Lục Vân Tiên sôi sục lên án hành động dã man của chúng. Chàng đã đứng về phía nhân dân, quyết bảo vệ dân:
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Đạo lý của nhân dân ta rất đẹp “Thương người như thể thương thân”. Lục Vân Tiên đã hành động vì tình thương bao la ấy.
Tình thương người đã nâng cao chí khí và lòng dũng cảm cho người thư sinh họ Lục. Lũ cướp rất đông và đáng sợ, gươm giáo sáng ngời. Tướng cướp Phong Lai “mặt đỏ phừng phừng” đầy sát khí. Hắn dữ tợn và có sức khoẻ muôn người khôn địch! Giữa vòng vây của lũ cướp, không một tấc sắt trong tay, một mình với cành cây làm gậy, Lục Vân Tiên đã dũng cảm đánh cướp. Đột kích bên tả, xung phong bên hữu, chàng tung hoành giữa bọn cướp. Chúng bị đánh tơi bời. Bọn lâu la đã khiếp đảm quăng gươm giáo bỏ chạy tan tác. Tướng cướp Phong Lai bị tiêu diệt Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã so sánh Lục Vân Tiên đánh cướp với chiến công của hổ tướng Triệu Tử Long phá vòng vây Đương Giang thời Tam quốc để ca ngợi tinh thần quả cảm của người anh hùng vị nghĩa:
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang.
Lâu la bốn phía vỡ tung,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Giọng thơ hùng tráng vang lên diễn tả trận đánh cướp đầy kịch tính hấp dẫn. Lục Vân Tiên là tấm gương của một anh hùng vị nghĩa cao đẹp.
Đánh tan lũ cướp sơn đài, Lục Vân Tiên đã giải thoát cho Kiều Nguyệt Nga và Kim Liên. Cuộc kỳ ngộ giữa người đẹp và tráng anh hùng diễn ra cảm động và đầy tình người. Kiều Nguyệt Nga muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê để cha nàng “báo đức thù công”.
Ngẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Nhưng Vân Tiên “nghe nói liền cười”. Một nụ cười rất tươi, biểu lộ một tâm hồn cao cả vô tư, hào hiệp, khảng khái. Chàng xem việc đánh cướp của mình là một hành động nhân nghĩa. Người tráng sĩ phải ra tay cứu nhân độ thế, diệt trừ cái ác, chở che bênh vực người lầm than, bị áp bức. Nếu thấy việc nghĩa mà không làm thì còn đâu đáng mặt anh hùng nữa?
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên mang cốt cách tráng sĩ thời loạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài, sống và hành động theo phương châm: “Lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ”. Vân Tiên cũng như người anh hùng Từ Hải trong Truyện Kiều.
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Hình ảnh Vân Tiên đánh cướp được khắc họa thần tình, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử của chàng rất đẹp, mang phong thái người anh hùng, người tráng sĩ ngày xưa. Tuy nhiên hình tượng này rất chân thật vì lòng thương người, chí quả cảm, tinh thần vì nghĩa của Vân Tiên đậm đà màu sắc đạo lí nhân dân ta.
Đã gần hai thế kỷ trôi qua, nhân vật Lục Vân Tiên được nhân dân ta yêu mến, hâm mộ. Tinh thần chiến đấu kiên cường của đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và đế quốc trong hơn thế kỷ qua đã làm cho ta cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp lí tưởng của người anh hùng Lục Vân Tiên. Tấm gương sáng chói ấy mãi mãi là một minh chứng hùng hồn về sức mạnh thẩm mĩ của thi ca, của truyện thơ Truyện Lục Vân Tiên mà nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho đời.
….
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga 3 Dàn ý & 17 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.