Đóng vai người lính kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính gồm 10 mẫu hay, đặc sắc nhất, kèm theo dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 thấy được tinh thần lạc quan và dũng cảm của người lính.
Với 10 bài văn nhập vai người lính kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất dưới đây, các em sẽ hiểu được cách hóa thân và kể chuyện sáng tạo một tác phẩm đã học bằng ngôi thứ nhất. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Wikihoc.com:
Dàn ý kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính
1. Mở bài
– Giới thiệu bản thân: Tôi là người lính Trường Sơn trong những năm tháng chống Mỹ.
– Công việc chính của tôi là lái những chiếc xe được phủ cành cây để ngụy trang kẻ địch.
– Dù cho những năm tháng ấy rất vất vả, cực khổ, chạy xe xuyên đêm ngày. Ngày chạy xe, đêm cũng ngủ tại xe, những chiếc xe không kính ấy trở thành những người tri âm tri kỷ đồng hành cùng tôi trên chặng đường chiến đấu còn nhiều gian khổ.
2. Thân bài
– Trong những năm tháng ấy, bom đạn của bọn Mỹ có sức công phá quá ghê gớm nên hầu như chiếc xe nào của binh đoàn cũng rụng và vỡ hết kính. Nếu như còn sót lại thì cũng chỉ là những mảnh kính vỡ. Cửa giờ toang hoác nên thiên nhiên như ùa vào để những người lính như chúng tôi tận hưởng vậy. Dù có nguy hiểm, vất vả nhưng chúng tôi vẫn ung dung quả cảm, vẫn hàng ngày lái những chiếc xe tiếp tế ra chiến trường vì tổ quốc thân yêu.
– Từ những ô cửa kính vỡ, chúng tôi được tận hưởng những cơn gió bụi làm mắt cay, ngắm sao trời và những cánh chim bay vụt qua. Đời lính gắn liền với những con đường dài rộng trước mặt, chúng tôi chạy trên những con đường ấy với niềm tin và sứ mệnh giải phóng tổ quốc.
– Nói đời lính có những kỷ niệm đẹp chẳng bao giờ sai, khi những cơn bụi trắng xóa làm chúng tôi bạc trắng cả mái đầu hay những cơn mưa xối xả qua cửa kính vỡ chẳng làm chúng tôi khó chịu hay bất an. Không những vậy, chúng tôi còn trêu nhau là những người già, tiếp tục chặng hành trình của mình.
– Dù cho có mưa bom bão đạn hiểm nguy, qua những cửa kính vỡ tưởng chừng thêm phần khó khăn ấy, chúng tôi lại có thể dễ dàng bắt tay với những người đồng chí trong tiểu đội, Sống trong tập thể cùng chiến đấu, cùng sinh sống, chúng tôi yêu thương và đoàn kết với nhau.
– Bếp Hoàng Cầm- biểu tượng của bếp dã chiến, nấu ăn không khói để kẻ thù không phát hiện. Chúng tôi sum họp như gia đình bên bếp Hoàng Cầm để nói chuyện, ăn uống.
– Dù cho có muôn trùng khó khăn, chúng tôi vẫn luôn đồng hành cùng nhau trên những chiếc xe không kính để giải phóng dân tộc
3. Kết bài
– Cảm nghĩ tổng quát của người lính về chiến tranh ngày nay
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 1
Tôi gia nhập quân đội năm 1964, là một người lính lái xe hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn. Thời kì đó nước ta đang kháng chiến chống Mĩ, gian khổ có, hiểm nguy có nhưng chúng tôi cùng những chiếc xe không kính vẫn luôn lạc quan yêu đời và phơi phới niềm tin chiến thắng.
Những chiếc xe của chúng tôi được cài cắm cành lá ngụy trang cẩn thận nhưng tiếc là chúng vẫn bị tàn phá tới nỗi không có tấm kính trước buồng lái. Vốn dĩ xe nào mà chẳng có kính nhưng sự ác liệt ở nơi chiến trường, bom giật, bom rung kính cũng phải vỡ, chẳng chiếc xe nào lành lặn nổi. Cái không vỡ kính thì cũng hỏng đèn, cái không hỏng đèn thì cũng chẳng có mui xe, chằng chịt vết xước. Chiến tranh chính là như thế đấy, nó có sức phá hủy đến khủng khiếp.
Không có kính thì chúng tôi – những người lính phải đối diện với biết bao khó khăn. Khi thì gió thổi cay mắt, ôm thì bụi ào ào xông tới, đứa nào đứa nấy mặt mũi lấm láp, nhem nhuốc. Và thế là chúng tôi gọi đùa nhau là lũ người già. Rồi hôm trời tạnh ráo thì chẳng sao, phải hôm trời mưa, ngồi trong xe cũng có khác ngoài trời là bao. Còn nhớ anh Duật khoa văn xuất khẩu thành thơ:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”
Rồi cả lũ cứ cười ha ha. Bụi ư? Mưa à? Chúng tôi chẳng quản khó khăn, nhọc nhằn nơi chiến trường. Không có kính cũng có cái hay, ngồi vào buồng lái thoáng đãng, ung dung vừa lái xe vừa ngắm trời ngắm đất, ngắm một cách trực tiếp chân thực nhất. Còn gì tuyệt hơn khi được hòa mình vào thiên nhiên, đất trời. Chẳng bận tâm mưa gió hay nắng cháy, chúng tôi chỉ cần hoàn thành nhiệm vụ. Dẫu trời có mưa to, gió lớn thì cùng lắm ướt áo như tắm mưa, cũng chẳng cần thay vì ngồi buồng lái chạy thêm trăm cây số gió lùa vào chẳng mấy mà khô.
Những chiếc xe không kính đã tập hợp thành tiểu đội, anh em lái xe trở thành đồng đội của nhau, đi đâu cũng gặp được bạn bè. Chỉ cần một cái bắt tay qua cửa kính vỡ: “Chào đồng chí!” là chúng tôi đã gắn kết với nhau. Thế rồi những lúc nghỉ ngơi, dựng bếp Hoàng Cầm ngay trong rừng, chúng tôi nấu cơm, chung nhau bát đũa, trở thành một gia đình. Mệt quá thì mỗi người một võng mắc lên hai cây cao mà ngủ, chợp mắt một lúc rồi lại bắt đầu đi. Cuộc sống nơi chiến trường là thế, cùng nhau trải qua gian khổ, thiếu thốn, cùng nhau vượt qua mưa bom, bão đạn. Đạn bom có thể phá hủy chiếc xe nhưng không ngăn được bước chân chúng tôi. Còn hơi thở là còn chiến đấu và những chiếc xe vẫn sẽ tiếp tục băng băng trên đường Trường Sơn để vào với miền Nam ruột thịt.
Chính vì tinh thần bất khuất, hiên ngang, kiên cường ấy mà người ta gọi chúng tôi là trái tim của những chiếc xe không kính. Mặc dù thiếu thốn tất cả nhưng chiếc xe không kính vẫn luôn chạy vì trái tim của nó vẫn sống và tràn đầy nhiệt huyết.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 2
Tiểu đội xe vận tải của tôi có đặc điểm chung là không chiếc xe nào có kính. Qua bao trận mưa bom trên đường chở hàng ra tiền tuyến, kính xe đã vỡ hết cả. Cánh lái xe chúng tôi vẫn ung dung ngồi trong buồng lái, thoả thích nhìn đất, nhìn trời và nhìn thẳng con đường hướng vào chiến trường miền Nam đang đánh Mỹ.
Không có kính, gió tha hồ ùa vào buồng lái. Gió thổi làm mắt cay xè nhưng chẳng hề chi, chúng tôi vẫn nhìn rõ con đường đất đỏ như son như đang chạy thẳng vào tim. Ban ngày thì những cánh chim rừng, ban đêm thì những vì sao sáng như đột ngột sa vào, ùa vào buồng lái.
Lái xe trên đường Trường Sơn là công việc hết sức khó khăn, nguy hiểm. Trời mưa, ngồi trong xe mà ướt sũng như ngoài trời. Mặc! Chúng tôi vẫn cho xe chạy thêm hàng trăm cây số nữa. Mưa mãi thì cũng phải tạnh. Gió lùa, quần áo sẽ mau khô thôi. Mưa đã cực, nắng cũng chẳng sướng gì hơn. Đất Trường Sơn khô rang dưới cái nắng như nung. Đoàn xe đi qua, bụi đỏ tung mù trời giống cơn lốc cuốn. Quần áo, đầu tóc chúng tôi bụi phun trắng xoá, trông chẳng khác người già. Bụi mặc bụi, xe vẫn cứ chạy. Đến cánh rừng nào đó có suối, có khe, chúng tôi dừng lại rửa mặt, nhìn nhau anh nọ cười anh kia mặt lấm, tiếng cười ha ha vang rộn, trẻ trung, yêu đời biết mấy!
Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, những chiếc xe từ trong bom rơi đã về đây họp thành tiểu đội xe không kính. Trên đường Trường Sơn, chúng tôi gặp nhau, những cái bắt tay thật chặt nồng ấm tình đồng đội, truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau. Tất cả đều thể hiện quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện ý nguyện tha thiết của Bác Hồ – vị Cha già dân tộc, trước lúc Người đi xa.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 3
Trong buổi họp mặt nhân ngày quân đội nhân dân Việt Nam, tôi đã tình cờ gặp lại người bạn xưa cùng chung tiểu đội trên những chiếc xe không kính ở tuyến đường Trường Sơn làm nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho miền Nam. Chúng tôi tay bắt mặt mừng và mọi người yêu cầu tôi kể lại những ngày tháng ấy.
Tôi còn nhớ trên con đường huyết mạch nối giữa miền Nam và miền Bắc mà chúng tôi lái trên những chiếc xe lại là nơi bom đạn giật tung dữ dội ác liệt. Nhiệm vụ của tôi là vận chuyển lương thực, vũ khí, bom đạn của Mỹ đã biến những chiếc xe không còn có kính. Tôi đã thực sự hiểu rõ hơn về những gian lao khổ cực mà chúng tôi đã phải chịu ngày chịu đêm không lùi bước tôi vẫn ung dung lái xe đi tới những chặng đường, luôn nghe âm thanh của bom liên tục gào thét. Trên một chiếc xe không kính, tôi đã nhìn thấy được trời, nhìn thấy cả đất và những ánh sao đêm. Tôi nhìn thẳng về phía trước, vì phía ấy chính là tương lai của đất nước, là miền nam ruột thịt quê hương tôi.
Tôi vẫn lái dù bụi có phun làm mái tóc trở nên trắng xóa, chúng tôi vẫn vô tư phì phèo điếu thuốc và cất tiếng cười khi nhìn mặt nhau. Khó khăn gian khổ hay bom đạn của kẻ thù chẳng thể nào làm tôi nản chí, sờn lòng. Những chiếc xe không kính cứ tiếp tục đi và đi trên những tuyến đường ra trận, mưa tuôn mưa xối ướt hết cả áo nhưng tôi vẫn cố gắng lái trăm cây số nữa vượt qua những chặng đường nguy hiểm để đảm bảo an toàn cho mọi thứ tôi đang vận chuyển. Và tôi nghĩ khi mưa ngừng, có gió lùa vào rồi thì sẽ mau khô thôi.
Càng đi càng đi, tôi càng gặp được nhiều anh em đồng đội của mình dù bom đạn của Mỹ vẫn giật tung sát bên tai. Cái chết luôn rình rập nhưng tôi vẫn luôn lạc quan yêu đời. Ngày ấy cũng có người hy sinh, nên vì vậy, khi tôi gặp lại người bạn năm xưa thì mọi kí ức kỉ niệm chợt ùa về khiến tôi say mê kể lại.
Những giây phút hiếm hoi khi gặp lại đồng đội, cái bắt tay qua cửa kính bể rồi làm tôi thắm thiết hơn. Những bữa cơm bên bếp Hoàng Cầm, mọi cái bát cái đũa dùng chung như một đại gia đình lớn của những người lính lái xe Trường Sơn. Rồi giây phút được nghỉ ngơi trên những chiếc võng mắc chông chênh ngoài đường, kể nhau nghe mọi sự ác liệt trên những con đường đã đi qua. Càng kể tôi càng thấy yêu đồng đội mình hơn, bom đạn của Mỹ có thể hạ xuống trong lúc chúng tôi đang làm nhiệm vụ. Chiếc xe không chỉ mất kính, mà lại còn không có đèn, thùng xe thì rách xước nhưng những thiếu thốn này vẫn chẳng thể cản được chúng tôi tiến tới miền Nam ruột thịt. Và những chuyến hàng của tôi cũng đã góp phần tạo nên chiến thắng của dân tộc.
Đến bây giờ tôi vẫn còn rất tự hào vì đã lái những chiếc xe không kính làm nhiệm vụ chi viện cho miền Nam, góp phần không nhỏ vào cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Tôi vẫn không quên nhắc nhở con cháu của mình là phải biết ơn các thế hệ trước, phải luôn tưởng nhớ những con người đã hi sinh “Uống nước nhớ nguồn”.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 4
Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam – ngày 22 tháng 12, để chúng tôi hiểu thêm về lịch sử chiến đấu của dân tộc, nhà trường đã mời đoàn cựu chiến binh về thăm và trò chuyện. Trong đoàn đại biểu đó, tôi bắt gặp một người lính trên ngực gắn nhiều huân chương và trong buổi lễ chú đã giới thiệu mình là người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Cuối buổi, tôi đã đến gặp và có cuộc nói chuyện thú vị với ông.
Các bạn có lẽ không thể hình dung được, người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi năm xưa giờ đĩnh đạc, oai nghiêm trong bộ quân phục mới. Ông có giọng nói khoẻ, ấm áp và tiếng cười âm vang. Cùng tháng năm, khuôn mặt tuy đã già dặn nhưng vẫn có vẻ hóm hỉnh, yêu đời của người lính. Qua trò chuyện, có thể thấy ông là người rất vui tính, nhiệt tình, đặc biệt là khi ông kể cho tôi về cuộc đời người lính trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy. Ông kể rằng vào năm 1969 là – năm mà Mỹ đánh phá rất ác liệt trên tuyến đường Trường Sơn. Đế quốc Mỹ quyết tâm phá cho bằng được tuyến đường huyết mạch nối liền hai miền Nam – Bắc. Chúng thả hàng ngàn tấn bom, cày xới những khung đường, đốt cháy những khu rừng. Hàng nghìn cây đã đổ, muông thú mất chỗ ở. Đã có nhiều người ngã xuống để bảo vệ con đường. Tuy Mỹ đánh phá ác liệt thật, nhưng những đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm nối đuôi nhau trên con đường, đem theo bao lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam. Kể một lúc, chú lại mỉm cười và nói với tôi:
– Cháu thấy đấy, trong cuộc chiến đấu chúng ta đã phải trải qua biết bao gian khổ, khó khăn. Những năm tháng ác liệt đó đã khắc hoạ cả một thời kỳ lịch sử của dân tộc ta oanh liệt hào hùng. Trên tuyến đường Trường Sơn giặc Mỹ đánh phá vô cùng ác liệt; bom Mỹ cày xới đất đai, phá hỏng những con đường, đốt cháy những cánh rừng, phá huỷ biết bao nhiêu những rừng cây là lá chắn của ta. Nhưng không vì “bom rơi đạn lạc” như vậy mà chúng ta lùi ý chí, các đoàn xe tải ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền tuyến, đi trong bóng đêm theo sự hướng dẫn của các cô thanh niên xung phong để tiến về phía trước trong màn đêm sâu thẳm của rừng hoang. Có hôm trời tối Mĩ phát hiện ra, ta chuyên chở qua rừng, bọn chúng đã thả bom để không cho ta qua, phá vỡ chiếc cầu nối Bắc – Nam. Nhưng đặc biệt hơn cả là đoàn xe vận tải không có kính vì bị “bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Bom đạn trải xuống hàng loạt khiến nào là kính, nào là đèn vỡ, mui xe bẹp, nào là thùng xe xước… Không có đèn vượt qua dãy Trường Sơn đầy nguy hiểm như thế mà chúng ta vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh Mỹ, chạy dọc Trường Sơn. Chẳng khác nào “châu chấu đá xe”, Mỹ với bao nhiêu thiết bị tối tân đế đánh ta nhưng chúng ta đã vượt qua những gian khổ để đánh chúng..
Ông dừng lại một lúc rồi lại kể tiếp:
– Ta còn nhớ trên các cabin những chiếc xe như thế, không có vật gì để che chắn cả, gió táp vào mặt mang theo bao nhiêu là bụi. Gió bụi của Trường Sơn làm mắt cay xè, tóc bạc trắng như người già còn mặt thì lấm lem như thằng hề vậy, thế mà không ai cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc hút ngang nhiên, ai nấy nhìn nhau rồi cười giòn giã vang khắp dãy Trường Sơn. Với những ngày nắng là như vậy nhưng đến lúc mưa thì còn khổ hơn, trời mưa như trút nước thế nhưng chúng ta vẫn cầm vô lăng lái một cách hăng hái hàng trăm cây số nữa có đâu cần thay người lái, gió lùa rồi quần áo lại khô thôi. Xe không kính cũng là một thú vị vì ta có thể nhìn cả bầu trời, không gian rộng lớn khoáng đạt như ùa vào buồng lái, những ngôi sao đều nhìn thấy và những cánh chim chạy thẳng vào tim.Mỗi khi giữa rừng, bên bếp Hoàng cầm sưởi ấm bao trái tim người chiến sĩ, chúng ta nghĩ từng chung bát chung đũa tức là một gia đình, là người trong một nhà rồi đấy cháu ạ.
Được nghe ông kể những vất vả ấy tôi thật khâm phục hơn tình đồng chí đồng đội, lòng dũng cảm hiên ngang của người chiến sĩ. Tôi thầm mơ ước trên thế giới không còn chiến tranh để cuộc sống mãi thanh bình.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 5
Tôi vừa đưa chiếc xe đạp vào khoảng sân hẹp thì đã nghe vọng ra tiếng cười giòn giã của bố tôi và một vị khách. Đó chắc chắn là một vị khách quý bởi vì ít khi có sự ồn ã, sôi động như thế ở người cha hiền hậu nhưng lúc nào cũng lặng lẽ của tôi.
Tôi bước vội vào nhà. Bố tôi cùng người khách hướng ánh nhìn rạng rỡ, trìu mến đón tôi:
– Con gái, đây là bác Trung Trực, bạn học hồi trung học với bố, lại cùng bố nhập ngũ.Bác là chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa đấy con ạ!
Bác Trực trạc tuổi bố tôi. Khuôn mặt bác cương nghị nhưng lại rất đôn hậu. Đôi mắt tuy đã hằn nhiều vết chân chim nhưng vẫn ánh lên những tia vui vẻ và trìu mến. Tôi có đang nằm mơ không nhỉ? Tôi vừa học xong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Những lời thơ, những lời cô giảng và hình ảnh người chiến sĩ lái xe dũng cảm, kiên cường cứ đọng mãi trong tâm trí tôi. Giờ đây, tôi đang được đứng trước một người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đích thực. Thật là một may mắn không ngờ. Tôi cuống quýt:
– Bố ơi! Bác ơi! Con có thể được ngồi với bố và bác một lát để biết thêm về những ngày tháng chiến đấu năm xưa được không ạ?
Bác cười và đáp:
– Sao lại không? Đó là khoảng thời gian đẹp nhất của bố cháu và bác.
– Thưa bác, bác chính là người chiến sĩ lái xe Trường Sơn, người lính mà cháu đã được học trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật, phải không bác?
– Ồ, bài thơ ấy nổi tiếng lắm cháu à. Ngày đó, có lẽ lính lái xe Trường Sơn ít ai là không biết bài thơ ấy. Nó nói hộ phần nào khát vọng chiến đấu, những gian khổ, lòng dũng cảm và sự lạc quan của những người lính như bác.
– Chính bác cũng đã từng lái những chiếc xe không kính ấy phải không ạ?
– Không phải “đã từng” đâu cháu ạ. Mà là bác luôn lái những chiếc xe bị xước, bị va đập, bị bom đạn làm cho rơi vỡ, méo mó những bộ phận bên ngoài như thế. Chiến tranh mà cháu!
Để bác kể rõ hơn cho cháu hiểu nhé. Ngày đó, bác lái xe tải, cùng đồng đội chuyên chở lương thực, thuốc men, khí tài… vào chiến trường miền Đông Nam Bộ. Có những chuyến đi kéo dài hàng tháng trời, gian khổ lắm cháu ạ. Nhất là những đoạn đường xuyên qua dãy Trường Sơn, giặc bắn phá rất dữ dội. Chúng muốn san phẳng tất cả, cắt đứt con đường huyết mạch nối liền Bắc Nam ấy. Tiểu đội xe của bác ban đầu được trang bị toàn xe mới để phục vụ mặt trận. Lúc đó, xe có kính như muôn vàn chiếc xe khác. Nhưng ngày nào xe cũng lao đi giữa bom gầm, đạn nổ khiến kính rạn vỡ, mất dần hết cả. Rồi cả mui xe cũng bị đạn pháo cày hất tung lên. Thùng xe va quẹt nhiều cũng chằng chịt vết xước. Chẳng còn chiếc xe nào còn nguyên vẹn cháu à.
Tôi vẫn còn tò mò, tiếp tục hỏi bố:
– Lái xe không kính, không mui, không đèn như thế chắc nguy hiểm lắm bác nhỉ?
Bác sôi nổi tiếp lời:
– Nguy hiểm lắm, cái sống cái chết lúc nào cũng trong gang tấc. Lái xe không kính thì mối nguy hiểm gần nhất là bụi đất. Đường Trường Sơn mùa khô bụi cuốn mù trời sau làn xe chạy. Bụi cuốn vào mặt, vào quần áo. Bụi dày đặc đến mức mắt cay xè, không thể mở nổi. Lúc ấy, râu, tóc, quần áo và cả xe rực lên một màu đất đỏ Trường Sơn. Rồi cả mưa nữa chứ. Mưa Trường Sơn thường bất ngờ. Đang bụi bám đầy thì bỗng cả người nặng chịch vì ướt sũng nước mưa. Mưa xối xả quất vào người, vào mặt, vào mắt. Những làn nước cay xè, buốt rát khiến việc lái xe khó hơn gấp trăm ngàn lần. Thế nhưng, những người lính lái xe như bác không bao giờ dừng lại, luôn phải tranh thủ tránh giờ cao điểm cháu ạ. Cũng vì xe không kính nên mưa gió vứt vào cabin đủ thứ, nào là lá rừng, nào là cành cây gãy… Bác đã bao lần bị cành cây cứa vào mặt, vào tay cầm vô lăng, đau rát vô cùng. Gian khổ là thế đấy cháu. Mỗi chuyến chở hàng về tới đích thật sự là một kỳ tích. Vậy mà ký tích vẫn luôn xuất hiện.
Bác mỉm cười, khuôn mặt ánh lên vẻ rạng rỡ và tự hào. Lời bác kể như chất chứa bao nhiệt huyết, bao sôi nổi của một thời tuổi trẻ nơi chiến trường. Bác dường như đang được sống lại những phút giây lịch sử ấy. Không hiểu sao ngay lúc này, những lời thơ của Phạm Tiến Duật lại ùa về, ngân nga trong lòng tôi. Đó chính là một thực tế ở chiến trường ngày ấy. Thế mà, những người lính cụ Hồ vẫn tràn đầy lạc quan, yêu đời, và tin tưởng vào một ngày mai chiến thắng.
Tôi chợt thấy bác Trực trầm ngâm, ánh mắt xa xôi như đang lạc trong dòng hồi tưởng. Còn bố tôi thì ngồi lặng lẽ, khuôn mặt đầy vẻ xúc động. Bác Trực chợt nói:
– Xe không kính thế mà lại hay cháu ạ. Gặp bạn cũ, gặp đồng đội, gặp đồng hương đều tay bắt mặt mừng qua ô kính vỡ. Giữa đại ngàn mênh mông, bác chợt thấy lòng mình ấm lại vì được chiến đấu bên cạnh những đồng chí yêu thương.
Giọng bác chợt rung lên, đầy xúc động:
– Cháu không thể hiểu tình đồng chí thiêng liêng, quý giá thế nào với người lính các bác đâu. Dừng xe, ghé vào một bếp Hoàng Cầm, chỉ cần thêm bát thêm đũa là thấy thân thuộc như anh em một nhà. Dù chốc lát nữa thôi, mỗi người sẽ đi mỗi hướng, có khi chẳng bao giờ gặp lại nhau giữa chiến trường ác liệt. Bác và ba cháu có thể trở về hạnh phúc bên gia đình, nhưng bao nhiêu đồng đội của bác đã ngã xuống. Có một đồng đội của bác đã hy sinh ngay sau vô lăng vì quyết tâm lái xe vượt qua làn đạn dù đang bị thương nặng. Ngày ấy, khẩu hiệu “Yêu xe như con, quý xăng như máu” luôn khắc ghi trong tim những người lính lái xe. Dù có hy sinh, các bác vẫn quyết tâm bảo vệ xe và hàng.
Bác chợt im lặng. Không khí cả căn phòng bỗng chốc trở nên thật trang nghiêm.
Trong tôi bỗng trào dâng một cảm xúc thật kỳ lạ, vừa khâm phục, vừa tự hào. Ngày hôm nay tôi đã hiểu thêm rất nhiều điều. Trước đây, tôi chỉ biết đến cuộc sống êm đềm trong vòng tay ấm áp, chở che của gia đình, thầy cô trong một đất nước hòa bình. Đó là thành quả của bao thế hệ cha anh đã vất vả, hy sinh. Họ chính là bố tôi, bác tôi và những người tôi chưa từng gặp mặt. Tôi phải thật trân trọng cuộc sống hòa bình này và cố gắng trau dồi, hoàn thiện để góp phần xây dựng đất nước thêm tươi đẹp trong thời đại mới.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 6
Tôi là người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn – tuyến đường huyết mạch nối liền hai miền Bắc và Nam. Trong suốt những năm tháng kháng chiến chống Mỹ gian khổ, chúng tôi – những người lính lái xe vẫn giữ vững tay lái để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: vận chuyển lương thực, vũ khí và đạn dược vào chiến trường khốc liệt.
Trên quãng đường Trường Sơn, những chiếc xe vốn nguyên vẹn lại bị bom đạn của kẻ thù hủy diệt, trở thành những chiếc xe không kính. Nhưng chúng tôi – những người lính lái xe vẫn ung dung ngồi trước buông lái. Những chiếc xe không kính còn giúp cho chúng tôi thêm hòa hợp với thiên nhiên hơn. Từ gió trời, con đường đến cánh chim giống như đang ùa vào buồng lái để chào hỏi.
Những chiếc xe không kính khiến cho hành trình thêm khó khăn. Đó là bụi đường làm mái tóc trắng như người già. Chúng tôi chẳng cần rửa, cứ thế phì phèo châm điếu thuốc và nhìn nhau cười vui vẻ. Đó là mưa tuôn, mưa xối giống như đang đứng ở ngoài trời. Chúng tôi chẳng cần thay áo, cứ thế lái xe vài trăm cây số, để gió lùa vào rồi áo cũng sẽ khô.
Những chiếc xe không kính đã họp thành một tiểu đội xe không kính. Chúng tôi gặp gỡ trên hành trình ấy. Tất cả giống như những người bạn lâu ngày không gặp, bắt tay nhau và mỉm cười chào hỏi. Rồi đến khi đêm về, dựng bếp Hoàng Cầm giữa trời. Cùng nhau ăn uống, cùng nhau trò chuyện giống như một đại gia đình. Tình cảm đồng đội giữa những người lính lái xe cũng giống như tình thân – sâu sắc và thắm thiết.
Dù những bộ phận quan trọng nhất của chiếc xe đều bị phá hủy. Xe không có kính, không có cả mui xe và hỏng cả đèn xe. Nhưng những chiếc xe vẫn cứ băng băng trên khắp mọi nẻo đường Trường Sơn. Bởi vì trong xe có một “một trái tim” – trái tim yêu đời với nhiệt huyết cách mạng của người lính lái xe. Hình ảnh “một trái tim” tượng trưng cho lòng căm thù giặc sâu sắc của chúng tôi. Đồng thời nó còn là biểu tượng cho nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 7
Bước vào năm 1969, cuộc chiến khốc liệt và căng thẳng hơn. Sau thất bại trong chiến lược Chiến tranh cục bộ, quân Mỹ bắt đầu tiến hành chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Thực hiện chính sách này, Mỹ rút dần quân số trên chiến trường Đông Dương và tăng cường chiêu mộ, bắt bớ người Việt Nam đi lính. Đồng thời, chúng tiến hành các chiến lược bình định trên toàn miền Nam. Một không khí khủng bố vô cùng căng thẳng bao trùm lên khắp miền lãnh thổ. Nhiệm vụ chiến đấu giải phóng miền Nam cũng đối mặt với những khó khăn vô cùng lớn. Không để miền Nam đơn độc trong cuộc chiến đấu ác liệt với kẻ thù, quân và dân miền Bắc gắng hết sức mình chi viện và cùng quân dân miền Nam anh dũng chiến đấu.
Tôi là một chiến sĩ lái xe. Cuối năm 1968, tôi được điều động về đại đội một ô tô vận tải, thuộc tiểu đoàn 59, trung đoàn 35, Đoàn 471, Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Nhiệm vụ của đại đội là vận chuyển những chuyến hàng vào chiến trường miền Nam. Không những đưa hàng hóa đến tận chiến trường, phục vụ nhanh chóng và kịp thời cho cuộc chiến đấu, chúng tôi còn phải cung ứng quân trang, quân dụng, thuốc men và những thứ cần thiết khác mà quân và dân miền Nam đang cần.
Trong những năm khó khăn ấy, nhân dân miền Bắc đã dốc hết sức mình vì miền Nam ruột thịt. Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước mà bà con miền Bắc đã không quản ngại gian khổ hy sinh. Từng lớp thanh niên đã hăng hái lên đường tham gia chiến đấu. Ngày ra đi còn vẫy chào tạm biệt, hứa xong nhiệm vụ với tổ quốc mới trở về.
Bao nhiêu nông phẩm thu được, nhân dân chỉ giữ lại phần ít. Phần lớn còn lại gửi vào miền Nam cho bà con và các chiến sĩ. Chính phủ còn nhận được sự hỗ trợ của các nước anh em ủng hộ cuộc chiến. Chúng tôi lên đường bất kể ngày đêm. Hễ có hàng là chúng tôi chạy. Từng đoàn xe nối đuôi nhau xuôi ngược trên tuyến đường Trường Sơn, nhộn nhịp như mùa hội. Tấm chân tình của nhân dân miền Bắc đối với quan và dân miền Nam thật nói sao cũng không hết.
Năm ấy, phát hiện tuyến đường huyết mạch Trường Sơn, quân Mỹ tiến hành đánh phá ác liệt. Chúng rải thảm bom đạn nhằm ngăn chặn dòng tiếp viện. Con đường bị cày xới dữ dội. Rất nhiều đồng đội của tôi đã hy sinh. Những chiếc xe băng trong mưa bom bão đạn của kẻ thù không chiếc nào còn nguyên vẹn. Khung cửa kính bị hơi bom ép vỡ. Đèn pha cũng bị cháy. Thùng xe lỗ rỗ vết bom. Mui xe bị đánh bật quang mất từ bao giờ. Sau những chuyến đi trở về, xe của chúng tôi bị biến dạng ghê gớm.
Thế nhưng, chúng tôi không hề nản lòng. Các đồng chí động viên nhắc nhở nhau cùng hứa sẽ giữ vững tay lái, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Chúng phá đường thì ta sửa. Chúng đánh ngày thì ta chạy đêm. Những đoàn xe lại nối đuôi nhau ra tiền tuyến. Tuyến đường Trường Sơn như sợi chỉ thần kì nối liền miền Nam, miền Bắc. Nơi đâu cũng nhộn nhịp bóng người. Có thể nói, mọi sức mạnh đều tập trung về đây để bảo vệ tuyến đường, bảo vệ mạch máu của dân tộc.
Ngồi trong những chiếc xe không kính, cả bầu trời như đến gần với tôi. Dù trời không có gió nhưng hề xe chạy thì gió cứ thế mà lùa vào ào ạt. Gió thổi xoát mặt, cay xè cả hai mắt, thổi bồng mái tóc của chúng tôi. Cứ mỗi lần bước ra khỏi buồng lái là tóc tôi dựng ngược hẳn lên như vừa được bôi một thứ keo dán tóc nào đó. Ban đêm xe chạy, sao sáng vằng vặc trên trời cao, rõ ràng hết mức vì không bị kính che mờ. Những cánh chim trời tinh nghịch cứ bay ngay buồng lái. Đôi khi chúng làm tôi hết hồn vì ngỡ bóng máy bay của địch.
Sợ nhất vẫn là bụi đường. Không có kính, bụi phun tóc trắng xóa như người già. Cả đầu tóc lẫn mặt mũi của chúng tôi như trát một lớp phấn trắng. Chỉ còn hai con mắt là khác màu thôi. Mỗi lần nghỉ ngơi, nhìn các chiến sĩ ai cũng bạc phết mà cười ngất ngây. Hết bụi thì đến mưa. Mưa rừng trường Sơn đột ngột và dữ dội lắm. Không hề báo trước, cơn mưa từ đâu phía bên kia núi ào ào kéo đến trút nước lên đầu. Không có kính, nước mưa cứ thế mà tuôn, mà xối vào. Ngồi trong xe mà tôi cứ ngỡ đang ở ngoài trời. Nhưng mưa cứ kệ mưa. Xe chạy vẫn cứ chạy. Quần áo ướt rồi lại khô, cần chi phải nghỉ ngơi lôi thôi. Cuộc sống như thế chúng tôi đã quen từ lâu, có chi mà quản ngại gió sương.
Vui nhất là những lần đồng đội khắp muôn phương cùng nhau hội tụ. Những đoàn xe nối đuôi nhau mấy cây số. Chúng tôi bắt tay thân ái qua ô cửa kính vỡ, hỏi han và động viên nhau. Tôi chúc mừng các anh đã hoàn thành nhiệm vụ trở về. Những chiến sĩ trở về động viên và cầu chúc tôi may mắn.
Những cuộc dừng chân giữa rừng kết nối biết bao trái tim. Dù ở những đơn vị khác nhau, từ nhiều vùng quê của đất nước, nhưng gặp nhau ở đây, chúng bếp lửa hồng, chung bữa cơm vui thì chúng tôi xem nhau là anh em đồng chí cả.
Đường Trường Sơn được xây dựng bằng sức người, bằng đôi bàn tay của hàng vạn thanh niên yêu nước. Trên núi cao, dưới vực thẳm thách thức mọi tinh thần. Những con dốc cao đến nỗi đứng dưới nhìn lên mỏi cả cổ. Tôi nhớ rất rõ lần chạy xe xuyên đêm vượt qua con dốc vô cùng hiểm trở. Con dốc sừng sững thách thức các đồng chí lái xe đã từng vận chuyển hàng hóa trên cung đường này.
Đêm ấy trời mưa to, đường bị xói lở nhiều. Đại đội trưởng lệnh chúng tôi dừng lại tìm nơi ẩn nấp. Đến đêm mai lại chạy tiếp. Nhưng chúng tôi đang ở giữa vùng trống, không có nơi ẩn nấp an toàn cho cả đoàn xe. Lại thêm trời cứ mưa thế này, đến đêm mai chưa chắc đã hết. Tôi khuyên đại đội trưởng cho đoàn xe vượt dốc. Sau phút suy nghĩ, đại đội trưởng đồng ý.
Tôi lái xe đi đầu. Lấy hết bình tĩnh, tôi đạp mạnh chân ga. Chiếc xe lừ lừ chạy tới. Biết mặt đất trơn, tôi cố gắng giữ ga thật đều. Bánh xe bám chặt vào mặt đường giữ xe vững chắc. Bỗng chiếc xe lắc lư dữ dội vì vấp phải rãnh sâu. Tôi đạp mạnh ga hơn cho xe vượt qua nhưng không thể. Xe bị tuột ga rồi. Tôi đạp mạnh thắng để giữ xe lại nhưng mặt đường như rải dầu trơn tuồn tuột. Đuôi xe lệch về một bên, đầu xe quay ngang. Phía sau là con vực sâu đến nghìn mét.
“Chắc chắn xe sẽ lao xuống vực”. Tôi nghĩ thế và thầm mong có một sức mạnh nào đó nâng đỡ. Bỗng chiếc xe khựng lại. Tôi nghe tiếng đại đội trưởng thét lớn: “Cho xe lao lên mau!”. Tiếng thét làm tôi sực tỉnh. Tôi lấy hết sức đạp mạnh chân ga. Bánh xe chà xát trên mặt đường đưa đầu xe từ từ quay lên, bùn đất văng rào rào hai bên. Tiếng xe gầm thét dữ dội. Chiếc xe khựng lại rồi từ từ quay đầu lên dốc. Tôi hít một hơi dài, nhấn ga thêm nữa, xoay vô lăng đều đều đưa xe lên. Cuối cùng, tôi cũng đưa xe lên đến đỉnh dốc an toàn. Bước xuống xe, tôi thở phào nhẹ nhõm.
Nhìn đại đội trưởng và các đồng đội mình mẩy đầy bùn đất tôi nghẹn ngào xúc động vô cùng. Thì ra, khi thấy xe tôi trượt dốc, đại đội trưởng và các chiến sĩ đã vội đi tìm đá kê. Mỗi người một hòn kê vào bánh xe. Hết hòn này đến hòn khác cho đến khi xe lên hẳn trên dốc. Đêm ấy, đoàn chúng tôi vượt dốc thành công nhờ mưu trí của đồng đội, kịp đưa xe về nơi trú ẩn an toàn.
Bình tĩnh, quả cảm, xử lý các tình huống mau lẹ, chính xác là những yếu tố cần có ở người lính lái xe. Người lái xe mặt trận không chỉ bình tĩnh vững vàng trong buồng lái, mà cần cả mưu lược, linh hoạt trong việc xử lý các tình huống trên thực địa. Có khi còn phải biết làm “tham mưu” đề xuất với chỉ huy cấp trên các phương án khai thông khi tắc đường. Phải biết hợp đồng tác chiến với công binh, với bộ đội phòng không, phải hiểu rõ thủ đoạn và quy luật hoạt động của kẻ địch trên trời dưới đất để đưa hàng tới đích. Đó là lời dạy của đại đội trưởng mà tôi còn nhớ mãi cho tới bây giờ.
Chiến tranh là phải có hy sinh. Chúng tôi đã xác định điều mỗi khi lên đường. Người đồng đội thân nhất, đã cùng tôi vào sinh ra tử bao nhiêu trận đã hy sinh. Anh ra đi như một người lính thật sự, không hề hối tiếc.
Hôm ấy, sau một đêm vận chuyển, trên đường đi ra, trời sáng, đơn vị phải giấu xe che mắt địch. Chiều, bọn thám báo đã “đánh hơi”, gọi máy bay ném bom. Dứt đợt oanh kích của địch, ba đồng chí công binh gọi anh đi kiểm tra hiện trường. Tôi ngăn anh, để tôi đi trước, nhưng anh không chịu. Đến nơi giấu xe, anh đụng bom bi vướng nổ. Quả bom hất tung anh rơi xuống vực sâu. Anh ra đi, đồng đội vô cùng thương tiếc.
Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc chúng tôi khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực, chỉ có một cách duy nhất là vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng cao chúng tôi lại càng quyết tâm chiến thắng.
Không thể nhớ hết bao nhiêu tình huống trên đường vận chuyển. Những chuyến xe lấy đêm làm ngày vượt qua những bãi bom phá, bom từ trường, bom bi trong vòng lượn của máy bay tiêm kích suốt ngày đêm lồng lộn xoi mói, oanh kích bắn phá các trọng điểm dọc đường Trường Sơn. Những quả đồi đất thành bột, vách đá thành vôi, những sông bùn, những vực thẳm chồng chất xác xe cháy đổ. Dù kẻ thù rình rập, đường đi nguy hiểm, dù có bao nhiêu hy sinh đi chăng nữa nhưng không gì thể cản bước đoàn xe chạy tới.
Xe vẫn chạy. Những đoàn xe nặng trĩu chuyến hàng vẫn ngày đêm chạy tới. Tất cả vì miền Nam ruột thịt. Tất cả vì sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước của dân tộc. Mỗi khi ngồi vào buồng lái, tôi lại nhớ đến các anh, nhớ đến nhiệm vụ thiêng liêng mà nhắc mình giữ vững tay lái, sống và chiến đấu xứng đáng với những người đã mãi mãi ra đi để bảo vệ đất mẹ thiêng liêng này.
Kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 8
Hôm nay tôi có dịp cùng đồng đội cũ về thăm chiến trường cũ. Kí ức những năm đỏ lửa 1968 như ùa về trong tâm trí tôi. Đồng đội tôi người còn sống, người mãi nằm lại chiến trường. Một cơn gió lùa qua tôi, mang theo câu chuyện về những tháng ngày gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc.
Vào những năm tháng chiến đấu chống Mỹ ác liệt, khi cả nước hướng về miền Nam ruột thịt. Chúng tôi là lớp thanh niên, tạm gác bút vở sang một bên, nộp đơn xin nhập ngũ. Quyết không để miền Nam đơn độc trong trận chiến này, tôi đã vào chiến trường, mong muốn đóng góp công sức cùng cả dân tộc “ đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”.
Vào chiến trường, mỗi người một nhiệm vụ phục vụ cho kháng chiến. Tôi là chiến sĩ lái xe, nhiệm vụ chính là đảm bảo người, vũ khí và chi viện từ Miền Bắc vào chiến trường. Hằng ngày, trên chiếc xe của mình, tôi rong ruổi trên khắp chiến trường Miền Nam, chi viện thuốc men, quân tư trang đến những địa điểm cần thiết.
Những năm tháng ác liệt 1968. Mỹ như trút bom xuống Trường Sơn, muốn dập tắt tinh thần chiến đấu của cả dân tộc. Thế nhưng bom Mỹ có đội xuống thế nào, cả dân tộc cũng không nao lòng. Chúng tôi bên chiếc xe của mình, một chiếc xe vô cùng “ đặc biệt” đảm bảo giao nhận hàng hóa kịp phục vụ chiến trường.
Dưới sức ép của bom, hàng loạt kính xe của tôi bị vỡ hết. Dù nhiều lần được thay kính mới, nhưng chỉ vài ngày lại bị bom Mỹ giật rung cho bể hết kính. Cánh lái xe chúng tôi cũng không thiết thay kính mới thêm lần nào nữa. Ấy thế mà kính vỡ cũng có cái hay của nó nhé!
Ngồi trong buồng lái, tôi cảm nhận từng cơn gió lùa vào, xua đi những cơn mỏi mệt, buồn ngủ đang hiện hữu. Con đường hằng ngày mà tôi cùng đồng đội đang đi, tuy có bị bom Mỹ tàn phá dữ dội. Thế nhưng tôi không hề nao núng, bởi lẽ con đường ấy còn là lý tưởng cách mạng, là con đường chính nghĩa cho hòa bình dân tộc.
Ban đêm, cánh lái xe chúng tôi lấy sao trời soi sáng, bánh xe vẫn lăn đều trong đêm. Thật ra một phần chúng tôi cũng không dám mở đèn nhiều, vì sợ tụi Mỹ sẽ thấy mà thả bom. Điều kiện khắc nghiệt là thế, nhưng chúng tôi không bao giờ bỏ cuộc hay kêu ca.
Có những hôm trời nắng, đường khô gió bụi bay vào cay cả mắt, lúc bước xuống xe quần áo, mặt mũi đều đầy bụi. Những hôm mưa rừng xối xả, ngồi trong xe mà vẫn ướt như thường. Cái lạnh của rừng Trường Sơn có đôi lúc như muốn quật ngã chúng tôi.
Cái lạnh thấm vào quần áo, da thịt, lạnh đến run người. Thế nhưng chúng tôi vẫn không quan tâm, quần áo ướt đã có gió hong khô. Cánh lái xe chúng tôi đã quá quen với cuộc sống vất vả và khắc nghiệt này.
Thế nhưng, vì Miền Nam vì hòa bình dân tộc chúng tôi đã có những lúc “ cái gạt nước xua đi nỗi nhớ”, “cái nhành cây gạt mối riêng tư”. Những nỗi nhớ thương, mong nhớ đều dằn lòng lại. Tuy ở đây chỉ có núi rừng, chuyến xe vào ra liên tục, thế nhưng tình đồng đội đồng chí của chúng tôi vẫn luôn gắn bó.
Công việc liên tục, xe chạy ngày đêm để kịp chi viện cho Miền Nam, cánh lái xe chúng tôi chỉ có thể chào nhau bằng cái bắt tay vội vàng qua ô cửa xe đã vỡ. Cái bắt tay như tiếp thêm sức mạnh, nhưng đôi lúc cũng là cái bắt tay cuối cùng. Chiến tranh mà, cái chết luôn nằm ở trên đầu, nhưng chúng tôi vẫn không hề nao lòng.
với cánh lái xe chúng tôi, niềm vui là khi hàng hóa giao đến nơi an toàn. Từ trong bom đạn, nhìn thấy đồng đội của mình vẫn nguyên vẹn, cùng ngồi với nhau bên bếp Hoàng Cầm. Bữa ăn của lính tuy đạm bạc, đơn sơ nhưng đầy tình cảm.
Chúng tôi ngồi lại kể chuyện nhau nghe, kể về bức thư nhà, ruộng đồng, mùa vụ. Kể về những con đường đã đi qua, những vất vả khó khăn mà chúng tôi gặp phải. Rồi chúng tôi cùng nuôi lớn hy vọng về hòa bình, độc lập vào một ngày gần nhất. Chiếc võng mắc vội nằm ngả lưng bên bìa rừng, tôi tranh thủ chợp mắt cho chuyến xe sắp tới.
Tuy không trực tiếp cầm súng chiến đấu như những đồng đội khác. Những lái xe chúng tôi vẫn đóng góp công sức và có lúc cả tính mạng. Không biết bao nhiêu đồng đội của tôi đã nằm lại trên con đường huyết mạch Trường Sơn. Thế nhưng, chuyến xe chi viện cho Miền Nam không khi nào bị đứt mạch. Bởi lẽ những chuyến hàng là cả niềm tin và sức mạnh mà đồng bào Miền Bắc gửi gắm cho chiến trường Miền Nam.
Chiếc xe cho dù không thùng, không kính, bị bom Mỹ làm cho méo mó. Thế nhưng cũng thể nào làm suy dời ý chí của chúng tôi. Chiếc xe của chúng tôi vẫn luôn chạy vì Miền Nam phía trước và cũng vì trong xe vẫn có “ một trái tim”.
Chiến tranh đã lùi xa, ngày hôm nay tôi cùng đồng đội của mình tìm về chiến trường xưa. Những chiếc xe năm nào đã nằm yên trong viện bảo tàng, tiểu đội xe không kính năm nào người còn, kẻ nằm mãi nơi Trường Sơn. Tôi cùng đồng đội xưa vẫn không thể nào quên năm tháng gian khổ nhưng hào hùng ấy. Tôi luôn mong muốn lớp thanh niên ngày nay, luôn tiếp bước và thắp sáng con đường mà lớp cha anh đã ngã xuống để gìn giữ.
Đóng vai anh chiến sĩ kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Chiến tranh đem lại chỉ toàn là nước mắt, ai mà lại chẳng biết sau mỗi cuộc chiến loài người chỉ mất chứ chẳng nhận được gì ngoài đau thương đối với những người ở lại. Đời người chiến sĩ vốn đã là một sứ mệnh, chúng tôi băng ra nơi sa trường đầy khắc nghiệt vì hai chữ “bình yên”, những gì chúng tôi làm đều là vì tổ quốc thân yêu và vì những người mình yêu thương. Bản thân là một người lính trên công cuộc chống Mĩ, tôi nắm trong tay sinh mệnh của gia đình và sự trường tồn của cả một dân tộc, nhân dân miền Nam đang kêu gọi sự giúp đỡ nên chúng tôi trên tuyến đường Trường Sơn và tôi là người lính lái xe trên cả tuyến đường ấy. Đôi khi cuộc đời người lính cũng thật đẹp sao.
Đồng hành với những người lính chúng tôi không phải đạn và súng mà còn có 1 nhân vật đặc biệt. Đó là chiếc xe hay còn được gọi là con tuần mã thời ấy, được sản xuất và nhập về từ Liên Xô. Chiếc xe có màu nâu xanh kiểu màu nâu đậm rất đẹp, có đầy đủ đèn, kèn và kính không 1 vết xước. Qua bao cuộc trao đổi, giao hàng ra tiền tuyến, chiếc xe vỡ hết cửa kính, chẳng một chiếc nào nguyên vẹn. Thế nhưng, với tâm hồn lạc quan và ung dung tự tại, chúng tôi mặc cho gian khổ trước mắt, mặc cho tử thần trước mặt, có lẽ chúng tôi đã quen với chiến trường nên chẳng còn quan ngại nữa, cuộc đời vẫn đẹp sao khi chúng tôi vẫn còn được nhìn trời, nhìn đất, nhìn thẳng về tương lai độc lập chẳng còn xa. Ba chữ “không” và một chữ “có”: xe không kính, không đèn, không có mui xe; thùng xe có xước. Quả thật với một chiếc xe xơ xác như thế này thì chẳng ai chịu nổi khi phải liên tục hàng chục tiếng đồng hồ liền, thế nhưng cũng chính chiếc xe chở hàng cũ kĩ này đã là người bạn của anh em chiến sĩ chúng tôi. Cả một chặng đường dài trên tuyến đường Trường Sơn đầy hiểm nguy tiềm tàng, thế nhưng tử thần cũng chẳng ngăn được “chiến mã” của chúng tôi, dẫu biết số phận đang song song với cái chết nhưng chúng tôi vẫn cứ chạy, chạy, và chạy, hướng về miền Nam phía trước. Trong xe vẫn có luôn có những trái tim đang bùng cháy khát khao hòa bình, có những con người đầy nhiệt huyết về tương lai hạnh phúc, sẵn sàng đối đầu với đớn đau gian khổ nhưng cho đến cuối cùng khi mà chúng tôi có nhau, trong những cặp mắt là những điều tích cực, một lòng trung thành với Đảng và đó cũng là tình anh em của chúng tôi, một gia đình, những trái tim cùng hòa làm một, ngỡ như riêng lẻ mà lại cùng chung một nhịp đập hướng về phía trước.
Xông pha cùng đất trời, hòa mình vào cơn gió đại ngàn mà lao thẳng về phía trước, một đường thẳng tiến đến miền nam tổ quốc. Gió là người bạn thân thiết nhưng cũng thật hung hăng hắt từng cơn bụi cát vào đôi mắt che lấp tầm nhìn. Vượt qua bao lụi rừng lậm cỏ, những cành cây đan xen gai góc đang che lấp cho những chiến binh quả cảm, vươn mình làm lá chắn cho chiến sĩ chúng tôi trong suốt những năm ròng nơi sa trường khốc liệt. Sao trời như hòa làm một với màn đêm, những tia sáng le lói kia như những tia hi vọng trong mỗi chúng tôi, hi vọng về một ngày đất nước được độc lập. Những cánh chim phẩy đôi cánh bay cao vời vợi trông yên bình, thú vị đến mức khiến người ta ngẩn ngơ như cũng muốn có cho mình đôi cánh để cùng phiêu du lướt gió. Những cánh chim phẩy đôi cánh bay cao vời vợi trông yên bình, thú vị đến mức khiến người ta ngẩn ngơ như cũng muốn có cho mình đôi cánh để cùng phiêu du lướt gió. Chúng tôi cùng chiếc xe bầu ban cùng nhau, là “ người đồng đội” luôn kề vai sát cánh trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại. Không có kính thì thôi, ta cùng lướt gió vượt bụi, mặc cho mái tóc hóa bạc, mặc cho gương mặt lấm lem đất đỏ, cứ thế, cứ thế, châm điếu thuốc phì phèo tiến bước. Tồn tại trong chúng tôi là những ngọn lửa đang bừng cháy, ngọn lửa không thể nào dập tắt bởi những cơn mưa, chúng tôi quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Xông vào chiến trường hung hãn và bành trướng như những con mãnh thú đang vật lộn cho sự sống còn, hiên ngang tiến lên để lại sau lưng đống tro tàn của quân giặc. Họp lại cùng những người đồng đội, những người mà trong chúng tôi chẳng mấy ai quên biết, từ tứ phương, những con người chưa từng gặp mặt nhau lại có cơ duyên tề tựu nơi quân khu duyệt lính, rồi dần dà cùng nhau đối mặt với bao nguy nan, cùng trải qua những phút giây tưởng chừng như cái chết đi qua trước mắt, dần gắn bó thân thiết, yêu thương và đoàn kết, đồng lòng vì một mai tươi đẹp của đất nước. Từ những người xa lạ, thành những người đồng đội luôn cận kề giờ đây lại cùng quây quần bên bếp Hoàng Cầm như những người anh em trong một đại gia đình. Khốc liệt, song cũng có những phút giây hạnh phúc, yên bình và đáng nhớ như thế, những tiếng cười tiếng nói thì thầm bên tai những đêm trời lộng gió đã là hình ảnh mãi không thể quên dù cho bao năm kí ức phai mờ phủ đầy bụi. Chúng tôi vẫn đi, lại đi tiếp, đi mãi vì hướng đến một ngày khi trời cao xanh biếc kia không còn tiếng gào thét thương tâm hay khói đỏ rướm máu của chiến tranh tàn ác mờ phủ đầy bụi.
Đời người chiến sĩ khổ cực nhưng đôi khi cũng tràn ngập tiếng cười, tinh thần lạc quan xua tan đi cái khoảng cách giữa những trái tim, và khoảnh khắc khi còn được cùng nhau nhìn nhau cười ung dung với số phận khiến chúng tôi nhận ra cuộc đời này vẫn đẹp sao. Và chính những điều tích cực đó lại càng thôi thúc chúng tôi hơn nữa, thắp sáng cho ngọn lửa khát khao hòa bình bùng cháy lớn hơn bao giờ hết. Ngày nay khi đã hoà bình, tiểu đội năm nào đủ năm người trên chiếc xe không kính, nay người còn nhìn thấy đất nước độc lập, kẻ thì mãi mãi nằm nơi Trường Sơn. Chỉ mong cho giới trẻ mai sau mãi không quên những gì chúng tôi đã làm cho đất nước, mong cho lớp thanh niên sẽ mãi mãi bảo vệ cho con đường mà lớp cha ông chúng đã ngã xuống để mà giữ gìn.
Hóa thân người lính kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Suốt dải đường Trường Sơn bom đạn mịt mù, anh em chúng tôi – những người lính lái xe khi đó là những thanh niên trẻ tràn đầy nhiệt huyết và sức trẻ. Hồi đó, với chúng tôi những chiếc xe không kính chính là bạn đường, người đồng hành, chúng tôi không chê ngược lại còn rất trân trọng và lạc quan với những chiếc xe không kính.
Đâu phải những chiếc xe không kính sinh ra đã thế, mà bởi vì bom đạn chiến trường quá ác liệt, từng trận mưa bom đạn dội xuống rung chuyển cả đất trời thì kính của ô tô nào chịu nổi. Với những người lính lái xe như tôi thì kính có cũng được, không có cũng chẳng sao. Chúng tôi càng ung dung tự tại, càng hòa mình với thiên nhiên cây cỏ, được ngắm bầu trời trong xanh cùng những con đường, hoa lá, cỏ cây. Dường như gió lộng, sao trời, cánh chim đều ùa vào buồng lái. Những đêm có sao, tôi lái xe cảm tưởng như mình đang đi giữa bầu trời tự do, cảm giác ấy nó lạ lắm, thật khó mà diễn tả nổi. Chúng tôi, những gã trai tráng cứ hiên ngang, nhìn về phía trước.
Tất nhiên không kính thì tránh sao được bụi, bụi trên đường rừng thì mù mịt rồi, trắng xóa cả tóc. Lại nhớ mấy cậu trai khoa văn, cứ nhìn nhau ôm bụng cười: “Trông tụi mình có khác gì người già không cơ chứ!”. Thế nhưng chẳng cần bận tâm, chẳng cần rửa, những lúc như thế chúng tôi châm điếu thuốc hút phì phèo rồi nhìn mặt nhau lấm bụi mà cười đùa như thế. Mỗi khi lái xe gặp mưa to, các bạn nghĩ chúng tôi phải nghỉ tránh mưa sao? Không hề, càng mưa thì càng chạy, chạy cho mát, và hơn cả là để nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ. Áo ướt rồi áo lại khô, chỉ cần lái vài trăm cây số gió thổi quần áo tự khô mà chẳng cần giặt, phơi phóng gì cho mệt.
Đâu phải chỉ có một, hai chiếc xe không kính, có cả một tiểu đội ấy chứ. Anh em lính lái xe chúng tôi thân nhau lắm, gặp nhau trên đường chúng tôi thản nhiên bắt tay qua cửa kính đã vỡ: “Chào đồng chí”, “Đồng chí dạo này khỏe không?”,… Đường còn dài, cũng có lúc phải nghỉ ngơi, phải ăn uống, cũng phải cho xe nguội máy nữa. Chúng tôi mỗi người một việc, đào bếp Hoàng Cầm, kiếm củi, nấu cơm, đến lúc ngồi ăn cùng mâm chung bát, chung đũa thế là như một gia đình. Nghỉ ngơi cũng chẳng có gì khó với người lính lái xe, an toàn nhất là mắc võng ngủ trên cây, giữa đường xe chạy. Càng tiếp tục đi tôi càng thấy trời xanh, càng thấy niềm tin và hi vọng đang ở ngay trước mắt. Trải qua bom đạn đường dài, dẫu cho chiếc xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe xước chằng chịt thì những chiếc xe và người lính lái xe vẫn cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Xe dù thiếu thốn đủ thứ nhưng vẫn chạy bon bon trên đường bởi vì trong xe có trái tim người lính, một trái tim hướng về miền Nam, hướng về hòa bình và độc lập dân tộc.
Đã bao nhiêu năm trôi qua nhưng tôi vẫn nhớ như in những người đồng đội lái xe cùng mình, nhớ từng chiếc xe không kính. Năm tháng gian khó ấy đã qua đi, có cả niềm vui và nỗi buồn. Thật không dễ dàng để có được hòa bình, tự do như ngày hôm nay. Bởi vậy, tôi mong rằng thế hệ trẻ ý thức được điều đó và cố gắng gìn giữ, bảo vệ độc lập của dân tộc.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Đóng vai người lính lái xe kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính Dàn ý & 10 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.