TOP 5 bài Cảm nhận khổ thơ đầu Viếng lăng Bác hay, đặc sắc nhất, kèm theo dàn ý chi tiết, sẽ giúp các em cảm nhận rõ những nỗi xúc động, nghẹn ngào của tác giả khi đứng trước lăng Bác.
Khi đặt chân tới lăng Bác, nhìn ngắm khung cảnh xung quanh lăng, tác giả Viễn Phương đã không giấu được nỗi xúc động, nghẹn ngào của mình. Khổ 1 Viếng lăng Bác đã để lại nhiều suy nghĩ, liên tưởng sâu xa cho người đọc. Mời các em cùng theo dõi để ngày càng học tốt môn Văn 9:
Dàn ý cảm nhận khổ 1 bài Viếng lăng Bác
1. Mở bài
- Giới thiệu về nhà thơ Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng bác.
- Đôi nét về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
2. Thân bài
- Lời thông báo về sự xuất hiện của nhân vật trữ tình.
- Hình ảnh về làng tre trong tác phẩm Viếng lăng bác.
- Lời cảm thán về hàng tre mang đậm dấu ấn Việt Nam.
3. Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm, đặc biệt khổ thơ đầu.
- Ý nghĩa của những cảm xúc chân thành trong bài thơ Viếng lăng bác.
Cảm nhận khổ 1 Viếng lăng Bác ngắn gọn
Viếng lăng Bác là một trong những bài thơ hay nhất của Viễn Phương. Bài thơ được sáng tác năm 1976, khi lăng Bác vừa được khánh thành, nhà thơ là một trong những người con miền Nam đầu tiên được ra thăm lăng Bác. Trong khổ thơ đầu tiên, Viễn Phương đã không giấu được sự xúc động khi đặt chân đến lăng Bác, sắp được gặp lại Bác sau bao ngày xa cách.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”, câu thơ như một lời thông báo mộc mạc mà chất chứa bao cảm xúc thân thương. Tiếng “con” vang lên vừa gợi ra mối quan hệ gần gũi, thân thiết vừa chất chứa cảm xúc nghẹn ngào của một người con Việt Nam. Ở đây, nhà thơ Viễn Phương đã dùng từ “thăm” mà không dùng từ “viếng” để làm giảm nhẹ đi nỗi tiếc thương, mất mát. Đứng trước lăng, hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ nhìn thấy đó chính là hàng tre “bát ngát”.
Hình ảnh hàng tre ở đây trước hết mang ý nghĩa tả thực, đó là những rặng tre xanh ngát được trồng hai bên lăng Bác. Về ý nghĩa biểu tượng “hàng tre xanh xanh Việt Nam” lại gợi liên tưởng đến con người và đất nước Việt Nam, đó là những con người dù phải đối mặt với mọi thăng trầm, “bão táp mưa sa” thì vẫn kiên cường, bất khuất “đứng thẳng hàng”.
Hàng tre xanh còn tựa như những người dân Việt Nam canh giữ quanh lăng để bảo vệ giấc ngủ của Bác. Thán từ “ôi” đã thể hiện được nỗi xúc động của tác giả khi bắt gặp những hình ảnh thân thương, gần gũi trước lăng Bác.
Cảm nhận khổ thơ đầu Viếng lăng Bác
Viếng lăng Bác được nhà thơ viết vào tháng 4 năm 1976 khi nhà thơ lần đầu được ra thăm lăng Bác. Ngay trong phần mở đầu bài thơ, nhà thơ Viễn Phương đã giới thiệu về sự kiện đặc biệt này:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Cách xưng hô con – bác gợi cảm giác gần gũi, thân thiết tựa như những người thân yêu trong gia đình. “Thăm” là cách nói giảm nói tránh những đau đớn, mất mát trước sự thực đau lòng. Mở ra trước mắt nhà thơ là hình ảnh “hàng tre bát ngát” hai bên lăng. Tre là loài cây quen thuộc ở mọi miền quê Việt Nam, đây cũng là loài cây biểu tượng cho sự kiên cường, mạnh mẽ và sức sống bền bỉ của đất nước Việt Nam, dù “bão táp mưa sa” vẫn “đứng thẳng hàng. Hình ảnh “hàng tre” kết hợp với từ láy “bát ngát”, “xanh xanh” không chỉ gợi ra sự tươi tốt của hàng tre quanh lăng Bác mà còn gợi liên tưởng về hình ảnh những con người Việt Nam vẫn ngày ngày đứng bên lăng Bác. Câu cảm thán “ôi” được đặt đầu câu đã bộc lộ được nỗi xúc động mạnh mẽ của nhà thơ khi nhìn thấy lăng Bác và hình ảnh hàng tre.
Khổ thơ đầu đã tái hiện sống động về những cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng Bác, đó là nỗi xúc động, nghẹn ngào của người con miền Nam lần đầu được ra thăm lăng Bác.
Cảm nhận khổ 1 bài Viếng lăng Bác – Mẫu 1
Khổ thơ đầu tiên đã thể hiện thật hay dòng cảm xúc của tác giả khi ngắm nhìn quang cảnh bên ngoài lăng Bác. Cách vào đề thật gần gũi giản dị, nhà thơ đã khéo léo giới thiệu được vị trí không gian quãng đường từ miền Nam xa xôi ra viếng Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.
Tiếng “con” mở đầu bài thơ cất lên thật gần gũi, thân thương. Đó là cách xưng hô rất mật thiết của người dân Nam Bộ, đã bộc lộ sâu sắc lòng ngậm ngùi thương nhớ của nhà thơ, của đồng bào miền Nam đối với Bác, cách xưng hô ấy đã xóa nhòa đi khoảng cách giữa lãnh tụ và quần chúng nhân dân. Nhà thơ dùng từ thăm thay cho từ viếng như cố ý muốn quên đi cảm giác tiếc thương, đau buồn và hình dung Bác như còn sống mãi với dân tộc Việt Nam. Ấn tượng đậm nét đầu tiên của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác là hình ảnh hàng tre:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Hiện lên trong sương khói quảng trường Ba Đình lịch sử là hình ảnh hàng tre xanh bát ngát – hình ảnh thực chỉ hàng tre thân thuộc chốn làng quê Việt Nam khiến lăng Bác vừa trang nghiêm lại vừa gần gũi. Câu cảm thán Ôi! đã biểu hiện xúc động pha lẫn niềm tự hào khôn xiết của tác giả. Hình ảnh hàng tre còn mang nét nghĩa ẩn dụ chỉ phẩm chất cốt cách con người Việt Nam, đó là sức sống kiên cường bền bỉ, rời rợi sắc xanh như cây tre luôn tươi tốt giữa đất đai khô cằn sỏi đá. Thành ngữ “bão táp mưa sa” kết hợp hình ảnh nhân hóa “đứng thẳng hàng” đã khắc họa vẻ đẹp kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam trong muôn vàn khó khăn, thử thách.
Tre mang bao phẩm chất của con người Việt Nam: mộc mạc, thanh cao, ngay thẳng, bất khuất. Dấu hiệu hàng tre đầu tiên ở nơi Bác cũng là dấu hiệu của dân tộc Việt Nam, bởi Bác cũng chính là biểu hiện Việt Nam, tiêu biểu cho con người Việt Nam hơn bao giờ hết. Hàng tre xanh ấy được trồng xung quanh lăng Bác như muốn thay cả dân tộc Việt Nam canh giấc ngủ ngàn thu cho Người. Tình cảm của nhà thơ và của đồng bào miền Nam khi về với Bác thật chân thành, xúc động biết bao!
Cảm nhận khổ 1 bài Viếng lăng Bác – Mẫu 2
Ở khổ 1 bài thơ Viếng lăng Bác, tác giả giới thiệu hoàn cảnh Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác, đồng thời bộc lộ tâm trạng dồn nén, xúc động, bởi đây là cuộc viếng thăm thiêng liêng, đầy ý nghĩa với cách xưng hô “Con – Bác”. Hình ảnh đầu tiên nhà thơ chú ý là hàng tre thân thuộc, kiên cường, bền bỉ, biểu trưng cho đất nước, cho dân tộc Việt Nam:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” không chỉ giới thiệu hoàn cảnh mà còn gợi lên tâm trạng đặc biệt thiêng liêng, đầy ý nghĩa của cuộc viếng lăng Bác. Cách xưng hô thật gần gũi, thân thương. Với muôn triệu người dân VN, Bác mãi “là Cha, là Bác, là Anh. Người không con mà có triệu con” cho nên nhà thơ mới xưng con. Các nhà thơ Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi đều xưng con với Bác. Nhưng con ở miền Nam, của Viễn Phương mang một sắc thái thiêng liêng bởi đó là tiếng lòng của đứa con đi xa vắng mặt khi cha mất.
Cụm từ “miền Nam” gợi bao niềm xúc động. Miền Nam là nơi xa xôi, mảnh đất xưa cha ông đi mở cõi. Miền Nam, nơi đi trước về sau. Miền Nam, mảnh đất sinh thời Bác hằng khát khao mong nhớ: “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà – Miền Nam mong Bác nỗi mong cha ” (Tố Hữu).
Chữ “thăm” được tác giả sử dụng thật tinh tế và gợi cảm. Nó vừa giảm nhẹ nỗi đau đớn xót xa, vừa như khẳng định trong lòng mình: Bác Hồ, vị cha già kính yêu vẫn còn đó, Người chỉ đang nằm nghỉ đó thôi. Và tác giả như người con đi xa lâu ngày, nay chỉ chờ gặp lại bóng dáng người cha thân yêu.
Cảnh vật đầu tiên mà nhà thơ nhìn thấy ở bên lăng Bác là hàng tre bát ngát. Người con xa lần đầu tiên về với quê cha đã xúc động trước hàng tre xanh quanh nơi ở của Người. Hàng tre có thực bên lăng Bác được nhìn với con mắt liên tưởng nhân hoá và tưởng tượng vì thế thành hàng tre bát ngát, thành màu xanh dân tộc (xanh xanh Việt Nam) thành những chiến sĩ trung kiên bất chấp bão táp, mưa sa (Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng). Như vậy, lăng Bác thật gần gũi, thân thuộc như một làng quê sau luỹ tre xanh. Nhưng ở đây cũng có nét tượng trưng: Tre biểu tượng cho một dân tộc cần cù, hiên ngang, mạnh mẽ, xếp thành hàng cùng với các chiến sĩ vệ binh canh giấc ngủ cho Người.
Những câu thơ ở khổ thơ này không chỉ dừng lại ở việc tả khung cảnh quanh lăng với hàng tre có thật mà còn gợi ra những ý nghĩa sâu xa. Đến với Bác, chúng ta gặp được dân tộc và nơi Bác yên nghỉ đời đời cũng xanh mát bóng tre của làng quê Việt Nam.
Khổ thơ 1 bài thơ Viếng lăng Bác gói gọn tầm nhìn của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác. Có lẽ, tác giả đã đứng lặng rất lâu để ngắm nhìn, suy ngẫm, hồi tưởng trong niềm xúc động mãnh liệt. Đây là lần đầu tiên được ra thủ đô, được viếng Bác, gặp gỡ người cha già vĩ đại của dân tộc. Biết bao tâm sự, biết bao nhớ thương dồn nén bấy lâu giờ sắp được thỏa nguyện. Giây phút trọng đại ấy khiến cho nhà thơ nghẹn ngào, xúc động không thể nói nên lời.
Cảm nhận khổ 1 bài Viếng lăng Bác – Mẫu 3
Trong bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương, nhà thơ đã có những dòng thơ xúc động về hoàn cảnh ra viếng thăm vị cha già kính yêu của dân tộc:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Bài thơ mở đầu bằng câu thơ bộc bạch hoàn cảnh ra viếng lăng Bác của một người con miền Nam “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng hô “con-Bác” cho thấy sự gần gũi và kính trọng như của một người con đối với một người cha vĩ đại. Cách xưng hô này làm em liên tưởng đến những dòng thơ:
“Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha”.
Đối với mỗi người dân miền Nam nói riêng và Việt Nam nói chung thì Bác Hồ chính là vị cha già bao dung ôm cả đất nước vào lòng. Nay nhà thơ ra miền Bắc thăm lăng Bác và tác giả dùng từ “thăm” thay vì “viếng” như một cách nói giảm nói tránh. Người đọc có cảm giác giống như một buổi đi thăm người thân, mà ở đây là một người con miền Nam đi thăm vị cha già kính yêu của mình.
Câu thơ thứ ba là một câu cảm thán của tác giả “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”. Câu thơ như một tiếng reo hân hoan và niềm tự hào về biểu tượng của dân tộc và con người Việt Nam: tre Việt Nam trồng quanh lăng Bác. Tre Việt Nam là hình ảnh ẩn dụ của con người Việt Nam qua bao thế hệ với phẩm chất “Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”. Bão táp mưa sa chính là ẩn dụ của những năm tháng khó khăn, vất vả lam lũ của người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy, con người Việt Nam vẫn chính là những cây tre quật cường, anh dũng, nhân hậu với những phẩm chất tốt đẹp và tre xanh Việt Nam cũng giống như vậy. Tóm lại, khổ thơ đầu bài Viếng lăng Bác là những dòng thơ hết sức xúc động về hoàn cảnh đi viếng lăng của nhà thơ.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận khổ thơ đầu bài Viếng lăng Bác (Dàn ý + 5 mẫu) Viếng lăng Bác của Viễn Phương của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.