TOP 7 bài Bức tranh xuân trong Cảnh ngày xuân và Mùa xuân nho nhỏ hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 dễ dàng khám phá bức tranh mùa xuân trong cả 2 tác phẩm, để viết bài văn thật hay.
Cùng viết về đề tài mùa xuân, nhà thơ Nguyễn Du và Thanh Hải đều có những nét chấm phá đặc sắc để dựng lên bức tranh mùa xuân sinh động với cả màu sắc, âm thanh và những chuyển động tinh tế chưa từng có, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng mọi người. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Wikihoc.com để học tốt môn Văn 9:
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của bức tranh mùa xuân trong hai đoạn thơ sau:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
(Thanh Hải, Mùa xuân nho nhỏ)
Dàn ý bức tranh xuân trong Cảnh ngày xuân và Mùa xuân nho nhỏ
Dàn ý 1
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về bức tranh xuân trong “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của bức tranh xuân trong “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du
- Hình ảnh “chim én đưa thoi” tạo nên sự sinh động, mang ý niệm ẩn dụ về dòng thời gian đang trôi chảy.
- Gam màu nổi bật của bức tranh xuân là sắc xanh của “cỏ non” đến “tận chân trời”, gợi không gian bao la, khoáng đạt và tràn trề sức sống.
- Cành hoa lê xuất hiện điểm xuyết với sắc trắng tinh khôi: “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
b. Vẻ đẹp của bức tranh xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
- Hình ảnh thơ gần gũi, quen thuộc: “dòng sông”, “bông hoa”, chim chiền chiện”, “giọt long lanh rơi”.
- Sức sống của cỏ cây được nhấn mạnh qua biện pháp đảo ngữ: “Mọc giữa dòng sông xanh”.
- Tiếng chim chiền chiện tạo nên thanh âm trong trẻo, cao vút và ngân vang.
c. Đánh giá về bức tranh xuân trong “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
– Điểm chung:
- Đều là những bức tranh xuân với vẻ đẹp riêng biệt và tràn đầy sức sống.
- Thể hiện tài năng nghệ thuật của các tác giả.
- Thể hiện rõ tình yêu thiên nhiên của thi nhân.
– Điểm khác biệt:
- Mùa xuân trong “Cảnh ngày xuân” gắn liền với ngày lễ thanh minh qua những thi liệu và bút pháp của thơ ca trung đại.
- Bức tranh mùa xuân của Thanh Hải lại được khám phá ở những hình ảnh chân thực gần gũi với vẻ đẹp của xứ Huế gắn với công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
3. Kết bài
Đánh giá khái quát về vẻ đẹp của bức tranh mùa xuân trong hai tác phẩm.
Dàn ý 2
I. Mở bài
– Từ đề tài mùa xuân trong thơ ca, dẫn dắt, giới thiệu hai bức tranh mùa xuân của Nguyễn Du và Thanh Hải trong hai văn bản thơ
– Trích dẫn hai đoạn thơ xuân của Nguyễn Du và Thanh Hả
II. Thân bài
1. Phân tích vẻ đẹp chung của cả hai đoạn thơ
– Hai đoạn thơ đều vẽ nên những bức họa mùa xuân với những đường nét phóng khoáng, màu sắc tươi sáng, hài hòa, có không gian, chiều cao, có độ rộng, có xa, gần, tĩnh, động, có hình ảnh thơ quen thuộc
– Cảnh sắc mùa xuân trong hai đoạn thơ được thể hiện qua vài nét chấm phá và ngôn ngữ giàu chất tạo hình.
– Cả hai bức tranh mùa xuân đều tràn ngập sức sống mùa xuân thể hiện tình yêu thiên nhiên, cuộc sống của các nhà thơ
2. Vẻ đẹp độc đáo của mỗi đoạn
* Đoạn thơ cảnh ngày xuân
– Bức tranh thiên nhiên hiện lên qua nét vẽ vô cùng tinh tế kết hợp hình ảnh ước lệ, ngôn ngữ tài hoa, uyên bác, bút pháp tả và gợi, nghệ thuật phối sắc tài tình
+ Bức tranh mùa xuân tháng ba, không gian khoáng đạt, trong sáng với những cánh chim én rộn ràng bay liệng
+ Nhà thơ bày tỏ sự nuối tiếc khi thời gian mùa xuân qua nhanh chóng, ngày xuân như “con én đưa thoi”
– Hai câu thơ kết tinh vẻ đẹp của mùa xuân: “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
+ Hai câu thơ diễn tả bức tranh tuyệt mỹ là chân dung của mùa xuân chỉ giản đơn là hoa trắng, cỏ xanh nhưng gợi lên được bức tranh có hồn, khoáng đạt
+ Thảm cỏ non xanh chính là gam nền cho bức tranh mùa xuân trở nên đầy sức sống, điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng
+ Bức tranh mùa xuân của Nguyễn Du được dệt bằng những hình ảnh ước lệ và thi liệu vẫn tươi mới, và mang vẻ đẹp riêng nhờ kế thừa, vận dụng sáng tạo câu thơ cổ Trung Quốc “Phương thảo liên thiên bích- Lê chi sổ điểm hoa”
+ Bức tranh mùa xuân trong đoạn thơ mang đậm chất cổ thi, không gian không xác định rõ ràng được nhà thơ thể hiện khéo léo bằng thể thơ lục bát tạo âm hưởng mượt mà
– Bút pháp chấm phá, hình ảnh giàu sức gợi, ngôn từ hàm súc…
+ Sự kết hợp hài hòa giữa không gian rộng lớn ngút ngàn màu xanh cỏ cây, với hình ảnh thu nhỏ trên một cành hoa xuân nhưng không cụ thể sắc xuân ở vùng miền nào.
→ Ngòi bút của Nguyễn Du quả là tuyệt bút, ngòi bút của ông tài hoa, giàu chất tạo hình của ngôn ngữ biểu cảm khi kết hợp tả và gợi. Qua đó, ta thấy tâm hồn con người vui tươi phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, hồn nhiên, nhạy cảm với vẻ đẹp của tự nhiên
* Phân tích vẻ đẹp mùa xuân trong bài Mùa xuân nho nhỏ
+ Bức tranh xứ Huế hiện ra qua ngôn từ đằm thắm, ngọt ngào bằng những chi tiết hình ảnh thơ giản dị cùng nhạc điệu trong sáng, tha thiết đậm nét đặc trưng xứ Huế: hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện hót vang trời…
+ Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong thơ Thanh Hải mang tính cụ thể, xác thực về không gian, ngôn ngữ thơ hiện đại, đặc biệt âm thanh tươi vui, rộn rã chẳng tĩnh lặng thể hiện niềm yêu đời, khao khát sống bất tận của nhà thơ
+ Cảm xúc của nhà thơ trước thiên nhiên, sự sống được thể hiện rõ nét qua câu thơ “ Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng” → Biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: âm thanh từ chỗ cảm nhận bằng thính giác này chuyển sang cảm nhận bằng thị giác thể hiện cảm xúc say sưa ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế khi vào xuân
+ Thanh Hải sử dụng thể thơ ngũ ngôn gần với giọng điệu dân ca miền Trung tạo ra âm hưởng nhẹ nhàng và tha thiết, thấm vào lòng người
+ Giọng điệu bài thơ phù hợp với tâm trạng, cảm xúc của tác giả: hứng khởi, say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp đất trời xứ Huế vào xuân
→ Cả hai bức tranh xuân đều có những vẻ đẹp chung nhưng cũng ẩn chứa những vẻ đẹp chung cũng như những nét riêng biệt độc đáo bởi mỗi nhà thơ có những cảm nhận khác nhau
+ Hơn nữa, mỗi nhà thơ lại sống trong những giai đoạn lịch sử khác nhau, có những hoàn cảnh riêng khác nhau
+ Qua bức tranh thiên nhiên mỗi tác giả phác họa, ta thấy được tình yêu tha thiết của các nhà thơ với thiên nhiên, cảm hứng thiên nhiên là cảm hứng bất tận.
III. Kết bài
– Khái quát về vẻ đẹp của hai bức tranh mùa xuân
– Khẳng định giá trị của đoạn thơ nói riêng, của hai tác phẩm nói chung trong việc bồi đắp tư tưởng, tình cảm cho con người.
Bức tranh xuân trong Cảnh ngày xuân và Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1
Vũ trụ xoay quầng bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa đều mang một ý nghĩa khác nhau: mùa đông mang lại sự hiu quạnh, lạnh giá; mùa thu mang về một vẻ bình yên, nhẹ nhàng; mùa hạ mang lại sự chói chang, nhộn nhịp. Còn mùa xuân, được ví như một sự đổi mới mỗi khi về, một đề tài thơ ca luôn được các nhà văn, thi sĩ dùng đến để gợi tả cảm xúc chân thực nhất. Thanh Hải trong bài thơ Mùa Xuân Nho nhỏ và Nguyễn Du với đoạn trích Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều) đã có những cảm nhận đặc sắc về vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên mùa xuân.
Mùa xuân luôn được xem là mùa đẹp nhất trong năm. Bởi vì sao? Mùa xuân đại diện cho niềm tin, sự hy vọng, sự đổi mới. Bức tranh phong cảnh ngày xuân luôn gợi được cho mọi người sự bình yên, nhẹ nhàng pha lẫn một chút nhộn nhịp để đánh dấu bắt đầu lại một mốc thời gian đã trôi qua.
Đối với bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, có thể thấy Thanh Hải mang lại cho đọc giả một mùa xuân dịu dàng và bình lặng. Một bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh đại diện cho khao khát, niềm hy vọng, một sự sống mãnh liệt, hài hoà với tiếng chim chiền chiện réo rắt khắp trời, tô điểm nên một bức tranh mùa xuân tuy giản đơn nhưng đậm nét đặc trưng của mùa xuân. Sương xuân cũng đã rơi giọt trên những chiếc lá xanh tươi, thiên nhiên đang thay mình đổi sắc hương xuân báo hiệu xuân đang tới. Không khí êm dịu hơn, tan đi những lạnh lẽo của mùa đông lạnh giá, mang về sức sống xanh tươi cho tự nhiên.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Nhan sắc của mùa xuân luôn mặn mà, kể cả khi còn trẻ lẫn về già, mùa xuân luôn khoác trên mình một vẻ đẹp thiên nhiên tươi xanh, dịu dàng. Cũng giống mùa xuân trong Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du; trích một phần từ Truyện Kiều; tuy là mùa xuân đã qua hơn 2 tháng nhưng sự mơn mởn của mùa xuân vẫn đâm chồi khắp nơi. Những con én chao lượn trên bầu trời báo hiệu mùa xuân đã đến và sẽ qua, cây cỏ hoa lá xanh tươi khắp nơi, xanh mướt tận chân trời, những b Một bức tranh tuyệt đẹp về mùa xuân được khắc hoạ chỉ trong bốn câu thơ:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Qua đoạn trích của hai bài thơ trên, tác giả đã tôn vinh lên vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân, cho thấy sức sống tràn trề của mùa xuân. Bức tranh mùa xuân đã được phác họa bằng những màu sắc khác nhau, nhưng vẫn gợi chung về vẻ tươi đẹp, xanh tươi, mang lại không khí đầm ấm, yên vui cho mọi người.
Bức tranh xuân trong Cảnh ngày xuân và Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2
Vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời luôn là đề tài quen thuộc khơi gợi những xúc cảm trong tâm hồn người thi sĩ. Trong bức tranh phong phú, đa dạng đó, mùa xuân là mảnh đất được khai phá với vẻ đẹp tươi mới, khoáng đạt và tràn đầy sức sống. Điều này đã được thể hiện rõ qua bức tranh xuân “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
“Cảnh ngày xuân” là trích đoạn thuộc phần thứ nhất: “Gia biến và lưu lạc” của kiệt tác “Truyện Kiều”. Ở đoạn trích này, đại thi hào Nguyễn Du đã tái hiện một bức tranh xuân với vẻ đẹp khoáng đạt, tinh khôi:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Bằng thể thơ lục bát dân tộc cùng ngôn ngữ giàu hình ảnh, tác giả đã phác họa bức tranh mùa xuân đất trời vào giữa tháng ba với sự xuất hiện của những cánh én chao liệng trên bầu trời cao rộng. Hình ảnh “chim én đưa thoi” – tín hiệu quen thuộc báo hiệu mùa xuân về không chỉ tạo nên sự sinh động trong khoảng không bao la mà còn mang ý niệm ẩn dụ về dòng thời gian đang không ngừng trôi chảy: “Thời gian thấm thoắt thoi đưa”, đồng thời ẩn chứa tâm trạng nuối tiếc của con người trước bước đi không ngừng nghỉ của thời gian. Bầu trời xuân được miêu tả với vẻ đẹp của những tia nắng xuân ấm áp của ánh “thiều quang”. Tuy nhiên, gam màu nổi bật của bức tranh xuân là sắc xanh của “cỏ non” đến “tận chân trời”, gợi nên một không gian bao la, khoáng đạt và tràn trề sức sống. Thảm cỏ với màu xanh mơn mởn, tươi non đã làm nổi bật sức xuân và sắc xuân đang tràn trề thấm vào cảnh vật. Trên gam màu chủ đạo đó, cành hoa lê xuất hiện điểm xuyết với sắc trắng tinh khôi: “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Tác giả đã vận dụng thành công bút pháp chấm phá – một thi pháp quen thuộc trong thơ ca trung đại để làm nổi bật vẻ đẹp hài hòa, trong trẻo của “Cảnh ngày xuân”. Như vậy, bằng tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ kết hợp những thi ảnh ước lệ tượng trưng, tác giả Nguyễn Du đã phác họa một bức tranh mùa xuân gắn liền với không khí lễ hội ngày Thanh minh sinh động và tràn trề sức sống, mang đậm tính hội họa qua sự hài hòa, tinh tế giữa đường nét, hình khối, màu sắc.
Nếu như đại thi hào Nguyễn Du mở đầu bức tranh xuân bằng hình ảnh những cánh én thì nhà thơ Thanh Hải lại miêu tả mùa xuân bắt nguồn từ sắc tím của một bông hoa:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Bức tranh mùa xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải gắn liền với đặc trưng của xứ Huế mộng mơ với những hình ảnh gần gũi, quen thuộc: “dòng sông”, “bông hoa”, chim chiền chiện”, “giọt long lanh rơi”. Tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ thông qua việc đặt động từ “mọc” đứng ở đầu câu, gợi lên hình ảnh một nhành hoa đang vươn mình khoe sắc tím giữa dòng nước biếc, ẩn dụ cho sức sống mạnh mẽ – một đặc trưng nổi bật của mùa xuân. Bức tranh xuân còn được tô điểm bởi thanh âm trong trẻo, cao vút và ngân vang của chú chim chiền chiện. Giữa dòng sông xanh và không gian cao rộng của bầu trời xuân, hình ảnh “từng giọt long lanh rơi” xuất hiện, gợi nên những cách cảm nhận độc đáo. Đó có thể là những giọt sương xuân, những giọt mưa xuân chưa tan biến mà vẫn còn đọng lại trên cành cây kẽ lá, nô đùa tinh nghịch với những tia nắng ban mai và trở nên “long lanh”, lấp lánh trong đôi mắt người thi nhân. Đó có thể là tiếng chim chiền chiện – thanh âm trong trẻo ngân xa trên bầu trời xuân trong xanh vời vợi nhưng không hề tan biến mà đọng lại, kết tinh thành “từng giọt long lanh”rơi xuống giữa không trung. Mỹ cảm mới lạ trong cách cảm nhận của tác giả đã được thể hiện qua biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, không chỉ sử dụng thính giác để lắng nghe tiếng chim mà còn có thể “hứng” lấy từng giọt “long lanh”. Như vậy, thông qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, chúng ta có thể thấy được bức tranh mùa xuân xứ Huế mộng mơ qua những hình ảnh chân thực, sinh động và những cảm nhận tinh tế trong tâm hồn người thi nhân.
Như vậy, thông qua hai bài thơ “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, chúng ta có thể thấy được cả hai tác giả đã phác họa những bức tranh xuân tràn trề sức sống, mang đậm chất hội họa với những gam màu, đường nét riêng, thể hiện tài năng của mỗi một nhà thơ trong việc chọn lọc hình ảnh, ngôn ngữ và sử dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật. Qua đó thấy được tình yêu và tâm hồn giao cảm mãnh liệt đối với vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời của người thi sĩ.
Tuy nhiên, ở mỗi một tác phẩm, bức tranh mùa xuân lại được phác họa với những vẻ đẹp rất riêng. Trong “Cảnh ngày xuân”, đại thi hào Nguyễn Du miêu tả mùa xuân gắn liền với ngày lễ thanh minh để làm nổi bật vẻ đẹp của những ngày lễ hội dân gian thông qua những thi liệu và bút pháp của thơ ca trung đại; còn bức tranh mùa xuân của Thanh Hải lại được khám phá ở những hình ảnh chân thực gần gũi, và quen thuộc với vẻ đẹp của xứ Huế mộng mơ gắn với công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
Như vậy, bằng tài năng của mình, mỗi một nhà thơ đã phác họa bức tranh xuân tràn đầy sức sống với những đặc trưng và vẻ đẹp riêng biệt, trở thành phông nền để từ đó bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Bức tranh xuân trong Cảnh ngày xuân và Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 3
Mùa xuân là mùa cây cối đua nhau đâm chồi nảy lộc, căng tràn sức sống. Cũng chính bởi thế nó đã lay động tâm hồn của rất nhiều thi sĩ, khiến họ phải viết nên những dòng thơ để lưu lại không khí tươi mới đó của mùa xuân. Cùng chung nguồn cảm hứng thơ xuân này, Nguyễn Du và Thanh Hải tuy là hai tác giả ở hai giai đoạn văn học khác nhau nhưng họ đã tái hiện lên những bức tranh xuân rất đẹp trong “Cảnh ngày xuân” và “Mùa xuân nho nhỏ”.
Trước hết, đối với “Cảnh ngày xuân” mùa xuân được miêu tả là những dư âm còn sót lại trong ký ức của tác giả nhưng nó vẫn hiện lên thật đẹp, thật tươi mới:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Mở đầu của bức tranh là thông báo của tác giả về thời gian xuân đã đến bằng hình ảnh: “con én đưa thoi”. Đây là một hình ảnh thơ rất quen thuộc trong thơ cổ điển. Mượn hình ảnh những chú chim én chao liệng trên bầu trời xuân, Nguyễn Du đã khéo léo mở ra một bức tranh xuân, đồng thời cũng thông báo cho người đọc biết về những biến chuyển của thời gian. “Con én đưa thoi” ngoài việc là một bức tranh nó còn có thể hiểu là những bước đi của thời gian. Thời gian cứ thế cứ thế trôi qua rất nhanh chẳng khác gì thoi đưa, điều này vô cùng hợp lý với câu thơ tiếp theo: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Câu thơ là sự nuối tiếc của con người trước dòng chảy vô tình của thời gian. Thời gian cứ thế trôi và con người thì bị bỏ lại sau đó. Mùa xuân đến mang theo sức sống, sự hồi sinh nhưng cũng đồng nghĩa với sự già đi của những kiếp người. Con người đang nuối tiếc vì những gì đã qua.
Sau những nét vẽ đầu tiên, ở hai câu thơ sau nhà thơ đã bắt đầu miêu tả vào cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Thơ thường gợi nhiều hơn tả quả không sai. Chỉ với hai câu thơ cũng đủ để làm hiện lên một bức tranh mùa xuân tràn đầy sức sống. Màu xanh vốn là màu của sự sống, màu của sự sinh sôi nảy nở mà màu xanh ở đây được Nguyễn Du miêu tả trải ra ngút ngàn, màu xanh của cây cỏ nối tiếp màu xanh của trời đất. Bằng nét vẽ trực tiếp, Nguyễn Du đã đem đến cho người đọc những cảm giác rất thực về bức tranh tươi mát, căng tràn sức sống của cỏ cây. Cái hay của Nguyễn Du là trên cái bức phông nền xanh ngát ấy lại được tô điểm bởi những bông hoa lê trắng tinh khôi. Dù chỉ là “một vài bông hoa” nhưng sắc trắng của hoa lê cũng đủ để làm nổi bật cả bức tranh mùa xuân. Cánh én chao liệng, sắc xanh của cỏ cây, màu trắng của hương hoa đã cùng nhau góp nên một bức tranh xuân rực rỡ cho “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du.
Nếu “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du là bức tranh mùa xuân gắn liền với tiết thanh minh cùng những đặc trưng của thơ ca cổ điển thì “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải lại là một bức tranh xuân xứ Huế dịu dàng, than quen.
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Mở đầu bức tranh cũng là sắc xanh nhưng lại không phải sắc xanh của cỏ non mà là của song nước. Trên cái nền trời xanh ấy, Thanh Hải đã khéo léo tô điểm một bông hoa tím mang sắc màu đặc trưng của xứ Huế. Sự xuất hiện của bông hoa tuy chỉ một mình nhưng không hề cô đơn, lẻ bóng như: “Củi một cành trôi lạc mấy dòng” mà lại căng tràn sức sống. Nó thể hiện một sự sống, một niềm khao khát sống mãnh liệt được nhà thơ gửi gắm trong từng con chữ. Trên cái nền trời xanh ấy, là âm thanh vui tươi của tiếng chim “chiền chiện”. Câu cảm thán “ơi” đi cùng với câu hỏi “hót chi” đã gợi ra chất giọng tâm tình, nhẹ nhàng đậm chất Huế. Bởi cảnh sắc và âm thanh tươi vui đó mà mùa xuân được tác giả miêu tả bằng tất cả sự trân trọng và nâng niu. Từ “giọt” ở đây rốt cuộc là giọt mưa? Giọt sương? Hay giọt nắng? Hay là âm thanh tiếng chim đã được ngưng tụ thành “từng giọt” để giờ đây nhà thơ có thể đỡ lấy nó, trân quý nó? Dù là hiểu theo cách nào ta cũng có thể thấy được sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ cũng như tình cảm mà ông dành cho mùa xuân. Chính hành động “đưa tay”… “hứng” đã thể hiện rất rõ điều này.
Như vậy, cả hai đoạn thơ đều là những bức tranh mùa xuân căng tràn sức sống. Nó vừa thể hiện được không gian tươi đẹp của mùa xuân vừa khéo léo thể hiện cái tài của tác giả. Tuy nhiên nếu “Cảnh ngày xuân” là không gian xuân gắn liền với tiết thanh minh cùng cách miêu tả chấm phá, sử dụng hình ảnh ước lệ, tượng trưng mang nét đặc trưng của thơ ca cổ điển thì “Mùa xuân nho nhỏ” lại là không gian xuân với nhiều hình ảnh, màu sắc, đường nét quen thuộc nơi xứ Huế.
Giai đoạn lịch sử cũng như hoàn cảnh riêng khác nhau đã làm nên những nét riêng cho hai thi phẩm nhưng tựu chung lại chúng đều thể hiện tình yêu tha thiết của các nhà thơ với thiên nhiên, với quê hương, đất nước.
Bức tranh xuân trong Cảnh ngày xuân và Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 4
Vẻ đẹp của mùa xuân luôn có sức hấp dẫn thật lạ thường, chỉ nói đến ” xuân” thôi cũng khiến lòng người không khỏi rộn ràng, háo hức. Mùa xuân cũng vì thế mà khiến bao thi nhân không thể dửng dưng, buông ngòi bút mà viết nên bảo vần thơ đẹp để mà ngợi ca, để mà tỏ bày. Nguyễn Du và Thanh Hải, hai con người của hai thế hệ, tuy sống trong những thời kỳ khác nhau nhưng họ đều dành tình yêu mãnh liệt cho mùa xuân, họ viết về xuân bằng những tình cảm đầy trìu mến và thiết tha nhất:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Và
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Trong Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du và Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, mùa xuân đều thực rất thi vị. Xuân về mang đến một sức sống tươi mới cho vạn vật thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá đều đua nhau xanh tươi và đằm thắm. Chim hót chan hòa trong ánh nắng tươi đẹp của trời xuân. Hai bức tranh xuân ở hai thời đại, hai không gian xuân cách nhau hàng trăm năm vậy mà mùa xuân vẫn cứ như thế, thiên nhiên xuân vẫn đầy sức hút, vẫn đều mang dáng dấp của mùa xuân đất Việt, đầy gợi cảm, đầy khoáng đạt, nhẹ nhàng, như những bức hoạ được dệt nên bởi thanh âm, bởi sắc màu, bởi sự hài hòa của vạn vật giữa trời xuân. Hai bức tranh xuân đều có cánh chim bay lượn, đều có hoa thơm, có ánh sáng trong ngần của xuân. Cả hai bức tranh xuân đều được cảm nhận qua tâm hồn của những người thì sĩ giàu tình cảm, yêu thiên nhiên, có sự rung động thẩm mỹ đầy tinh tế trước thiên nhiên.
Dường như, ẩn sâu trong những bức tranh xuân ấy là nụ cười đầy an nhiên và tự hào của người thi sĩ trước cảnh sắc đẹp đẽ của mùa xuân, một tâm hồn đang đầy tươi vui và phấn chấn của thi nhân.
Bên cạnh những nét đẹp tươi mới, chúng ta còn thấy ở hai bức tranh xuân trong hai tác phẩm đều có những vẻ đẹp riêng. Trong mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, tác giả đã khắc hoạ xuân thật nhẹ nhàng, bình dị đầy tự nhiên và chân thành.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Lời thơ năm chữ ngắn gọn, không hoa mỹ, phô trương, chỉ gói gọn trong ngần ấy hình ảnh: Bông hoa, tiếng chim hót, dòng sông mà sao động lòng đến thế. Giữa dòng Hương thơ mộng mọc lên một bông hoa tím biếc, bông hoa ấy nổi bật giữa sắc nước trong xanh, bông hoa lục bình một mình vẫn toả sắc, vẫn xinh tươi và căng tràn nhựa sống. Bông hoa ấy phải chăng chính là bông hoa cuộc đời, góp phần đẹp đẽ của đời mình vào dựng xây đất nước, lặng lẽ điểm tô cho đời. Chim chiền chiện ca hát đón chào niềm vui của trời xuân, hình ảnh chú chiền chiện nhỏ bé cất tiếng hót “vang trời” sao nghe xao xuyến lạ thường, chim kia cũng đã góp tiếng hót của mình làm đẹp cho mùa xuân, làm đẹp cho đời đấy thôi.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Thanh Hải đã thưởng thức xuân bằng tất cả các giác quan của mình. Tiếng chim hót mang những giọt âm thanh lắng đọng hay đó còn là giọt xuân, giọt sương sớm mai đầy long lanh huyền ảo. Những tình cảm nâng niu, trân quý nhất cho chính bao vẻ đẹp diệu kỳ của mùa xuân được Thanh Hải viết nên thật đẹp biết bao.
Bức tranh xuân của Nguyễn Du được khắc hoạ cũng thật ấn tượng và đặc sắc. Với thể thơ lục bát mang hồn cốt dân tộc, cách viết chấm phá, điểm xuyết đầy tài tình, tác giả đã đưa ta đến một không gian xuân bình yên và đầy khoáng đạt.
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Cánh én thong dong chao liệng trong cảnh xuân đầy yên bình, én báo hiệu cho ngày xuân đến, én mang cả mùa xuân về. Ánh sáng trong ngần, nhè nhẹ của những ngày tháng ba mùa xuân thật ấm áp yêu thương. Cánh đồng cỏ non mềm mại, xanh ngát trải rộng tới khoảng chân trời thật đẹp, thật thơ, không gian xuân vừa cao, vừa rộng, vừa mềm mại, uyển chuyển lại vừa mang sức sống mãnh liệt. Sức xuân, sắc xuân thấm đượm vào từng cánh chim, từng ánh sáng, từng cảnh vật. Một vài bông hoa lê điểm xuyết trên nền xanh cây lá, sắc trắng tạo nên nét trong trẻo, nổi bật mà cũng rất hài hoà, xinh đẹp, kiều diễm. Trước mắt người thưởng thức, bức tranh xuân hiện lên thật nhẹ nhàng, sinh động, một bức tranh xuân trong những ngày tiết tháng ba của lễ tảo mộ hàng năm trong truyền thống dân tộc Việt đầy ý nghĩa.
Trong sự phát triển của thơ ca, văn học dân tộc, thơ viết về mùa xuân rất nhiều, mỗi áng thơ đều có những chất riêng qua cách cảm của từng tác giả. Giữa vô vàn những tác phẩm về xuân ấy, thơ xuân của Nguyễn Du và Thanh Hải vẫn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong văn học của dân tộc và trong trái tim mỗi người đọc qua bao thế hệ.
Bức tranh xuân trong Cảnh ngày xuân và Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 5
Mùa xuân vốn là một đề tài lớn trong thi ca từ xưa đến nay. Có thể nói, trong sự nghiệp của mình, nhà thơ nào cũng có ít nhất một lần viết về mùa xuân. Mùa xuân là mùa của cây xanh trái ngọt, cỏ tươi hoa thắm, bầu trời lồng lộng sáng trong. Mùa xuân là mùa của tình yêu nồng thắm, mùa của lễ hội tưng bừng, rộn rã. Tuy viết ít trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, nhà thơ Thanh Hải cũng đã kịp để lại một bài thơ xuân nồng ấm yêu thương, đóng góp một sắc màu nhỏ nhỏ trong bức tranh mùa xuân rộng lớn của nền thi ca dân tộc.
Mở đầu bài thơ, hiện lên một bức tranh mùa xuân đầy sắc màu và âm thanh hòa quyện trong đất trời đang rừng rực sức sống. Hình ảnh thơ chuyển đổi lần lượt theo cái nhìn của nhà thơ. Không gian thay đổi từ thấp lên cao, từ gần ra xa, xa dần đến mờ khuất. Hình ảnh thơ Thanh Hải không có gì mới lạ, không rực rỡ nhưng đã thu hút được cái nhìn của người đọc. Sự bình dị khiến người ta chú ý. Đầu tiên là hình ảnh bông hoa tím biếc giữa dòng sông xanh:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”.
Không quá đột ngột nhưng sắc tím hoa lục bình lập tức tạo cho bức tranh một cái nền hòa dịu, đượm chút u buồn. Từ “mọc” làm cho ý thơ mạnh mẽ nhưng không làm sao tránh được sự đơn độc của “một bông hoa tím biếc”. Câu thơ làm ta chợt nhớ đến bài hát “Hoa Tím Lục Bình” của Bích Tuyền:
“Ϲó một loài hoa buồn trôi lững lờ
Theo nước hững hờ xuôi mãi về đâu
Vẫn trôi trôi chẳng hết sầu
Nên loài hoa ấу đượm màu tím thương.
Ϲó một loài hoa vừa trôi vừa nở
Em lấу chồng rồi anh ở vậу thôi
Nữa mai thương đứng nhớ ngồi
Biết loài hoa ấу vừa trôi vừa buồn”.
Hoa lục bình nở quanh năm, đâu chỉ riêng gì mùa xuân. Nhưng trong bức tranh xuân ấy, nó góp một sắc màu thầm lặng, nhỏ bé. Hoa lục bình tím nhạt theo kiểu sắp tàn phai, không kiêu kì, không rực rỡ. Giữa bức tranh mùa xuân xanh bất tận, nó lại càng lẻ loi vô cùng.
Từ “một bông hoa” đã nói lên tất cả. Dường như nó đang cố sức bung nở tận cùng, cố dâng hiến hết cho đời nguồn sinh lực cuối cùng trước khi đi vào tàn héo. Sự lẻ loi, hiu hắt, đượm buồn chứ không phải là điểm nhấn đầy nghệ thuật như cành lê trắng trong thơ Nguyễn Du:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
Phải chăng, qua bông hoa lục bình tím biếc ấy, Thanh Hải muốn nói đến đời người, kiếp người trong cõi phù sinh mênh mang. Dòng sông xanh ấy hay chính là dòng đời chuyên chở bao cuộc đời người. Bông hoa hay chính là kiếp người nhỏ bé, nổi trôi. Hoa chỉ nở có một lần rồi đi vào luân hồi chuyển biến. Hai từ “tím biếc” khiến người đọc có cảm giác nao nao. Tím biếc là tím rực rỡ, tím tận cùng. Cái đẹp đang ở thời kì huy hoàng, rực rỡ nhất. Nghĩa là nó sắp tàn phai, tạo nên cảm giác tiếc nuối vô cùng.
Có thể nói, đó chính là tâm trạng chân thật của Thanh Hải khi ông đang nằm trên giường bệnh. Khi sắp lìa xa cuộc đời mà những trăn trở vẫn còn khiến nhà thơ ham sống tận cùng. Ông còn muốn tiếp tục được cống hiến, được tươi xanh, được tô điểm cho cuộc đời đẹp đẽ này dù rất thầm lặng. Chính khát vọng ấy đã làm cho câu thơ trở nên ấn tượng. Lời thơ giản dị, không có gì cầu kì, thủ pháp đảo ngữ tinh tế khiến cho hình ảnh thơ nổi bật trên nền cảnh rộng lớn.
Từ dưới mặt đất, dường như để thoát ra khỏi sự ám thị ấy, nhà thơ ngước nhìn lên bầu trời cao và không khỏi ngỡ ngàng:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”.
Tiếng chim chiền chiện vút tận trời xanh, khuấy động không gian trầm lắng. Tiếng chim lảnh lót, thanh cao thả vào không gian thứ âm thanh mê hoặc đầy quyến rũ.
Nếu ở đồng quê, mấy ai không biết đến loài chim này. Đó là “ca nữ” của bầu trời cao. Với thân hình nhỏ bé nhưng tiếng hót lại rất thanh. Chim chiền chiện thường bay vút lên bầu trời cao. Cánh chim bay lên cao mãi cho đến khi hình bóng nó chỉ còn bé xíu và cất cao tiếng hót. Tiếng hót vang dội khắp đất trời, khiến cho muôn loài im tiếng, cỏ cây tĩnh lặng lắng nghe khúc nhạc xuân đầy khí thế.
Nó hót bằng tất cả sinh lực mình. Có khi như gào thét giận dữ. Có khi như líu ríu tâm tình. Có khi lại gắt gỏng, chua ngoa. Tiếng chim vang vọng hòa thắm bức tranh xuân. Âm thanh réo rắt kết nối vạn vật lại với nhau trong khúc ca cuồng say bất tận.
Nghe tiếng chim hót nhà thơ tự hỏi “hót chi mà vang trời”. Thi sĩ vừa khâm phục vừa cảm thương cho chàng ca sĩ ấy. Làm sao để lí giải niềm say mê ấy. Kể cả anh chàng nghệ sĩ đồng quê kia cũng không thể cho một câu trả lời vừa ý.
Qua hình ảnh con chim chiền chiện, Thanh Hải nhẹ nhàng gửi đến người đọc một thông điệp rằng đã dâng hiến thì không cần biết tại sao và vì sao. Chỉ đơn giản là hãy sống và cống hiến cho cuộc đời những tinh anh của mình. Sống là tận lực dâng hiến. Dù là rất nhỏ bé, dù là rất bình thường nhưng không bao giờ là vô nghĩa.
Mỗi cá nhân đều biết sống vì cuộc đời, tận lực vì cuộc đời thì cuộc sống sẽ thêm tươi xanh, tràn đầy ý nghĩa. Mỗi một mùa xuân nhỏ hòa quyện lại với nhau sẽ làm nên mùa xuân lớn của đất trời. Như bông hoa lục bình kia, lẻ loi mà tươi thắm. Như con chim chiền chiện kia, cô độc mà nồng nhiệt đến tận cùng. Bất giác, nhà thơ như rơi vào thế giới của nhiệm màu. Cả thế giới hòa đọng trong tiếng chim, buông lơi khắp bầu trời:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Từ “hứng” được dùng thật đắc địa. Tiếng chim chiền chiện giờ đây như hiện hình thành từng giọt âm thanh rơi khiến ta có thể bắt lấy, có thể hứng lấy được. Tiếng chim chiền chiện như kết tụ sắc xuân, khí xuân, tình xuân thành giọt ngọt dâng lên cho trời đất đang trong kì chuyển hóa siêu năng.
Chỉ một từ “hứng” thôi, nhà thơ đã “bắt” mùa xuân trên tay, nắm giữ lại cái dòng chảy của tạo hóa. Câu thơ khẳng định tư thế chủ động làm chủ cuộc đời của con người. Ông muốn ôm vào lòng tất cả cái say mê, cái quấn quýt, cuồng nhiệt của cuộc đời đang trải rộng ra trước mắt, muốn làm chủ quy luật của đất trời, giữ mãi cái tươi xanh của mùa xuân cho cuộc đời này.
Không dụng công, không ẩn ý, cứ tự nhiên, Thanh Hải đã lặng lẽ tô thắm cho mùa xuân, ký thác vào đó tâm tư. Ông luôn muốn mình là “một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời” những tinh anh, mật ngọt, góp sức làm nên mùa xuân lớn của đất trời, của đất nước. Đó là một khát vọng cao đẹp, sáng ngời lí tưởng cách mạng, thật đáng trân trọng biết bao.
Bức tranh xuân trong Cảnh ngày xuân và Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 6
Mùa xuân vốn là đề tài vô tận của thi nhân xưa và nay. Nếu như họa sĩ dùng đường nét và màu sắc, nhạc sĩ dùng giai điệu và âm thanh thì thi sĩ lại dùng hình ảnh và ngôn từ để diễn tả cảm xúc của mình – đặc biệt là diễn tả tình yêu thiên nhiên, yêu cái men say nồng của sắc hương xuân. Hãy lật tìm trang sách đến với bốn câu thơ đầu trong đoạn trích Cảnh ngày xuân trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du hãy hòa nhịp tâm hồn vào đất trời xứ Huế với bốn câu thơ đầu trong Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, bạn sẽ thấy non sông gấm vóc, quê hương Việt Nam đẹp biết bao!
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
và:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Nguyễn Du và Thanh Hải họ tuy không cùng một thế hệ thơ, hoàn cảnh sống khác nhau nhưng trong tâm hồn của những người nghệ sĩ ấy luôn tràn đầy một tình yêu thiên nhiên đến lạ kỳ! Ngòi bút của các thi sĩ đã thăng hoa, đã đồng điệu với vạn vật tự nhiên, thổi vào đó một tình yêu, ý xuân ngọt ngào say đắm. Sao không yêu chứ, sao không ngây ngất chứ! Vẻ đẹp của xuân hương, xuân của lòng người rộn ràng lắm, náo nức lắm.
Mùa xuân ấy là màu xanh bát ngát của sự sống, của chồi non lộc biếc đang cựa quậy trong từng vần thơ. Hai nguồn cảm hứng ở hai thời đại cũng như những sợi tơ lòng dệt nên những bức danh họa tuyệt đẹp của mùa xuân có hình khối màu sắc, có xa, có gần, có tĩnh, có động, có âm thanh rộn rã, có tình người đắm say. Chỉ một vài nét chấm phá mà sao hai bức tranh xuân ấy lại đẹp đến vậy.
Ở mỗi đoạn thơ lại có những nét riêng, độc đáo. Nếu như Nguyễn Du tài hoa, uyên bác trong ngôn từ thì Thanh Hải lại đằm thắm, ngọt ngào với những vần thơ đầy ắp hình ảnh. Nguyễn Du khi gợi tả mùa xuân đã kế thừa và sáng tạo từ một câu thơ cổ Trung Quốc Phương thảo thiên liên bích / Lê chi sổ điểm hoa. Nếu như nhà thơ cổ Trung Quốc đã phác họa bức tranh xuân có màu cỏ xanh non, có vẻ đẹp của mấy bông hoa lê trên cành thì Nguyễn Du lại thể hiện được cả sức xuân căng tràn, dạt dào của cỏ cỏ càng xanh hoa càng trắng, chỉ mấy chữ non, xanh, trắng mà như chứa cả hương thơm, cả sắc màu, cả tình người gửi vào đó. Nguyễn Du báo tín hiệu mùa xuân bằng én đưa thoi thì với Thanh Hải là một bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh. Nguyễn Du đã dùng không gian để vẽ thời gian. Thời gian thấm thoắt đã trôi qua hai tháng, nhanh như thoi đưa, chỉ đọng lại ánh sáng rực rỡ, cuối cùng của mùa xuân trong tiết thanh minh. Còn Thanh Hải với cách đảo động từ mọc đã phác họa một hình ảnh rất ấn tượng về sự sống mãnh liệt của loài hoa lục bình xứ Huế đang vươn lên giữa phông nền của dòng sông xanh căng tràn sức sống. Nguyễn Du dùng những thi liệu là cỏ non, cánh én đưa thoi, thiều quang, hoa lê trắng để vẽ nên bức tranh xuân cao rộng, thoáng đãng đầy thi vị thì Thanh Hải đã dùng những hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện hót vang trời để làm nên cái độc đáo mà chỉ ở quê hương xứ Huế mộng mơ mới có. Tiếng gọi của Thanh Hải ơi con chim chiền chiện hót chi nghe sao mà tha thiết, ngọt ngào như con người xứ Huế vốn rất đẹp, rất chân thành đó thôi.
Bức tranh xuân của Nguyễn Du non xanh như tâm hồn của cô thiếu nữ Thúy Kiều, Thúy Vân trong buổi du xuân. Bức tranh xuân của Thanh Hải tươi sáng, ân tình, chứa chan cảm xúc, thấm thía lòng người. Tâm hồn họ đều thăng hoa, rất thiết tha, nhưng mỗi người lại có một bút pháp nghệ thuật riêng để ghi đậm cái tôi cá nhân trong lòng độc giả. Nếu như Nguyễn Du đã vận dụng khéo léo thể thơ lục bát của dân tộc thì Thanh Hải cũng rất mượt mà với thể thơ ngũ ngôn ngân nga như điệu nhạc xứ Huế trong bản hòa ca của đất nước đang xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nguyễn Du với mười lăm năm lưu lạc, còn Thanh Hải đang phải giáp ranh với cái chết nhưng ở họ vẫn nồng cháy tình yêu thiên nhiên, đất trời. Tình cảm ấy đã hòa chung dòng chảy với các tác phẩm khác cùng viết về mùa xuân.
Đã nhiều năm trôi qua, nhưng khi đọc những dòng thơ trên, lòng người đọc vẫn không khỏi xúc động, rạo rực, mê say. Có lẽ Nguyễn Du cũng như Thanh Hải sẽ còn sống mãi trong trái tim người đọc bởi những vần thơ như thế, bởi tấm lòng yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên, đất trời và con người tha thiết. Bởi ngòi bút của họ đã thăng hoa thành những nét vẽ sâu sắc trong hồn ta một mùa xuân bất diệt, vĩnh hằng và truyền vào lòng ta khát vọng được cống hiến, được làm:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời.
Bức tranh xuân trong Cảnh ngày xuân và Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 7
Mùa xuân là một chủ đề vốn đã giàu ý nghĩa sâu sắc, là một chủ đề hiện hữu ở văn học cổ lẫn hiện đại. Ta có thể nói, đây chính là một nguồn cảm hứng cho tất cả các nhà thơ, cảnh mùa xuân không chỉ mang đến những nỗi xao xuyến hồi hợp mà còn làm cho con người ta cảm thấy luyến tiếc khi đã để nó đi qua. Cũng chính vì thế mà hai bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải và bài “Cảnh ngày xuân” của thi hào Nguyễn Du luôn mang đến hai dòng cảm xúc cho người đọc.
Ở hai đoạn thơ đầu của hai bài thơ này, ta có thể thấy rõ được vừa nét tương đồng giữa vẻ đẹp của mùa xuân, vừa hai quan điểm khác nhau dưới cái nhìn của hai phong thái thơ ca.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
(Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải)
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
(Cảnh ngày xuân – Nguyễn Du)
Ta có thể thấy được, cả hai bức tranh mùa xuân đều được khắc họa một cánh sáng tạo lại mang vẻ thanh thanh, cái thời tiết ấm áp của mùa xuân. Cả hai đoạn thơ đều cho thấy màu sắc tươi đẹp, rõ nét của một khung cảnh trữ tình mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Những chi tiết “ dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc”, “con chim chiền chiện” lại tự nhiên có thể hòa chung một màu sắc với “ cỏ non xanh” cùng “cành lê trắng”. Kết hợp lại đã tạo nên một khung cảnh vừa tươi vui lại vừa êm dịu, hài hòa một cách giản dị, mộc mạc.
Nhưng ẩn sâu bên trong, hai đoạn thơ ấy lại mang hai linh hồn hoàn toàn khác biệt. Ở “ Mùa xuân nho nhỏ”, nhà thơ Thanh Hải đã miêu tả nó một cách vui tươi, cảm nhận màu xuân với vẻ đẹp non tươi, tràn đầy sức sống. Điều này thể hiện cảm nhận của nhà thơ là cảm nhận của một con người cách mạng hết sức gắn bó với cuộc đời, dân tộc và đất nước. Ở ngay 2 câu thơ đầu đã có thể làm ta hình dung ra được cái khung cảnh tươi đẹp của cố đô Huế giữa mùa xuân:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Màu xanh êm dịu cùng với sắc bông tím, màu sắc đặc trưng cho vùng đất của sự thủy chung, đằm thắm đã gợi lên trong lòng người biết bao niềm vui xao xuyến. Chỉ mới bắt đầu đã làm cho con người ta cảm thấy trẻ trung, tươi đẹp mà điều đặc biệt chính là có thể cảm nhận được sự yên bình của mùa xuân. Từ “ mọc” ở câu thơ đầu cũng với số lượng “ một “ ở câu phía sau để thể hiện sắc tím đặc trưng ấy tuy nhỏ bé nhưng lại đánh dấu được sự hiện diện mạnh mẽ của mình, vẫn chứng minh được mình đang hiện hữu. Thanh Hải đã sử dụng những gam màu nhạt miêu tả một cảnh xuân êm dịu, thanh bình. Và trong bức tranh thanh thanh ấy lại được điểm chút âm thanh vang vọng cả bầu trời của chim chiền chiện:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Giữa không gian êm đềm được tạo bởi những màu sắc dịu nhẹ, tiếng hót của con chim chiền chiện thánh thót làm vỡ đi sự yên ắng nhẹ của cảnh xuân. “ vang trời” đã diễn tả được tiếng hót của những chú chim một cách to lớn mà lại êm tai, yên bình. Những giọt long lanh ở đây tức là các giọt âm thành, giọt mưa, giọt nắng lấp lánh cứ từ từ rơi, cứ từ từ kết hợp lại với nhau mà tạo ra một mùa xuân của thiên nhiên. ở câu thơ cuối, tác giả đã thể hiện được tình yêu thiên nhiên sấu sắc, đưa tay đón nhận từng món quà mà tự nhiên đã ban tặng. tất cả hòa quyện cùng tạo nên một màu sắc đẹp và yên bình một cách lạ thường.
Ngược lại với phong cách thơ của Thanh Hải, trái với vẻ đẹp vui tươi, lạc quan và tràn trề sức sống của mùa xuân thì mùa xuân của Nguyễn Du lại mang về nỗi cảm xúc tiếc nuối, một bầu không khí nhẹ nhưng lại thấy có phần nặng nề.
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
“Ngày xuân con én đưa thoi” là một cách miêu tả sáng tạo của Nguyễn Du, nhằm nói lên rằng mùa xuân trôi qua thật nhanh, giống như cách con én chao liệng trên bầu trời. “thiều quang” nghĩa là ánh sáng đẹp, “chín chục “ ý nói mùa xuân gồm ba tháng tức là có chín mươi ngày mà nay “đã ngoài sáu mươi”, những ngày được ánh sáng của mùa xuân nay đã đang đi qua hết, mang lại cho con người ta một nỗi buồn đượm tiếc nuối.
Tháng một và tháng hai đã trôi qua rồi nhưng hãy còn tháng ba, sắc xuân vẫn tràn đầy mà lòng người lại luyến tiếc không ngui. “Cỏ non xanh tận chân trời” mở ra cho người đọc một cảm giác vô tận, màu cỏ non xanh trải dài cả một không gian rộng lớn, làm cho con người dễ dàng cảm thấy nhỏ bé giữa một khoảng trời bao la. Song, giữa cái không gian thoáng đoảng ấy lại những nốt trắng lưa thưa. Từ “điểm” như thể hiện rằng, những bông lê mọc rải rác chứ không mọc đầy. Điều này lại càng khắc họa thêm sự êm đềm và yên ắng giữa không gian mênh mông. Màu trắng tinh khiết, màu trắng yếu ớt, nhỏ bé nhưng lại là điểm nhấn của cả một khung cảnh xuân.
Sau tất cả, mùa xuân của hai bài thơ có những chi tiết đều có thể hòa quyện với nhau một cách hài hòa, nhưng lại mang theo hai ý nghĩa sau xa khác nhau. Mùa xuân của Thanh Hải thì tràn đầy sức sống, vui tươi làm cho con người ta cảm thấy thiên nhiên thật tươi đẹp, còn Nguyễn Du thì khung cảnh lại có chút rợn ngợp, có lẽ là bởi sự tiếc nuối khi xuân đã sắp đi qua bỏ lại số phận long đong, bất lực.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Bức tranh xuân trong Cảnh ngày xuân và Mùa xuân nho nhỏ 2 Dàn ý & 7 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.