TOP 8 bài Phân tích Trong lòng mẹ ngắn gọn, đặc sắc nhất, sẽ giúp các em học sinh lớp 8 hiểu sâu sắc hơn về đoạn trích để nhanh chóng hoàn thiện bài văn phân tích Trong lòng mẹ của mình thật hay.
Đoạn trích Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng mang đến cho người đọc những cảm nhận chân thực, đẹp đẽ nhất về tình mẫu tử thiêng liêng, cao cả. Vậy mời các em cùng tải 8 mẫu phân tích Trong lòng mẹ ngắn gọn trong bài viết dưới đây để ngày càng học tốt môn Văn 8.
Dàn ý phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyên Hồng, Tập truyện Những ngày thơ ấu và đoạn trích Trong lòng mẹ.
2. Thân bài
a. Tuổi thơ cơ cực của Hồng
Là đứa con sinh ra trong một gia đình không có tình yêu: bố vì nghiện thuốc phiện mà chết sớm; mẹ phải bỏ đi tha hương cầu thực; em sống cùng với người cô cay nghiệt.
b. Cuộc đối thoại của Hồng và bà cô
Nhân vật bà cô
- Tìm mọi cách để nói xấu mẹ em, gieo rắc vào đầu em những suy nghĩ xấu xa, tiêu cực để em ruồng rẫy, ghét bỏ mẹ.
- Bịa đặt ra hoàn cảnh sống của mẹ em ở nơi xa và bịa đặt chuyện mẹ em có em bé để khiến em đau lòng.
- Khi thấy Hồng cúi đầu, buồn bã và chực khóc thì tìm cách hạ giọng và tiếp tục nhồi nhét những ý nghĩ cay độc.
→ Là một con người xấu xa, ác độc ngay với cả đứa cháu ruột của mình.
Nhân vật bé Hồng
- Sống khổ cực, xa mẹ và em, chịu đựng sự cay nghiệt của bà cô.
- Khi bà cô xoáy sâu vào nỗ đau, sự thiếu thốn tình mẫu tử: em im lặng không nói gì.
- Khi bà cô nhồi nhét vào đầu em những suy nghĩ xấu xa rằng mẹ đã ruồng rẫy em và có con ở Thanh Hóa: trong lòng em căm phẫn những lời nói đó, luôn một mực giữ lòng tin yêu ở mẹ mình.
- Sự tức giận lên đến tột cùng, em căm hơn những hủ tục lạc hậu và miệng đời cay nghiệt đã đày đọa mẹ mình, em ước nó như hòn đá, cục thủy tinh, mẩu gỗ để cắn, nhai, nghiến đến kì nát thì thôi → Tình yêu thương mẹ vô bờ bến, khao khát muốn bảo vệ mẹ trước mọi điều xấu xa.
Cuộc gặp gỡ của Hồng và mẹ
- Trong lòng em luôn khao khát mẹ về và được gặp mẹ, khi thấy người ngồi trong xe kéo giống mẹ đã gọi và chạy theo → mẹ luôn hiện hữu trong lòng em.
- Cảm giác xấu hổ với đám bạn nếu đó không phải mẹ mình nhưng trên hết là sự tủi thân vì luôn mong ngóng mẹ.
- Khi biết người ngồi trên xe là mẹ mình: chạy đến, òa khóc nức nở, vỡ òa cảm xúc.
- Thu mình trong lòng mẹ để cảm nhận tình yêu thương, hơi ấm. Em nhận ra mẹ không tiều tụy như lời người cô kể mà vẫn tươi đẹp như thuở sung túc.
- Lời người cô văng vẳng bên tai nhưng nhanh chóng tan biến chỉ còn lại tình yêu thương và cảm xúc hạnh phúc.
→ Tình mẫu tử thiêng liêng là động lực giúp Hồng vượt qua tất cả những nỗi đau.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.
Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ – Mẫu 1
Được mệnh danh là nhà văn của phụ nữ và trẻ em, nhà văn Nguyên Hồng đã có những trang văn giá trị mà cũng quá đỗi xúc động về hình ảnh người mẹ, người phụ nữ tần tảo, những đứa trẻ hồn nhiên nhưng có tuổi thơ bất hạnh. Thành công nhất có thể kể đến tập hồi kí “Những ngày thơ ấu”, đây được coi là những ghi chép chân thực, xúc động nhất về những tháng ngày tuổi thơ đầy cay đắng của tác giả, trong đó đoạn trích “Trong lòng mẹ” đã thể hiện sâu sắc tình yêu của cậu bé Hồng dành cho mẹ.
Đoạn trích “Trong lòng mẹ” thuộc chương IV của cuốn hồi kí “Những ngày thơ ấu”, đoạn trích tập trung miêu tả tình cảnh đáng thương của cậu bé Hồng: Bố mất sớm, mẹ bỏ đi vì sự hà khắc của gia đình nhà chồng. Bé sống nhờ họ hàng bên nội, thế nhưng cuộc sống ấy cũng chẳng mấy dễ chịu khi bà cô – người có quan hệ thân thiết lại nhẫn tâm buông những lời cay nghiệt để thỏa mãn sự ích kỉ, đố kị của bản thân, chia rẽ tình cảm giữa bé Hồng và mẹ. Đây cũng là một trong những đoạn trích cảm động nhất trong tập hồi kí khi làm nổi bật được tình mẫu tử thiêng liêng, tình yêu mẹ vô bờ bến của cậu bé Hồng.
Qua cuộc đối thoại giữa bà cô bé Hồng và bé Hồng, nhà văn Nguyên Hồng không chỉ cho người đọc thấy được hoàn cảnh đáng thương, tình yêu vô bờ bến của bé Hồng dành cho mẹ mà còn khắc họa đầy chân thực nét gian xảo, tàn nhẫn, lạnh lùng của bà cô bé Hồng.
Bà cô bé Hồng vốn là người thân ruột thịt của bé Hồng, đứng trên quan hệ huyết thống hay tình cảm thì lẽ ra bà cô phải là người cưu mang, chăm sóc cho bé Hồng. Thế nhưng sự hà khắc của bà ta cùng gia đình bên nội không chỉ bức ép khiến mẹ bé Hồng phải bỏ đi mà bà ta còn không ngừng reo rắc vào đầu người cháu những lời miệt thị, đặt điều đầy cay độc về người mẹ của mình. Trong cuộc trò chuyện với bé Hồng, bà ta đã hỏi Hồng “Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?”, nghe qua tưởng chừng đây là lời hỏi thăm, sự quan tâm của người cô dành cho cháu. Thế nhưng, chỉ cần nghe ngữ điệu châm chọc, giả tạo cùng bộ mặt “rất kịch” của bà ta thì có thể thấy đây là một người độc ác, thâm hiểm.
Người bà cô đâu vì quan tâm mà hỏi, mục đích chính của bà ta không chỉ khơi sâu sự tổn thương của bé Hồng mà còn mang ý xúc phạm đến mẹ của bé. Bà ta kể lại chuyện có người nhìn thấy mẹ bé ở Thanh Hóa, trên tay là đứa trẻ mới sinh, dường như mục đích của bà ta là gợi ra sự tủi thân, cảm giác bị bỏ rơi và hơn hết là muốn bé Hồng oán hận mẹ. Trước sự im lặng cùng nét mặt khổ sở của người cháu, bà ta không những không động lòng thương cảm mà tỏ ra vui sướng, thỏa mãn, càng buông lời cay độc, tàn nhẫn. Khi đã thành công trong việc khơi dậy nỗi đau đớn, xót xa nơi người cháu, bà ta còn cố tình tỏ ra cảm thông, nói bằng giọng ngậm ngùi thương cảm nhưng lại mang đầy hàm ý của sự độc ác, nhẫn tâm: “Mấy lại rằm tháng tám này là giỗ đầu của cậu mày, mợ mày về dù sao cũng đỡ tủi cho cậu mày, và mày cũng còn phải có họ, có hàng, người ta hỏi đến chứ”. Từ những lời nói xảo trá, cay độc, thái độ giả tạo, trơ trẽn, bà cô đã tự phơi bày bản chất xấu xa, thâm hiểm của mình. Thái độ, lời nói của bà cô cũng chính là đại diện cho những định kiến khắc nghiệt, tàn nhẫn của xã hội xưa đối với người phụ nữ xưa.
Những lời nói cay độc, tàn nhẫn của bà cô không những không làm cho bé Hồng oán ghét mẹ mà ngược lại khiến bé Hồng càng thêm thương và yêu mẹ hơn. Trước câu hỏi đầy hàm ý của bà cô, bé Hồng đã nhận ra được sự cay độc trong lời nói, thấy được vẻ mặt cố tỏ ra thương cảm nhưng rất kịch của bà cô. Dù không đáp lại lời bà cô nhưng khóe mắt đã bắt đầu cay, trong lòng bé hiểu rằng mẹ nhất định sẽ quay lại, mẹ không bỏ rơi mà chỉ vì hoàn cảnh nên tạm để bé ở lại. Khi nghe bà cô nói rằng mẹ bé đã đi bước nữa với người đàn ông khác, thậm chí đã sinh em bé, Hồng đã khóc, khóc không phải vì giận mẹ mà vì thương mẹ, bé căm giận những hủ tục đã đầy đọa mẹ bé, Hồng ước chúng là những vật hữu hình như mẩu gỗ, cục thủy tinh để có thể nhai, căn đến nát vụn mới thôi. Hồng là một cậu bé nhạy cảm, giàu tình thương, đứng trước những lời dèm pha ác ý, em vẫn luôn tin tưởng, yêu thương mẹ.
Chi tiết bé Hồng gặp lại mẹ trong phần cuối của đoạn trích khiến cho bao độc giả vỡ òa trong sự xúc động.
Đoạn trích “Trong lòng mẹ” đã mang đến cho người đọc những cảm nhận chân thực, đẹp đẽ nhất về tình mẫu tử. Ta không chỉ cảm động trước tình yêu của bé Hồng dành cho mẹ mà còn bất bình thay đối với những con người lòng dạ hiểm độc, những hủ tục phong kiến đã đẩy người phụ nữ xưa vào con đường bất hạnh.
Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ – Mẫu 2
Nguyên Hồng là nhà văn của những người cùng khổ. Ông thường viết về những lớp người “dưới đáy” với tình cảm yêu thương sâu sắc, chân thành. “Những ngày thơ ấu” là một tập hồi kí giàu chất trữ tình, trung thực và cảm động về tuổi thơ cay đắng của Nguyên Hồng thời thơ ấu. “Trong lòng mẹ” là chương IV của tập hồi kí. Đoạn trích đã miêu tả một cách sinh động “những rung động cực điểm của một tâm hồn trẻ dại” (Thạch Lam) đối với người mẹ, đã bộc lộ sâu sắc lòng yêu thương mẹ của bé Hồng.
Chú bé Hồng ra đời là kết quả của cuộc hôn nhân miễn cưỡng không tình yêu. Người bố sống lặng lẽ, u uất với bàn đèn thuốc phiện rồi chết, người mẹ vì “cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực”, để lại đứa bé sống bơ vơ giữa sự ghẻ lạnh cay nghiệt của họ hàng. Nguyên Hồng mở đầu bằng cách kể nhẹ nhàng, nhiều chua xót “Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn ở trên đầu đi rồi. Không phải đoạn tang thầy tôi mà vì tôi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen. Gần đến ngày giỗ đầu thầy tôi, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về”. Một chuỗi tuổi thơ cay đắng mở đầu bằng “chiếc khăn tang” trắng, gợi lên trong lòng người đọc nhiều chua xót.
Bé Hồng vẫn luôn mong ngóng người mẹ phương xa trở về trong ngày giỗ đầu của thầy. Tiếp theo, nhà văn kể về thời gian xảy ra câu chuyện và hoàn cảnh sống của người mẹ tội nghiệp: “Trong đó nghe đâu mẹ tôi đi bán bóng đèn và những phiên chợ chỉnh còn bán cả vàng hương nữa.” Câu chuyện đã được khơi nguồn. Nhân vật bà cô xuất hiện và tâm địa độc ác của bà ta càng về sau càng lộ rõ. Bà ta cố tình nói cho bé Hồng biết cảnh ngộ thảm thương của mẹ cậu để rồi cười cợt, nhạo báng, thoả mãn trên nỗi đau của người khác. Nụ cười giả tạo của bà cô chứa đựng ác ý rõ ràng.
Nó như một mũi dao nhọn cố tình xoáy vào trái tim non nớt đang rớm máu của đứa cháu vừa mới mồ côi cha, lại phải chịu cảnh xa lìa mẹ. Lẽ ra, bé Hồng sẽ trả lời rằng muốn vì bé đang thiếu thốn tình mẫu tử, nhưng vốn nhạy cảm, bé lập tức nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của người cô. Không thể để tình thương yêu và lòng kính mến mẹ của mình bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến, bé Hồng đã trả lời: “Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mẹ cháu cũng về.” một lời đáp cứng cỏi, đầy niềm tin đối với mẹ, thì bà cô hỏi luôn, giọng ngọt, kèm theo cái nhìn bằng đôi mắt long lanh, chằm chặp: “Sao lại không vào? Mợ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu!”. Nói câu này, bà cô như ngầm báo với Hồng rằng mẹ của chú bé đã thay lòng đổi dạ, không thương con, không gắn bó với gia đình như trước nữa. Khi thấy cháu im lặng, cúi đầu xuống đất, bà cô hẳn biết rằng lòng cháu đang thắt lại.
Nhưng bà vẫn chưa tha, tiếp tục cười mà nói: “Mày cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mợ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ”. Cái cử chỉ vỗ vai, cái nụ cười và lời nói ấy mới giả dối, độc ác làm sao! Điều này chứng tỏ bà ta cố ý lôi đứa cháu đáng thương vào một trò chơi cay độc của người lớn. Đến đây, bà cô không chỉ cay độc, mà còn châm chọc, nhục mạ cháu. Thật cay đắng biết bao khi niềm tin và tình mẫu tử bị người khác lại chính là cô mình, người gắn bó với mình bằng tình máu mủ cứ săm soi hành hạ. Nỗi đau của chú âm thầm cố kìm nén bên trong giờ đây không thể nào kìm giữ nổi, đã vỡ ra thành nước mắt “nước mặt tôi ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ”. Lời nói của người bà cô quả như mũi dao ghê gớm, sắc lạnh đã chạm đến nơi dễ tổn thương nhất của một trái tim ngây thơ đã từng rỉ máu vì nỗi đau xa mẹ.
Từ nỗi đau đớn vì thương mẹ, bé Hồng căm phẫn những cổ tục đã đày đọa mẹ chú qua hình ảnh so sánh thật dữ dội. Đến đây tình thương trào lên như bão nổi, giằng xé với bao phẫn uất: “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi.” Nhà văn đã sử dụng các động từ chỉ hành động mạnh: vồ, cắn, nhai, nghiến với sắc thái ngày càng tăng, khiến lời văn dường như sôi sục, tuôn trào đặc tả tâm trạng phẫn uất, căm giận cao độ của bé Hồng với những thành kiến vô hình đã làm khổ mẹ chú. Qua đó, ta càng thấu hiểu bé Hồng thương mẹ đến nhường nào.
Trong xã hội phong kiến xưa, biết bao người phụ nữ đã phải chôn vùi tuổi xuân vì những thành kiến vô hình mà ác liệt ấy. Qua đây, tác giả đã phát biểu quan điểm nhân đạo tiến bộ, dứt khoát đứng về phía người phụ nữ mà thông cảm, bênh vực họ. Cử chỉ vỗ vai, nhìn vào mặt đứa cháu rồi đổi giọng làm ra vẻ nghiêm nghị của bà cô chỉ là sự thay đổi cách thức tấn công. Bà ta tung ra miếng đòn hiểm cuối cùng. Khi thấy đứa cháu tức tưởi, phẫn uất đến cực độ thì bà ta lại giả vờ hạ giọng, tỏ vẻ ngậm ngùi, thương xót người anh đã mất. Đến đây, bản chất độc ác, giả dối, thâm hiểm và trơ trẽn của nhân vật bà cô đã được phơi bày toàn bộ. Tác giả muốn thông qua hình ảnh ấy để tố cáo hạng người tàn nhẫn, coi nhẹ tình máu mủ rụột rà trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ.
Trong tâm khảm bé Hồng lúc nào cũng in sâu hình bóng mẹ. Một buổi chiều, lúc tan trường, thoáng thấy người ngồi trên xe kéo giống mẹ mình, bé Hồng liền đuổi theo, bối rối gọi. Đó là tiếng gọi bật ra từ trái tỉm thương nhớ mẹ không nguôi của chú bé tội nghiệp. Tác giả đã miêu tả hàng loạt cử chỉ thể hiện niềm vui sướng của bé Hồng khi gặp mẹ. Vì chạy đuổi theo mẹ mà bé thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi. Đến khi trèo được lên xe với mẹ thì mừng đến nỗi ríu cả chân lại. Mẹ vừa kéo tay, xoa đầu hỏi chuyện thì bé đã òa lên khóc rồi cứ thế nức nở. Tiếng khóc trút bỏ bao nỗi,tủi cực, uất ức trong những ngày xa mẹ. Tiếng khóc sung sướng được gặp lại người mẹ thương yêu. Tiếng khóc của niềm khát khao tột độ tình mẫu tử. Nước mắt của bé Hồng lúc này khác hẳn nước mắt uất ức, căm giận khi trả lởi bà cô độc ác. Đây là những giọt nước mắt dỗi hờn mà hạnh phúc, tức tưởi mà mãn nguyện.
Cảnh hai mẹ con bé Hồng gặp nhau được tả bằng ngòi bút trữ tình đẫm nước mắt. Nhà văn đã vẽ nên bức tranh bằng ngôn ngữ về một thế giới của tình thương yêu đang bừng nở, hổi sình, tràn đầy những kỉ niệm dịu dàng và ấm áp tình mẫu tử. Cậu bé Hồng như bồng bềnh trôi trong cảm giác vui sướng, rạo rực. Những lời nói cay độc của bà cô, những tủi cực chất chồng trong thời gian xa mẹ đã bị nhấn chìm giữa niềm hạnh phúc đang dâng tràn. Trong lòng mẹ, bé Hồng nhận ra rằng cảm giác ấm áp thiếu vắng bao lâu nay giờ đây lại mơn man khắp cả da thịt. Đó là những phút giây không thể nào quên của bé Hồng. Bé nhận ra hơi quần áo của mẹ, hơi thở của mẹ lúc đó thơm tho lạ thường. Bé nhận ra gương mặt mẹ vẫn tươi sáng, mắt trong, da mịn, má hồng, vẫn đẹp như thuở nào. Bé cũng nhận ra người mẹ có một êm dịu vô cùng.
Tất cả những cảm giác đó, những ý nghĩ đó chỉ có được khi đứa con hết lòng yêu thương mẹ. Được gặp mẹ là niềm hạnh phúc lớn lao, là niềm vui khôn xiết. Được sà vào lòng mẹ, bé Hồng mừng đến nỗi quên hết mọi thứ trên đời. Những lời thăm hỏi giữa hai mẹ con chỉ còn là một chuỗi âm thanh hạnh phúc, bé Hồng không thể nhớ đó là những câu gì, chuyện gì. Bao trùm tâm trí bé là nỗi vui sướng khôn xiết. Phải thương nhớ mẹ, yêu quý mẹ, thèm khát được gần mẹ đến chừng nào thì bé Hồng mới cảm thấy sung sướng tột đỉnh khi được ôm ấp trong vòng tay dịu hiền của mẹ sau bao ngày xa cách. Tình thương yêu mẹ là nét nổi bật trong tâm hồn bé Hồng. Tình thương mẹ đã giúp bé Hồng có cách nhìn xác thực về con người và cuộc đời. Cho dù cảnh ngộ có éo le đốn mấy thì tình mẫu tử thiêng liêng vẫn không thể phai mờ. Chúng ta càng thêm thông cảm và quý mến bé Hồng, từ đó càng trân trọng tình mẫu tử.
Bằng cách viết nhẹ nhàng và sâu lắng, cách diễn tả tâm lý cực kỳ sâu sắc và hơn hết bằng tình yêu thương vô bờ bến Nguyên Hồng đã khiến người đọc “ôm tim mình” mà khóc. “Trong lòng mẹ” luôn để lại trong lòng người những rung động ngọt ngào và chân thành nhất.
Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ – Mẫu 3
Một trong những nhà văn để lại cho tôi ấn tượng nhất có lẽ là Nguyên Hồng. Bởi trong những trang văn của ông chất chứa dạt dào một thứ tình cảm bình yên đến lạ lùng, tâm hồn ta sẽ được trở về với những ngày thơ ấu hồn nhiên, được bình yên sau cuộc sống bộn bề, được chìm đắm trong tình yêu thiết tha của tình mẹ. tác phẩm tiêu biểu cho lối phong cách sáng tác ấy chính là “Những ngày thơ ấu” của ông. Đặc biệt là đoạn trích “Trong lòng mẹ”.
Trong trang văn của mình, đều có phần nào đó bóng dáng của Nguyên Hồng, bởi chính tuổi thơ cay đắng, tăm tối của mình luôn là niềm động lực để ông cầm bút sáng tác.
“Trong lòng mẹ” nằm trong chương VI của “Những ngày thơ ấu” kể về cuộc sống cơ cực, thiếu thốn tình yêu thương của cậu bé Hồng. Hằng ngày cậu phải chịu sự ghẻ lạnh, đay nghiến và mỉa mai của người cô cùng họ hàng bên nhà nội. Bên cạnh đó còn là hình ảnh một người mẹ nghèo tiều tụy với một tình yêu thương con vô bờ bến.bé Hồng sinh ra là kết quả của cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Bố là kẻ nghiện ngập, chết mòn trên bàn thuốc phiện để lại cho mẹ con Hồng một cuộc sống tù túng cực độ cùng những cay nghiệt bên nhà nội, cuối cùng mẹ Hồng phải tha hương cầu thực, bỏ Hồng lại một mình sống với bà cô.
Nguyên Hồng mở đầu đoạn bằng cách kể nhẹ nhàng, nhiều chua xót: “Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn trên đầu đi rồi. không phải đoạn tang thầy tôi mà vì tôi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen. Gần đến ngày giỗ đầu thầy tôi, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về”. Một chuỗi tuổi thơ cay đắng mở đầu bằng “chiếc khăn tang” trắng gợi lên trong lòng người đọc nhiều xót xa. Bé Hồng vẫn luôn mong ngóng người mẹ phương xa trở về trong ngày giỗ của cha. Tác giả được biết mẹ đang “bán bóng đèn và bán vàng hương ở chợ”, mẹ làm tất cả để mưu sinh kiếm sống và trở về.
Bé Hồng sống với bà cô cay nghiệt, ghẻ lạnh, luôn dùng những lời độc địa nhất kể về mẹ của bé, để bôi thêm muối vào tâm hồn non nớt kia. Bà cô là hiện thân của một xã hội phong kiến độc ác, nhiều hủ tục, nhiều cay đắng và bé Hồng chính là hiện thân của những người ở dưới đáy cùng xã hội, chịu đựng sự chà đạp và bất công nhất. Trong một lần bà cô gọi Hồng đến và nói “Mày có muốn vào Thanh Hóa thăm mẹ mày không”, một câu hỏi chứa đầy hàm ý khiến trái tim đứa bé run rẩy toan gật đầu đồng ý. Nhưng sau đó cậu đã tỉnh táo nhận ra phía sau của nụ cười đầy gian tà kia của cô mình nên chỉ biết cúi đầu. Nỗi khổ của mẹ cậu bị những hủ tục phong kiến đè bẹp lên, đè lên gánh nặng đôi vai để rồi mẹ cậu phải xa cậu. Bằng cách xây dựng tâm lí tinh tế, tác giả khiến người đọc không kìm được cảm xúc. Bởi khi nghĩ về mẹ, cậu chỉ “biết cúi đầu im lặng, khóe mắt cay cay”. Dù bà cô có nhắc đến “em bé” có gieo rắc thêm bất cứ điều xấu xa nào nhưng cậu vẫn bỏ ngoài tai, vẫn luôn hướng tình cảm mong ngóng tha thiết mẹ về.
Và có lẽ trong đoạn trích này, khung cảnh, phân đoạn lấy đi nhiều nước mắt nhất chính là đoạn hai mẹ con bé Hồng được gặp nhau, chính là nút thắt cao trào tình cảm được bung ra để yêu thương ùa về.
Chỉ một tiếng gọi “Mợ! Mợ! Mợ ơi” khi thấy một người đàn bà giống mẹ thì tình yêu trong bé chực trào ra. Yêu thương lâu nay bị kìm nén giờ đây có dịp bật ra thành tiếng. Tiếng gọi ấy khiến người đọc đứt từng khúc ruột, cay đến sống mũi. Khoảnh khắc cậu được ôm vào lòng mẹ thật cảm động. Tác giả dùng những từ ngữ tươi đẹp nhất để diễn tả lại “phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Câu văn khiến không ít người run rẩy vì độ chân thực cũng như tình thương vô bờ bến của tình mẫu tử.
Cuộc gặp gỡ định mệnh và tình cảm trở nên sâu nặng hơn. Có thể nói người đọc đến đây thở phào nhẹ nhõm vì cuối cùng cậu bé cũng được đền đáp tình yêu thương. Không có sức mạnh nào có thể ngăn được tình cảm thiêng liêng ấy.
Bằng lối viết nhẹ nhàng, sâu lắng, cách diễn tả tâm lí sâu sắc và hơn hết bằng tình yêu thương vô bờ bến của tác giả đã khiến người đọc “ôm tim mình” mà khóc. “Trong lòng mẹ” luôn in đậm trong người đọc một tình cảm thiêng liêng, chân thành nhất.
Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ – Mẫu 4
“Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng là tập hồi kí viết về những tháng ngày tuổi thơ cay đắng và khắc nghiệt của chính tác giả – một tuổi thơ mồ côi, chịu bao nhiêu tủi cực, thiếu thốn. Và có lẽ, trong tác phẩm, làm cho người đọc cảm động nhất chính là đoạn trích “Trong lòng mẹ”. Đoạn trích đã cho ta hiểu được tình cảnh đáng thương cùng nỗi đau tinh thần bấy lâu của bé Hồng đồng thời là khát khao tình mẫu tử của bé.
Đoạn đầu của đoạn trích khi nhân vật “tôi” kể về chuyện chiếc khăn tang và tin tức về mẹ của mình ta hiểu phần nào về hoàn cảnh của bé Hồng khi ấy. Cha mất, mẹ đi tha hương cầu thực, bé phải sống với họ hàng trong sự ghẻ lạnh. Bà cô bé Hồng, vốn không phải là một người cô hiền lành, một hôm gọi bé Hồng đến gợi chuyện về mẹ bé hỏi bé có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ hay không.
Vốn là một đứa trẻ nhạy cảm, Hồng như nhận ra ngay ác ý trong lời nói và nụ cười giả dối rất “kịch” của bà cô. Gia đình họ nội của bé Hồng vốn không ưa gì mẹ bé Hồng, luôn tìm cách để nói xấu mẹ bé Hồng để khiến cho bé ghét mẹ của mình. Có điều, dù họ có tiêm nhiễm vào đầu bé Hồng bao nhiêu điều xấu về mẹ đi nữa thì trong tâm trí bé Hồng, hình ảnh của mẹ bé Hồng liên hiện lên với “vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ”. Là một cậu bé vô cùng yêu mẹ và thông minh, Hồng tự nhủ với lòng mình “đời nào tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến….”.
Nên bé Hồng đã trả lời là không muốn vào đồng thời bé đưa ra niềm tin về chuyện mẹ nhất định sẽ về. Chỉ một câu nói, ta hiểu rằng bé Hồng không chỉ là một cậu bé thông minh, can đảm mà còn rất yêu mẹ, ra sức bảo vệ mẹ trước những cay nghiệt của nhà nội.
Khi bà cô nói mẹ bé Hồng có “em bé”, những lời nói của bà cô mà bé Hồng đau đớn “Nước mắt tôi đã ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ” và khi bà cô kể cho bé nghe về chuyện có người nhìn thấy mẹ bé Hồng “ngồi cho con bú ở một bên rổ bóng đèn”, “ăn vận rách rưới, mặt mày xanh bủng, người gầy rạc đi”, nỗi đau của bé lại càng như thắt lại: “Cô tôi chưa dứt câu, cổ họng tôi đã nghẹn ứ khóc không ra tiếng. Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy ngay mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi”. Cách so sánh liên tưởng độc đáo đã làm nổi bật sự căm tức ghê gớm của bé Hồng đối với những cổ tục đã đày đọa mẹ bé, bé chỉ muốn làm sao bóp nát nó để những đau khổ mà mẹ bé phải chịu sẽ mãi mãi biến mất.
Người đọc còn xúc động hơn nữa khi thấy tình cảm hai mẹ con bé Hồng gặp nhau. Khi mới thấy thoáng bóng ai giống mẹ, bé Hồng đã không kìm được lòng mà chạy gọi theo dù biết nếu đó là nhầm lẫn sẽ là một trò cười xấu hổ nhưng tình yêu thương mẹ của bé khi dậy đã lôi bé đi, không sao kìm lại được.
Vậy là hai mẹ con bé Hồng gặp nhau trong niềm hạnh phúc. Khi này bé Hồng thấy mẹ mình không hề xơ xác như những gì bà cô tả mà “Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong, và nước da mịn làm nổi bật màu hồng của hai gò má”, người mẹ ấy trông tươi đẹp như vậy có lẽ là vì: “Sự sung sướng bỗng được trông nhìn và ôm ấp cái hình hài máu mủ của mình mà mẹ tôi lại tươi đẹp như thuở còn sung túc”. Được nhìn thấy con, ôm con trong vòng tay, người mẹ như quên hết mọi cực nhọc, đau khổ và cả khuôn mặt đều ánh lên hạnh phúc.
Trong lúc nằm trong lòng mẹ, Hồng thấy “Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường” đồng thời có sự liên tưởng kì lạ “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trên trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Đó chính là tình mẫu tử thiêng liêng, cao quý vô ngần!
Đọc đoạn trích “Trong lòng mẹ” ta thấy xót xa cho tình cảnh đáng thương của bé Hồng và đồng thời cũng đọc xúc động biết bao trước tình mẫu tử thiêng liêng cao quý
Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ – Mẫu 5
Mỗi lần ngồi lật dở và đọc từng trang “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng tôi không đọc bằng mắt nữa mà để cho trái tim tự đọc, tự cảm nhận và tự rung động. Văn của ông rất sâu, rất sắc bởi nó cứa vào lòng người niềm thương cảm chân thành nhất. Đoạn “Trong lòng mẹ” trích trong “Những ngày thơ ấu” có lẽ là trích đoạn có sức lay động và ám ảnh người đọc nhất về tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt. Bằng ngòi bút tinh tế và tình cảm sâu đậm Nguyên Hồng đã dẫn người đọc khám phá văn chương của mình bằng trái tim.
Nguyên Hồng không thêu dệt một câu chuyện bi lụy ở đâu đó quanh chúng ta mà ông trải lòng lên trang giấy bằng chính cuộc đời, bằng chính tuổi thơ cùng cực, cay đắng và nước mắt của mình.
“Trong lòng mẹ” nằm ở chương IV của “Những ngày thơ ấu” kể về cuộc sống cơ cực, thiếu thốn tình yêu thương của bé Hồng. Hằng ngày Hồng chịu sự ghẻ lạnh, đay nghiến và mỉa mai của người cô bên nhà “thầy”. Bên cạnh đó còn là hình ảnh người mẹ nghèo tiều tụy với một tình yêu thương con vô bờ bến.
Bé Hồng sinh ra là kết quả của một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Bố là một kẻ nghiện ngập, chết mòn trên bàn thuốc phiện để lại cho mẹ con Hồng một cuộc sống tù túng cực độ cùng những cay nghiệt bên nhà nội, cuối cùng mẹ Hồng phải tha hương cầu thực, bỏ lại Hồng một mình sống với bà cô.
Nguyên Hồng mở đầu bằng cách kể nhẹ nhàng, nhiều chua xót “Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn ở trên đầu đi rồi. Không phải đoạn tang thầy tôi mà vì tôi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen. Gần đến ngày giỗ đầu thầy tôi, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về”. Một chuỗi tuổi thơ cay đắng mở đầu bằng “chiếc khăn tang” trắng, gợi lên trong lòng người đọc nhiều chua xót. Bé Hồng vẫn luôn mong ngóng người mẹ phương xa trở về trong ngày dỗ đầu của thầy. Tác giả được biết mẹ đang “bán bóng đèn và bán vàng hương ở chợ”, mẹ làm tất cả để mưu sinh để kiếm sống và để trở về.
Bé Hồng sống với bà cô cay nghiệt, ghẻ lạnh, luôn dùng những lời độc địa nhất để kể về mẹ của bé, để bôi thêm muối vào tâm hồn đứa trẻ thơ đang quá thiếu thốn tình mẫu tử. Bà cô là hiện thân của một xã hội phong kiến độc ác, nhiều hủ tục, nhiều cay đắng và bé hồng là hiện thân của những người ở dưới đáy cùng xã hội, chịu đựng sự chà đạp và bất công nhất.
Trong một lần bà cô ấy gọi Hồng đến và nói “Mày có muốn vào Thanh hóa thăm mẹ mày không”, một câu hỏi chứa đầy hàm ý xấu khiến trái tim đứa bé ấy toan run rẩy và toan gật đầu đồng ý. Người đọc nhận ra một sự đấu tranh nội tâm đầy mâu thuẫn và kiềm chế đến tột cùng “tưởng đến vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ tôi, và nghĩ đến cảnh thiếu thốn một tình thương yêu ấp ủ từng phen làm tôi rơi nước mắt, tôi toan trả lời có. Nhưng, nhận ra những ý nghĩ cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của cô tôi kia, tôi cúi đầu không đáp.
Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực”. Lời lẽ ấy của bé Hồng như một mũi dao đâm thẳng vào tim người đọc, bởi suy nghĩ của một đứa bé sống trong cảnh bị đọa đầy lại có thể sâu sắc như vậy. Bé Hồng đã phải trải qua một cuộc sống nhiều đắng cay nên buộc phải lớn, buộc phải trưởng thành.
Tâm lý của bé Hồng trong đoạn hội thoại này chất chứa yêu thương đối với người mẹ nghèo đáng thương. Nỗi khổ của mẹ, những hủ tục phong kiến ấy đã đè bẹp một người phụ nữ góa chồng, đẩy bà ấy đến bước đường cùng. Bé càng thương mẹ nhiều hơn, chỉ mong được gặp mẹ là đủ. Bằng cách xây dựng tâm lý cực kỳ tinh tế, Nguyên Hồng đã khiến người đọc không kìm được cảm xúc. Bởi vậy khi nghĩ về mẹ “tôi chỉ im lặng, cúi đầu, khóa mắt cay cay”, nén cảm xúc vào bên trong, không để nó bật ra trước mắt bà cô độc ác này, vì thể nào nếu khóc bà cô sẽ càng mỉa mai và châm biếm hơn.
Khi bà cô nhắc đến từ “em bé”, cô bảo rằng mẹ đã phải lén lút sinh em bé sau khi chưa đoạn tang chồng, cô bảo rằng mẹ là người đàn bà xấu xa. Nhưng bé Hồng bỏ mặc ngoài tai những lời nói cay nghiệt đó, vẫn yêu và thương mẹ vô cùng.
Hình ảnh người mẹ qua lời kể bà cô khiến bé hồng nghẹn đắng, chua chát “Mẹ tôi ăn vận rách rưới, mặt mày xanh bủng, người gầy rạc đi, thấy thế bà ta thương tình gọi hỏi xem sao thì mẹ tôi vội quay đi, lấy nón che”. Đặc biệt ở suy nghĩ tiếp theo, tác giả đã diễn tả cực kỳ thành công tâm lý của nhân vật “giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẫu gỗ, tôi quyết vồ lấy ngay mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi”.
Sự kìm nén cảm xúc bấy lâu nay khiến cho một đứa bé không thể chịu đựng được, đành phải để nó thoát ra bằng suy nghĩ đanh thép và cứng rắn như vậy. Ngôn ngữ gần gũi, đơn giản nhưng có góc cạnh sắc nhọn đã lột tả hết tâm lý của một đứa trẻ bị kìm kẹp.
Có thể nói đoạn trích này tác giả đã diễn tả cực kỳ thành công tâm lý nhân vật bé Hồng bằng hàng loạt động từ mạnh, ngôn ngữ sắc cạnh, phép đối lập đắc địa nhất. Đến phần thứ hai, giọng văn trở nên dịu nhẹ đi vì nó tái hiện lại cảnh gặp gỡ đầy cảm động giữ mẹ và bé Hồng sau bao nhiêu xa cách. Đây chính là mạch cảm xúc chính, là cao trào thắt nút tình cảm được mở bung ra để yêu thương ùa về.
Chỉ một tiếng gọi “Mợ! Mợ! Mợ ơi” khi thấy một người đàn bà giống mẹ mà tình yêu trong bé Hồng đã chực trào ra. Yêu thương từ lâu được kìm nén giờ đây có dịp được bật ra thành tiếng. Tiếng gọi của bé Hồng lúc ấy khiến người đọc đứt từng khúc ruột, đứt từng mạch cảm xúc.
Sự liên tưởng của bé hồng khi tưởng tượng ra viễn cảnh nếu đó không phải là mẹ thật hay, thật thú vị “cái lầm đó không những làm tôi thẹn mà còn tủi cực nữa, khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc. Xe chạy chậm chậm”. Phải thật sâu, thật tinh tế thì tác giả mới có thể liên tưởng phong phú và đúng đắn như vậy. Có lẽ vì đợi chờ yêu thương quá lâu, quá nhiều nên cái lầm lẫn phút chốc có thể khiến cho người ta rơi vào tuyệt vọng.
Khoảnh khắc bé Hồng được ôm vào lòng mẹ thật cảm động. Tác giả đã dùng những lời lẽ đẹp nhất, ngọt ngào nhất để diễn tả lại khoảnh khắc hiếm hoi, cảm động đó “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người miệng, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trên trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Câu văn này đã khiến không ít người run rẩy vì thương yêu vô bờ bến của tình mẫu tử.
Cuộc gặp gỡ định mệnh, và tình cảm cũng trở nên sâu và nặng hơn. Có thể nói người đọc đến đây đã thở phào nhẹ nhõm vì tình mẫu tử cuối cùng cũng được đền đáp. Không có sức mạnh nào hơn sức mạnh của tình mẫu tử, không có ai ngăn cản được mẹ và con đoàn tụ.
Bằng cách viết nhẹ nhàng và sâu lắng, cách diễn tả tâm lý cực kỳ sâu sắc và hơn hết bằng tình yêu thương vô bờ bến Nguyên Hồng đã khiến người đọc “ôm tim mình” mà khóc. “Trong lòng mẹ” luôn để lại trong lòng người những rung động ngọt ngào và chân thành nhất.
Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ – Mẫu 6
Nguyên Hồng sinh năm 1918, mất năm 1982, quê gốc ở thành phố Nam Định. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông sống chủ yếu ở Hải Phòng, trong một xóm lao động nhỏ nên được tận mắt chứng kiến những cảnh đời cơ cực. Nguyên Hồng là nhà văn của lớp người “dưới đáy” xã hội. Viết về thế giới nhân vật ấy, ông thường bày tỏ niềm yêu thương sâu sắc và thái độ trân trọng những nét đáng quý trong phẩm chất của họ. Văn xuôi Nguyên Hồng giàu chất trữ tình. Đó là tiếng nói chân thành của một trái tim nhạy cảm trước nỗi đau và niềm hạnh phúc bình dị của con người.
Những ngày thơ ấu là tập hồi ký viết về tuổi thơ bất hạnh của chính nhà văn. Tác phẩm gồm 9 chương, lần lượt đăng trên báo từ năm 1938 và được in thành sách năm 1940. Trong lòng mẹ là chương 4. Bằng lời văn chân thực và giàu cảm xúc, tác giả đã kể lại nỗi cay đắng tủi cực về tình yêu thương cháy bỏng đối với mẹ của đứa con sớm mồ côi cha. Thông qua cảnh ngộ éo le và tâm sự đau khổ của chú bé Hồng, tác giả còn cho ta thấy bộ mặt vô cảm lạnh lùng của loài người nhỏ nhen, đố kị đến mức độc ác trong xã hội phong kiến tư sản chỉ trọng đồng tiền. Những thành kiến cổ hủ của dân tiểu tư sản đã cố tình cắt đứt tình mẫu tử thiêng liêng.
Đoạn trích này có thể chia làm hai phần. Phần 1 là cuộc đối thoại giữa bà cô cay độc và chú bé Hồng. Ý nghĩ, cảm xúc của chú bé về người mẹ đáng thương. Phần 2 là cuộc gặp gỡ bất ngờ với mẹ và cảm giác vui sướng cực điểm của chú bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ.
Chú bé Hồng là kết quả của một cuộc hôn nhân gượng ép, không có tình yêu. Người cha lớn tuổi và ốm yếu quanh năm lặng lẽ u uất bên bàn đèn thuốc phiện. Người mẹ trẻ trung, xinh đẹp luôn khao khát yêu thương song đành phải chôn vùi tuổi xuân bên ông chồng nghiện ngập. Gia đình bé Hồng lúc đầu sung túc, đầy đủ về vật chất nhưng lạnh lẽo, thiếu vắng tiếng nói, tiếng cười.
Rồi người cha chết vì bệnh. Người mẹ không chịu nổi sự o ép khắc nghiệt của nhà chồng nên đành bỏ lại con thơ, dứt áo ra đi. Để Hồng phải sống với bà cô nghiệt ngã, thâm hiểm. Như mọi đứa trẻ khác, bé yêu mẹ, thèm được ở bên mẹ nhưng cố giấu kín điều đó trong lòng, chỉ thỉnh thoảng mới hé lộ ra. Vì thế, lòng thương yêu mẹ của bé Hồng lại càng da diết.
Mở đầu đoạn trích, qua giọng kể mộc mạc, tự nhiên, tác giả giúp người đọc hình dung ra cảnh ngộ thương tâm của bé Hồng: Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn ở trên đầu đi rồi. Không phải đoạn tang thầy tôi mà vì tôi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen. Tiếp theo, nhà văn kể về thời gian xảy ra câu chuyện và hoàn cảnh sống của người mẹ tội nghiệp:
Gần đến ngày giỗ đầu thầy tôi, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về. Trong đó nghe đâu mẹ tôi đi bán bóng đèn và những phiên chợ tỉnh còn bán cả vàng hương nữa. Tôi nói “nghe đâu” vì tôi thấy người ta bắn tin rằng mẹ và em tôi xoay ra sống bằng cách đó.
Câu chuyện đã được khơi nguồn. Nhân vật bà cô xuất hiện và tâm địa độc ác của bà ta càng về sau càng lộ rõ. Bà ta cố tình nói cho bé Hồng biết cảnh ngộ thảm thương của mẹ cậu để rồi cười cợt, nhạo báng, thoả mãn trên nỗi đau của người khác:
Một hôm, cô tôi gọi tôi đến bên cười hỏi:
– Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?
Nụ cười giả tạo của bà cô chứa đựng ác ý rõ ràng. Nó như một mũi dao nhọn cố tình xoáy vào trái tim non nớt đang rớm máu của đứa cháu vừa mới mồ côi cha, lại phải chịu cảnh xa lìa mẹ. Lẽ ra, bé Hồng sẽ trả lời rằng muốn vì bé đang thiếu thốn tình mẫu tử, nhưng vốn nhạy cảm, bé lập tức nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của người cô. Vì thế, bé cúi đầu không đáp.
Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ – Mẫu 7
Nguyên Hồng là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông để lại số lượng tác phẩm tương đối phong phú và giàu giá trị. Ông là nhà văn của những người cùng khổ, đồng cảm và có tình yêu thương tha thiết với họ, bênh vực và bảo vệ những phẩm chất tốt đẹp trong họ. Những ngày thơ ấu là tập hồi kí tiêu biểu cho phong cách Nguyên Hồng: giản dị, chân thành, đậm chất trữ tình. Trong lòng mẹ thuộc chương thứ IV của tác phẩm, thể hiện tình yêu thương sâu sắc của bé Hồng với mẹ.
Bé Hồng là kết quả của cuộc hôn nhân không hạnh phúc, cha mất sớm, mẹ vì cùng túng phải đi tha phương cầu thực. Hồng sống trong sự ghẻ lạnh, cay nghiệt của bà cô. Dù xa mẹ nhưng cậu luôn nhớ và yêu thương mẹ, khao khát có ngày được gặp lại mẹ. Tình yêu thương đó được thể hiện trong cuộc đối thoại với bà cô và khi bất ngờ được gặp lại mẹ.
Trong tác phẩm gồm hai nhân vật: bà cô, bé Hồng. Qua ngôn ngữ, cử chỉ và tâm trạng của mỗi nhân vật ta thấy được những nét tính cách tiêu biểu, cảm xúc của các nhân vật.
Trước hết bà cô là một người thâm hiểm, độc ác. Trước tình cảnh của Hồng, bà ta “Cười hỏi: Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?”. Là cười hỏi chứ không phải vì lo lắng, quan tâm mà hỏi, bà ta là kẻ bên ngoài ngọt ngào, yêu thương mà bên trong thực chất là kẻ độc ác, thâm hiểm. Không chỉ vậy từng hành động, lời nói của bà ta còn mang ý xúc phạm đến mẹ bé Hồng, đặc biệt hai chữ “em bé” kéo dài thể hiện rõ sự độc ác, tính toán của bà ta. Trước sự kháng cự yếu ớt của bé Hồng, bà cô tiếp tục cười rồi kể chuyện mẹ Hồng gầy gò, ốm yếu, chật vật với cuộc sống ra sao. Những lời lẽ thâm độc này nhằm làm bé Hồng tổn thương, khiến Hồng oán hận mẹ. Bé Hồng càng đau đớn bao nhiêu thì bà cô càng sung sướng thỏa mãn bấy nhiêu. Bà ta là kẻ độc ác, tàn nhẫn, thích thú khi nhìn người khác đau khổ. Với hình thức đối thoại theo trình tự tăng tiến, người đọc ngày càng thấy rõ sự độc ác của bà cô. Khi nỗi đau của bé Hồng bị đẩy lên cùng cực, bà cô mới “ngậm ngùi”: “Mấy lại rằm tháng tám này là giỗ đầu cậu mày, mợ mày về dù sao cũng đỡ tủi cho cậu mày, và mày cũng còn phải có họ, có hàng, người ta hỏi đến chứ”, sự ngậm ngùi lại càng cho thấy rõ hơn bản chất trơ trẽn, xảo trá của mụ. Bà cô là kẻ độc ác, thâm hiểm, đại diện cho những định kiến hẹp hòi, tàn nhẫn với người phụ nữ trong xã hội cũ.
Bé Hồng là nhân vật chính của đoạn trích, thể hiện tình yêu thương mẹ mãnh liệt. Trước hết là trong cuộc đối thoại với bà cô. Khi nghe bà cô hỏi, là một đứa bé nhạy cảm Hồng nhận ra ngay ý cay độc sau giọng nói và nét mặt “rất kịch” của bà cô. Cậu thầm nghĩ về mẹ và không đáp lại lời bà cô, trong lòng cậu vẫn có một niềm tin mãnh liệt chắc chắn thế nào mẹ cũng về, cậu trả lời bà cô mà lòng thắt lại, khóe mắt đã bắt đầu cay cay. Rồi liên tiếp bị những lời lẽ bà cô dồn ép, nước mắt cậu chảy ròng ròng, vì thương mẹ, cũng vì đau đớn khi mẹ đã giấu mình sinh em bé. Hai chữ “em bé” như bóp nghẹt trái tim nhỏ bé, non nớt của cậu. Bé Hồng cười dài trong tiếng khóc. Giận dữ vì những hủ tục đã đầy đọa mẹ mình và ước chúng là những vật hữu hình như đầu mẩu gỗ, hay cục thủy tinh mà nhai, mà cắn cho nát vụn mới thôi. Cậu bé đau đớn, xót xa trước những lời gièm pha, xúc xiểm với người mẹ bất hạnh của bà cô. Hồng là một người mang trái tim nhân hậu, có niềm tin và tình yêu thương mẹ sâu sắc.
Tình yêu đó được thể hiện rõ hơn khi Hồng bất ngờ gặp lại mẹ. Bỗng thấy bóng dáng quen thuộc, cậu vội vàng chạy theo: gọi bối rối, thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi, ríu cả chân lại. Hàng loạt động từ đã cho thấy khao khát gặp mẹ mãnh liệt của Hồng. Khi biết đó chính là mẹ, cậu bé òa khóc nức nở. Đây là những giọt nước mắt bị dồn nén bấy lâu nay, là những giọt nước mắt hạnh phúc chứ không phải những giọt nước mắt phẫn uất, đau đớn tủi hổ: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi, thì tôi òa lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Cậu nằm trong lòng mẹ và cảm nhận hơi ấm từ mẹ sang mình.
Hình ảnh mẹ trong cảm nhận của Hồng thật gần gũi, thân quen lại vừa có gì đó mới mẻ, lạ lẫm: “vạt áo nâu”, “gương mặt tươi sáng với đôi mắt trong” vẫn thật ấm áp, quen thuộc. Nhưng từ hơi quần áo đến hơi thở của mẹ đều “thơm tho lạ thường”. Những cảm giác của tình mẫu tử bao lâu nay mất đi thì bỗng lại mơn man khắp da thịt: “để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Lúc này chỉ còn tình mẹ con, tình mẫu tử thiêng liêng tồn tại còn bao nhiêu lời nói, ý nghĩ cay độc của bà cô đều tan biến hết thảy.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình qua việc xây dựng tình huống, ngôn ngữ và cử chỉ của nhân vật. Nghệ thuật tăng tiến độc đáo, sự độc ác của bà cô ngày càng tăng lên thì cùng với đó tình yêu thương, sự bảo vệ của bé Hồng với mẹ cũng ngày một nhiều hơn. Những hình ảnh so sánh độc đáo, thể hiện được cung bậc cảm xúc, tình yêu thương mẹ mãnh liệt của bé Hồng. Câu chuyện đậm chất trữ tình được thể hiện rõ qua tình huống, nội dung và ngôn ngữ kể chuyện giàu cảm xúc, đầy chất thơ.
Chỉ với một phần trích ngắn ngủi nhưng cũng đủ để người đọc cảm nhận được tình cảm mẫu tử thiêng liêng, sâu sắc mà bé Hồng dành cho mẹ. Không chỉ vậy tác phẩm còn thể hiện niềm cảm thông, lên án những hủ tục phong kiến đã đẩy người phụ nữ vào con đường bất hạnh, cùng cực.
Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ – Mẫu 8
Nhẹ nhàng mà sâu lắng, văn Nguyên Hồng từ từ rót vào trái tim người đọc như dòng nước sống mát lành. Nguyên Hồng là thế, tự kể về cuộc đời của mình, để từ đó cảm xúc được đẩy lên một cách chân thực nhất. Ta sẽ tìm được dấu ấn ấy trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” Tập hồi kí “Những ngày thơ ấu” được viết năm 1938, và xuất bản năm 1940. Đó là câu chuyện về cậu bé Hồng, hay cũng của chính nhà văn.
Hồng là cậu bé phải chịu cảnh éo le, đáng thương: là kết quả của một cuộc hôn nhân tan vỡ, bố mất, mẹ bỏ đi nơi xứ người, Hồng sống trong cảnh lạnh lùng của gia đình bên nội. Em bị tiêm vào đầu những hủ tục, định kiến về chính người mẹ của em, để em đạp đổ đi tình yêu thương của mình. Ở chương IV- “Trong lòng mẹ”, ta có thể thấy sự cay nghiệt ấy qua lời nói của bà cô. Hoàn cảnh ấy làm em vừa đáng thương lại vừa đáng quý, vì em vẫn giữ vẹn nguyên tình thương dành cho mẹ.
Ở đoạn trích “Trong lòng mẹ”, ta nhận ra được nhiều điều: sự cay nghiệt của những định kiến một thời, sự tội nghiệp của những em bé, của những người phụ nữ sống trong thời đó. Trên hết, là một tình yêu thương của tâm hồn trẻ thơ trong trẻo. Một đoạn trích thật giàu giá trị biết chừng nào!Trước hết, ta tìm hiểu về cuộc nói chuyện giữa Hồng và người cô ruột. Không khó để ta nhận ra rằng, bà cô ấy luôn là người giữ thế chủ động, để liên tục tiêm nhiễm vào đầu đứa cháu những định kiến về mẹ nó.
Mở đầu bằng câu nói: – Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mợ mày không? Tưởng như là ý tốt đấy, nhưng trong câu nói lại chứa đầy giọng nham hiểm, và trên khuôn mặt là nụ cười rất kịch. Người cô ấy như muốn đào sâu thêm vào nỗi đau còn đang hở vết của Hồng, để đứa cháu phải đau khổ, phải dằn vặt. Nguyên Hồng gọi đó là “những rắp tâm tanh bẩn” của xã hội phong kiến một thời. Bà cô ấy luôn cố tình nhắc đến những chứ như “phát tài”, “em bé” để Hồng căm ghét mẹ nó, thấy mẹ nó là kẻ đáng khinh. Miệng lưỡi ấy, thật thâm độc, thật đáng khinh biết nhường nào. Bà cô chính là đại diện cho một xã hội phong kiến cổ hũ, bóp nghẹt lấy thứ hạnh phúc ít ỏi của con người ta mà Nguyên Hồng viết về tuổi thơ của mình, cũng là để lên án một chế độ.
Nhưng trong cuộc nói chuyện ấy, ta vẫn thấy một bé Hồng luôn giữ trọn một tín ngưỡng về người mẹ trong tâm hồn mình. Hồng nhanh chóng nhận ra ý định thâm độc của người cô, nên chỉ cúi đầu không đáp. Em căm ghét cái xã hội, cái hủ túc ấy đến nỗi: “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy ngay mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi.” Vì yêu thương mẹ, vì tủi hờn mà trong tâm hồn em đã nuôi sẵn sự căm túc, hận thù về xã hội đã thối nát này. Những giọt nước mắt của Hồng rơi, khiến ta cũng không khỏi rơi lệ trước nỗi đau của em. Nghe những từ “em bé”, “phát tài”, hay về hoàn cảnh thực tại của mẹ, em không hề mảy may ý định trách mẹ. Em thương mẹ vì phải chạy trốn, vì phải xa con, xa quê hương để sống một cuộc đời khác.
Tình yêu ấy thật lớn quá, nó giúp em đứng vững trước những định kiến cay nghiệt của người cô. Ở phần thứ hai của đoạn trích, là cảnh Hồng gặp lại mẹ, ta mới chợt nhận ra tình mẫu tử thiêng liêng đến chừng nào. Thoáng thấy bóng mẹ, em vội vã đuổi theo, như một người bộ hành trên sa mạc gặp được nguồn nước. Hình ảnh so sánh đã cho thấy rằng, người mẹ quan trọng với em đến nhường nào. Khi đã được sà vào lòng mẹ, những cảm xúc nguyên thuỷ nhất, trong trẻo nhất nổi dậy giữa hai mẹ con. Nước mắt em rơi lã chã, là nước mắt của tủi nhục, của nhớ nhung, và của cả niềm hạnh phúc. Em dịu đầu vào lòng mẹ, để mẹ xoa tóc xoa đầu, âu yếm vuốt ve. Em nhớ về những ngày xưa được áp mặt vào bầu sữa nóng, được mẹ đưa tay gãi rôm,…
Người mẹ khi ấy cũng không khỏi xúc động, sụt sùi nước mắt, lấy vạt áo nâu thấm nước mắt cho em. Người đàn bà dám chạy trốn định kiến để tìm hạnh phúc cho riêng mình, dẫu phải chịu những khó khăn tủi nhục cũng không quay về chốn ấy. Nay gặp lại con, người mẹ vẫn xúc động không nói nên lời. Giữa mẹ và con giờ đây, không còn những lời nói của người cô, những định kiến cay nghiệt, chỉ còn tình mẫu tử trọn vẹn thiêng liêng.Qua đoạn trích ấy, ta hiểu thêm được nỗi lòng của Nguyên Hồng.
Một con người với tuổi thơ đầy bất hạnh khổ đau, đã gửi gắm nỗi đau ấy vào trong trang viết. Bởi vậy mà đoạn trích hiện lên thật chân thực, làm rơi nước mắt của độc giả. Để làm được điều ấy, còn phụ thuộc vào tài năng của nhà văn. Ông phân tích được tâm lí nhân vật một cách sắc sảo, nhân vật hiện lên sống động như con người thực. Chính điều ấy làm cho tác phẩm sống mãi đến ngày hôm nay.
“Trong lòng mẹ” nói riêng và “Những ngày thơ ấu” nói chung, sẽ mãi còn ngân lên với đời những khúc thánh ca về tình yêu thương, tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt như vậy!
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 8: Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng Dàn ý & 8 bài văn mẫu lớp 8 hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.