Dàn ý bài Vợ nhặt mang đến 18 mẫu chi tiết và ngắn gọn kèm theo sơ đồ tư duy. Qua lập dàn ý Vợ nhặt các em học sinh lớp 12 có thêm nhiều tài liệu học tập, nắm được các luận điểm, luận cứ quan trọng để biết cách viết bài văn phân tích đầy đủ các ý.
Vợ nhặt của Kim Lân là tác phẩm rất hay đã thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945 vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng, sức mạnh hướng tới cuộc sống, tổ ấm trong cảnh khốn cùng. Vậy dưới đây là TOP 18 dàn ý Vợ nhặt chi tiết nhất, mời các bạn cùng đón đọc.
Dàn ý bữa cơm ngày đói trong Vợ nhặt
Dàn ý số 1
1. Mở bài
Giới thiệu về chi tiết bữa cơm gia đình: Một trong số những chi tiết ấn tượng, ý nghĩa nhất của truyện ngắn “Vợ nhặt” là chi tiết về mâm cơm ngày đói với sự xuất hiện của món cháo Cám.
2. Thân bài
– Bữa cơm ngày đói:
- Là một bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn với một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng.
- Món cháo cám xuất hiện như một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị trong ngày đầu tiên con dâu về nhà.
– Hương vị món cháo cám: miếng cháo đắng chát nghẹn ứ nơi cổ.
– Ý nghĩa: Làm tăng giá trị hiện thực khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra.
=> Trong nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành món ăn, món quà đặc biệt. Làm nổi bật sức sống mạnh mẽ bên trong những con người nghèo khổ.
3. Kết bài
Qua chi tiết mâm cơm ngày đói, đặc biệt qua hình ảnh nồi cháo cám đã thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với khát khao sống chính đáng ở những người nông dân nghèo.
Dàn ý số 2
a. Mở bài:
– Khái quát về tác giả Kim Lân và nêu được những nội dung chính của tác phẩm Vợ nhặt.
– Nêu được ý nghĩa chi tiết bữa cơm ngày đói trong tác phẩm: Một trong số những chi tiết ấn tượng, ý nghĩa nhất của truyện ngắn Vợ nhặt là chi tiết về mâm cơm ngày đói với sự xuất hiện của món cháo Cám.
b. Thân bài:
– Phân tích bữa cơm ngày đói:
- Đây là một bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn với một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng.
- Món cháo cám xuất hiện như một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị trong ngày đầu tiên con dâu về nhà.
- Hương vị món cháo cám: miếng cháo đắng chát nghẹn ứ nơi cổ.
– Ý nghĩa của bữa cơm ngày đói
- Qua chi tiết này làm tăng giá trị hiện thực khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra.
- Trong nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành món ăn, món quà đặc biệt.
- Từ đó làm nổi bật sức sống mạnh mẽ bên trong những con người nghèo khổ.
c. Kết bài:
– Khẳng định đây là một chi tiết nghệ thuật đắt giá
– Thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với khát khao sống chính đáng ở những người nông dân nghèo.
Dàn ý phân tích nhân vật Tràng sáng hôm sau
I. Mở bài
– Giới thiệu về nhà văn Kim Lân, cùng truyện ngắn “Vợ nhặt”.
– Giới thiệu khái quát về nhân vật Tràng trong truyện.
II. Thân bài
1. Giới thiệu đôi nét về Tràng
– Người dân xóm ngụ cư: cha mất sớm, sống cùng mẹ già trong căn nhà tồi tàn.
– Nghề nghiệp: kéo xe bò thuê.
– Ngoại hình: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, lại thô lỗ…
2. Tóm tắt lại truyện đến đoạn sáng hôm sau
Tràng – một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình đổi khác.
3. Phân tích Tràng trong đoạn sáng hôm sau
a. Buổi sáng tỉnh dậy
- Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo…).
- Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
b. Trong bữa cơm đầu tiên sau khi có vợ
- Khi bà cụ Tứ bàn về tương lai, Tràng chỉ vâng rất ngoan ngoãn khiến cho không khí trong gia đình ấm áp, hòa hợp mà trước giờ chưa từng thấy.
- Khi cầm bát cháo cám đưa lên miệng, hắn chun mặt lại vì chao chát nhưng khi nghe cô thị kể về việc người dân mạn trên đi phá kho thóc Nhật, trong ý nghĩ của hắn hiện lên hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.
=> Người vợ đã khiến Tràng thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp.
III. Kết bài
Khái quát lại tâm trạng của nhân vật Tràng sau khi lấy vợ, khẳng định lại giá trị của tác phẩm Vợ nhặt.
Dàn ý phân tích tác phẩm Vợ nhặt
Dàn ý số 1
I. Mở bài:
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
- Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.
II. Thân bài:
1. Ý nghĩa nhan đề
“Vợ nhặt”: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.
2. Tình huống truyện
– Tình huống: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.
– Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
– Tình huống éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) không cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.
3. Nhân vật Tràng
– Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …, bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
– Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
– Lần gặp 2:
- Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
- Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
- Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.
b. Trên đường về
- Vẻ mặt “có cái gì hớn hở khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, … Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
- Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà
- Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
- Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
- Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
- Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy
- Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
- Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
– Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
4. Nhân vật người vợ nhặt
a. Lai lịch
– Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
– Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.
b. Chân dung
– Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
– Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
– Lần thứ hai:
- Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
- Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
– Nhận xét: Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.
c. Phẩm chất
– Có khát vọng sống mãnh liệt:
- Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
- Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
– Thị là người ý tứ và nết na:
- Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
- Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
- Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
- Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
- Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
– Nhận xét: Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
– Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
– Nêu cảm nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.
5. Nhân vật bà cụ Tứ
- Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhòa đi”: thương cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, …
- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.
III. Kết bài:
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
>> Xem thêm: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt
Dàn ý số 2
I. Mở bài
Giới thiệu nhà văn Kim Lân và Vợ nhặt: Kim Lân là nhà văn vô cùng thành công khi viết về đề tài người nông dân nghèo. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông chính là truyện ngắn Vợ nhặt.
II. Thân bài
1. Nhân vật anh Tràng
a. Lai lịch, ngoại hình
– Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.
– Ngoại hình xấu xí, thô kệch: “hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Đầu cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch”.
b. Tính cách
– Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy.
– Tràng là người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng: Ban đầu không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua hai hào dầu thắp sáng trong đêm đầu có vợ.
– Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm: Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ đến cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm.
=> Tiểu kết:
– Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám.
– Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng là anh phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống động với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động bằng ngòi bút sắc sảo.
– Qua nhân vật Tràng, nhà văn phản ánh mặt đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo với vẻ đẹp tâm hồn của họ.
2. Nhân vật người vợ nhặt
a. Hoàn cảnh, ngoại hình
– Một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình.
– Không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy sọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.
b. Tính cách
– Trong lần gặp gỡ: Cong cớn, chỏng lọn, chua ngoa… Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái độ. Cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”.
=> Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống, khao khát được hạnh phúc.
– Trên đường trở về nhà với Tràng:
- Thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng.
- Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không.
– Khi về đến nhà Tràng:
- Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, dáng điệu khép nép, ngại ngùng. Thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
- Sau đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm…
- Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Cách cư xử tinh tế, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm thông.
- Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật. Bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém và tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
3. Nhân vật bà cụ Tứ
– Sự ngạc nhiên của cụ khi Tràng dắt vợ về:
- Về đến nhà, thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà còn thưa u. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình xấu xí, nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó khăn.
- Bà cụ vẫn không tin vào những gì con trai mình nói “Kìa nhà tôi nó chào u”… “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”…
- Bà vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
– Tâm trạng vừa mừng vừa tủi của bà cụ:
- Khi biết rằng con bà “nhặt” được vợ: bà vui vì con đã an bề gia thất, buồn phận làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con và bà nghĩ đến chồng, đến con gái lại càng trở nên buồn hơn.
- Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo túng quẫn: Bà không biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng con đã có vợ. Bà khóc vì thương con không biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.
– Nỗi lo của bà cụ Tứ: Bà lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình không biết phải qua những ngày khó khăn này như thế nào. Người mẹ ấy khuyên con, khuyên dâu cùng nhau thương nhau, cố gắng vươn lên.
– Niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống của cụ Tứ:
- Bà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho khá…”
- Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa.
- Vui trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên có con dâu.
- Bà vẫn luôn tạo một không khí ấm cúng cho bữa ăn để con dâu đỡ tủi.
=> Người mẹ nghèo từng trải đời, hết mực yêu thương con, luôn lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn. Bà cụ Tứ là đại diện cho người mẹ Việt Nam cần mẫn, mộc mạc, giản dị, giàu tình yêu thương và đức hi sinh
III. Kết bài
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm vô cùng thành công của Kim Lân. Với những giá trị, ý nghĩa, thông điệp sâu sắc của mình, tác phẩm đã gây nhiều dấu ấn quan trọng trong lòng bạn đọc.
Dàn ý số 3
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp. Ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động. “Vợ nhặt” rút từ tập “Con chó xấu xí”, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.
II. Thân bài
1. Ý nghĩa nhan đề
– Trước hết, từ “vợ” là một danh từ thiêng liêng, dùng để chỉ người phụ nữ trong mối quan hệ được pháp luật công nhận với “chồng”. Theo phong tục, vợ chồng chỉ được công nhận khi có sự chứng kiến của họ hàng, làng xóm. Còn “nhặt” là hành động cầm vật bị đánh rơi lên.
– Kim Lân đã sáng tạo ra một nhan đề độc đáo. Vì người ta chỉ nói “nhặt” được một món đồ nào đó. chứ không ai nhặt được một con người về làm vợ bao giờ cả. Nhưng qua đó, nhà văn đã thể hiện được cảnh ngộ thê thảm của con người lúc bấy giờ.
– Nhan đề “Vợ nhặt” trước hết khái quát được tình huống của truyện. Đồng thời đó cũng lời kết án đanh thép của Kim Lân đối với chế độ thực dân đã đẩy người nông dân vào tình cảnh nghèo đói, người “chết như ngả rạ”.
– Nhan đề “Vợ nhặt” có tính khái quát cao, hoàn cảnh của Tràng chỉ là một trong số đó. Đồng thời, qua nhan đề nhà văn cũng thể hiện sự đồng cảm xót xa cho cảnh ngộ của người nông dân trong nạn đói năm 1945.
2. Tình huống truyện
– Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.
– Tình huống độc đáo, bất ngờ: với Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
– Tình huống éo le: Hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) không cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.
3. Nhân vật Tràng
a. Hoàn cảnh gia đình
– Xuất thân: Dân xóm ngụ cư, cha mất sớm, sống với mẹ già trong một căn nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh…
– Ngoại hình: “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về…
b. Hành động và tâm trạng
* Khi gặp gỡ người vợ nhặt
– Lần gặp 1: Lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
– Lần gặp 2:
- Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
- Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
- Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.
* Trên đường về
– Vẻ mặt “có cái gì hớn hở khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”… Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
– Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà
– Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
– Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay. Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
– Khi bà cụ Tứ về: Thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lý do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
* Sáng hôm sau khi tỉnh dậy
– Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo…). Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
– Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
=> Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
4. Nhân vật người vợ nhặt
a. Lai lịch
– Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
– Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.
b. Chân dung
– Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
– Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
– Lần thứ hai: Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”. Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
=> Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.
c. Phẩm chất
– Có khát vọng sống mãnh liệt:
- Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
- Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
– Thị là người ý tứ và nết na:
- Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
- Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
- Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
- Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
- Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
=> Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
– Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hy vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
– Nêu cảm nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.
5. Nhân vật bà cụ Tứ
– Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
– Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
– Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhòa đi”: thương cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
– Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, …
– Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.
III. Kết bài
– Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
Dàn ý chi tiết tình huống truyện Vợ nhặt
Dàn ý số 1
a) Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Giới thiệu và đánh giá về tình huống truyện trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân.
b) Thân bài
* Khái niệm về tình huống truyện
- Tình huống truyện là diễn biến của sự việc, sự phức tạp của tình tiết; là cái éo le, nghịch lí ở đời. Sự việc, câu chuyện trong tác phẩm “xảy ra như thế mà ta cứ ngỡ không phải thế”.
- Tình huống càng lạ bao nhiêu thì truyện càng hay, hấp dẫn bấy nhiêu.
* Tình huống truyện độc đáo trong “Vợ nhặt”
– Đó chính là việc anh cu Tràng “nhặt” được vợ được xem là một tình huống đầy kịch tính, xưa nay chưa từng có; vừa lạ lại vừa éo le mà Kim Lân đã phát hiện và thể hiện rất hay và lạ.
– Lạ:
+ Người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí lại có vợ theo:
- Xấu xí
- Tính cách có phần hơi dở hơi
- Nghèo, dân ngụ cư
-> Ở Tràng hội tụ đầy đủ những yếu tố để khó, thậm chí không lấy được vợ.
+ Giữa lúc đói khát, nuôi thân còn chẳng xong vậy mà Tràng lại dám “đèo bòng”, “rước cái của nợ đời ấy về”.
+ Tràng lấy được vợ, nhặt được vợ âu cũng chỉ qua hai lần gặp tình cờ, chỉ với mấy câu nửa đùa nửa thật vậy mà người đàn bà đã theo Tràng về
-> Cái công việc mà xưa nay người ta vẫn cho là khó lại vô cùng tình cờ, dễ dàng đối với Tràng.
– Éo le:
+ Tràng lấy vợ là việc được hưởng cái hạnh phúc lớn nhất của một đời người giữa cảnh “tối sầm lại vì đói khát”, giữa cái lúc mà cái chết và sự sống ranh giới mong manh, tưởng như âm – dương không có sự cách biệt.
-> Chen vào hạnh phúc là nỗi lo chạy trốn cái đói, nỗi lo níu kéo sự sống.
+ Duyên cớ để đưa họ đến với nhau cũng thật buồn lòng: đó là cái đói. Ở đây, mấy bát bánh đúc thay cho trầu cau dẫn cưới. Nếu không vì cái đói đưa đẩy thì Tràng cũng khó lòng lấy được vợ
-> Sự thật đáng buồn.
* Phản ứng của mọi người trước sự kiện Tràng có vợ
– Những người dân trong xóm ngụ cư:
- “Người trong xóm lạ lắm”, họ “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán” -> Ngạc nhiên tột độ.
- Sự kiện lạ lùng ấy đem đến một “cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối” của họ, làm những khuôn mặt “hốc hác, u tối” bỗng dưng “rạng rỡ hẳn lên”.
- Họ “cười rung rúc” rồi có người thở dài.
- Tất cả cùng “nín lặng” khi có người nói “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”
– Bản thân Tràng:
- Mọi chuyện nhanh chóng quá đến mức chính Tràng – người trong cuộc cũng cảm thấy ngạc nhiên.
- Nhìn thị ngồi giữa nhà mà Tràng “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”
– Bà cụ Tứ – mẹ Tràng:
+ Vô cùng ngạc nhiên trước thái độ vồn vã, khác thường của đứa con trai
+ Bà “hấp háy hay con mắt nhìn Tràng” rồi băn khoăn hỏi Tràng “Có việc gì thế vậy?”
+ Ngạc nhiên khi nhìn thấy người đàn bà trong nhà:
- Bà “đứng sững lại”
- Trong đầu bà cụ hiện lên một loạt những câu hỏi: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?”, “sao lại chào mình bằng u?”…
=> Băn khoăn, ngạc nhiên.
+ Khi đã hiểu rõ cơ sự bà lão “cúi đầu nín lặng”, thương xót cho số kiếp đứa con mình.
+ Bà cụ Tứ cảm thấy tủi thân, xót xa vì chưa làm tròn bổn phận làm cha mẹ “người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này, còn mình thì…” -> Độc thoại nội tâm thể hiện tâm lí nhân vật.
+ Sau đó là “mừng lòng”, chấp nhận con dâu, khuyên nhủ các con đầy lạc quan…
* Ý nghĩa của tình huống truyện
– Tình huống truyện là một trong những yếu tố để làm nổi bật chủ đề tác phẩm đồng thời tạo điều kiện cho nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật.
– Tạo cho tác phẩm có được kết cấu chặt chẽ. Các sự việc, các chi tiết khác được kể tới đều xoay quanh tình huống này.
– Tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít đẩy con người đến bước đường cùng, biến giá trị con người thành số không.
– Thể hiện được cái tình của người lao động nghèo và tấm lòng nhân hậu đầy yêu thương của bà mẹ
– Nói lên được lòng ham sống, bản chất lạc quan của người lao động đang bị lâm vào cảnh khốn cùng.
c) Kết bài
- Khái quát ý nghĩa của tình huống nhặt vợ đối với tác phẩm
- Cảm nhận tình huống truyện
Dàn ý số 2
1. Mở bài
- Nạn đói năm 1945 cướp đi hơn hai triệu đồng bào ta.
- Kim Lân đã dựng lên một tác phẩm với một tình huống truyện đặc sắc miêu tả con người trong nạn đói này.
2. Thân bài
a. Tình huống truyện là gì?
- Là sự kiện đặc biệt, hoàn cảnh đặc biệt trong tác phẩm mà qua đó tác giả muốn bộc lộ quan điểm của mình cũng như tính cách, số phận của các nhân vật.
- Tình huống truyện là hạt nhân, lát cắt chân thực của cuộc sống, từ đó cho ta thấy một phần của cuộc sống, xã hội, con người
b. Tình huống truyện trong Vợ nhặt:
- Được thể hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm.
- Nội dung: Một anh cu Tràng xấu trai, nghèo lại “nhặt” được cô vợ giữa lúc nạn đói năm 1945 đang hoành hành dữ dội.
- Nhan đề với từ “nhặt”: gợi lên sự tò mò, hấp dẫn cho tác phẩm đồng thời cũng là nét độc đáo, gây ấn tượng sâu sắc.
c. Phân tích tình huống truyện:
– Bối cảnh của tình huống truyện:
- Bối cảnh là nạn đói năm 1945 với kết quả hơn hai triệu người chết.
- Mỗi câu từ trong tác phẩm đều gợi lên sự u ám, cái chết luôn rình rập.
– Tình huống truyện vừa độc đáo, lạ lùng vừa éo le:
* Lạ lùng: Trong bối cảnh đầy run rủi ấy, con người còn chẳng thể lo nổi cho bản thân, ấy vậy mà anh cu Tràng còn rước về một cô vợ.
- Tràng: hội tụ tất cả những yếu tố khó có thể lấy vợ: ngoại hình xấu xí “cái mặt thô kệch”, “đôi mắt nhỏ tí”, “cái lưng to như lưng gấu”, … cùng với tính cách có phần cộc cằn, thô lỗ.
- Nghèo: đi làm thuê nuôi mẹ già, có một căn nhà lụp xụp ở một xóm ngụ cư.
- Và quan trọng là nạn đói đang diễn ra trầm trọng, cái chết đeo bám mỗi con người “Người chết như ngả rạ”, “Không buổi sáng …của xác người”.
=> Với ngoại hình, tính cách, gia cảnh và tình cảnh như hiện tại, Tràng không thể kiếm được một cô vợ.
+ Thế nên, chuyện Tràng lấy vợ ở hoàn cảnh hiện tại không khác gì “đèo bòng”, “rước của nợ đời”.
=> Ấy thế mà Tràng lại có vợ trong lúc không ai ngờ nhất, trong hoàn cảnh mà cuộc sống đang phải giành giật từng ngày => cái lạ của tình huống truyện.
* Cái éo le:
- Việc lấy vợ là chuyện đại sự, là hạnh phúc lớn nhất của đời người lại diễn ra trong lúc “tối sầm vì đói khát”, bị chen ngang bởi nỗi lo bởi cái đói, cái chết.
- Duyên phận đưa đẩy họ đến với nhau cũng là cái đói: Thị gặp hắn lần đầu khi hắn kéo thóc qua dốc, chỉ với câu hò vu vơ, thị đã “ton ton” chạy lại cũng đẩy xe với hắn.
- Lần thứ hai gặp lại, Tràng không nhận ra Thị bởi “hôm nay Thị …xám xịt”. Và chỉ bằng vài bát bánh đúc và một câu nói đùa, Thị đã bằng lòng theo hắn về nhà làm vợ.
– Phản ứng của mọi người khi Tràng lấy vợ:
- Những người dân xóm ngụ cư:
- Họ ngạc nhiên “Người trong xóm lạ lắm”, “Họ đứng …bàn tán”.
- Thế rồi họ hiểu và vui mừng thay cho Tràng, “Những khuôn mặt …hẳn lên”, “có người …rúc”.
- Thế nhưng có những người lại thở dài ngao ngán “Ôi chao, … này không”, bởi họ lo cho Tràng cho Thị, lo cái chết sẽ tìm đến những con người nghèo như họ.
* Đối với Tràng:
- Ban đầu là sự ngạc nhiên khi chỉ bằng một câu nói đùa “này nói đùa …cùng về” với dăm ba bát bánh đúc mà Thị đã bằng lòng theo Tràng về nhà.
- Tiếp theo là nỗi sợ hãi, cái “chợn”: “Nói thế Tràng …thật”, “Thóc gạo …đèo bòng” , thế nhưng nỗi sợ ấy qua nhanh Tràng “chặc lưỡi: chặc, kệ”
- Sự vui mừng khi cái khao khát về hạnh phúc gia đình được hiện thực hóa “hắn tủm tỉm … lấp lánh”, nhìn Thị “ngượng nghịu…chân kia”, hắn thích chí “cười khanh khách”.
- Nỗi sợ về cái đói, cái chết đã bị niềm hạnh phúc gia đình, cái trách nhiệm đẩy lùi “Trong một lúc Tràng hình như …đi bên”.
- Niềm hạnh phúc ấy khiến Tràng cứ ngỡ không có thật “hắn vẫn …không phải”.
=> Niềm vui, niềm hạnh phúc đến với Tràng bất ngờ, nhanh chóng, trong lúc đói khát nhất, trong hoàn cảnh éo le nhất.
* Bà cụ Tứ:
- Bà vô cùng ngạc nhiên trước thái độ của Tràng, băn khoăn hỏi han.
- Bà càng ngạc nhiên hơn khi thấy một người đàn bà khác trong nhà mình và chào bà bằng u “quái sao …thế kia?” => bà ngạc nhiên vô cùng.
- Thế rồi khi nghe Tràng nói, bà “cúi đầu nín lặng”, bà “vừa ai oán … con mình” =>Sự tủi phận của một người mẹ không làm tròn được bổn phận của mình “Chao ôi …còn mình thì …”
- Rồi bà cũng “mừng lòng”, vui lòng với người dâu mợi, khuyên nhủ hai đứa con với những lời lẽ lạc quan “Nhà ta nghèo …ba đời”.
- Những giọt nước mắt của người mẹ già thương con “Chúng mày …thương quá!”.
– Ý nghĩa của tình huống truyện:
- Làm nổi bật chủ đề của tác phẩm, đồng thời tạo điều kiện để nhà văn khai thác nội tâm các nhân vật.
- Kim Lân đã dựng lên một tình huống truyện độc nhất vô nhị: làm nổi bật tình cảnh của con người trong nạn đói năm 1945, vừa thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những số phận tăm tối của con người trước Cách mạng tháng Tám.
- Tình huống truyện éo le gieo vào lòng người đọc những cảm xúc khó tả.
– Truyện mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc:
– Về giá trị hiện thực:
- Tình cảnh người dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945
- Cái đói dồn đuổi con người, bóp méo nhân cách, biến những hạnh phúc đẹp đẽ nhất trở nên mỏng manh.
- Tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít
- Giá trị nhân đạo:
- Tình người đẹp đẽ qua cách ứng xử của các nhân vật
- Gieo vào lòng người niềm hi vọng về một tương lai tốt đẹp phía trước nơi có ngọn cờ Cách mạng.
3. Kết bài
– Khẳng định lại vấn đề
>> Xem thêm: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Dàn ý phân tích nhân vật bà cụ Tứ
Dàn ý chi tiết số 1
I. Mở bài
– Vợ nhặt là một tác phẩm nổi tiếng của Kim Lân
– Cụ tứ là một trong những nhân vật của tác giả
– Một hiện thân của người dân nghèo thời kì khó khăn
– Là nhân vật trọng tâm của cả bài
– Tâm trạng diễn biến phức tạp
II. Thân bài
1. Sự ngạc nhiên của cụ khi a Tràng dắt vợ về
– Con trai lấy vợ trong lúc bấy giờ rất khó khăn, với người như anh không dễ gì có vợ, nên cụ ngạc nhiên
– Bà cụ ngạc nhiên vì con mình xấu xí, nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó khăn
– Khi làm về, thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà còn thưa u
– Bà cụ vẫn không tin vào những gì con trai mình nói “Kìa nhà tôi nó chào u”. Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”
– Bà vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra
2. Tâm trạng vừa mừng vừa tủi của bà cụ
– Khi biết rằng con bà “ nhặt” được vợ, bà nghĩ đến chồng, đến con gái trở nên buồn hơn
– Vui vì con đã an bề gia thất, buồn phận làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con
– Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn
– Bà không biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng con đã có vợ
– Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó khăn này.
– Bà cụ xót thương cho con dâu, buồn tủi cho nhà mình
3. Nỗi lo của bà cụ Tứ
– Bà lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình không biết phải qua những ngày khó khăn như thế nào
– Bà chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương nhau, vượt qua khó khăn
– Nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm đối với mình
4. Niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống của cụ Tứ
– Bà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho khá…”
– Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa
– Vui trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên có con dâu
– Bà vẫn luôn tạo một không khí ấm cúng cho bữa ăn để con đâu đỡ tủi
III. Kết bài
– Nghệ thuật đặc sắc trong diễn biến tâm trạng nhân vật
– Tác phẩm có nội dung nhân đạo sâu sắc và cảm động
Dàn ý chi tiết số 2
I. Mở bài
Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta mà tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút nhân đạo của Kim Lân vừa thể hiện ở sự phát hiện khẳng định vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài xác xơ vì đói khổ của nhân vật.
Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ, Tràng và người đàn bà vợ Tràng), cụ Tứ, mẹ Tràng, là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng di thể hiện nổi bật nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động trong tác phẩm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã diễn tả rất thành công trạng thái tâm lí đó
II. Thân bài
1. Sự ngạc nhiên đến sững sờ
Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong. Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm miệng ăn. Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn bà chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u”..”Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không còn tin được vào mắt và tai mình : “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhòe thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu”.
2. Vừa mừng vừa tủi
– Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà liên tưởng đến bao cơ sự “ai oán” “xót thương” cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.
– Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói “như ngả rạ” lại có người theo con trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, đế trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó khăn này.
“Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!…” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu thương chân thành tha thiết của người mẹ thể hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy.
– Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng ngổn ngang trong lòng.
3. Nỗi lo
Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng của bà giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao. Bà chấp nhận cái “hạnh phúc” éo le của gia đình. Ngẫm cái phận nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..”. Bà chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau, ăn ở hòa thuận với nhau để cùng vượt qua cơn khốn khó. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm đối với mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin.
4. Niềm tin
– Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của cụ. Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.
+ Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn: chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này”.
+ Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch vườn. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”.
+ Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu liên có con dâu đó là một bữa “tiệc với món cháo loãng và món “chè khoái” đắng chát – một bữa ăn ngày đói rất thảm hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.
– Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt đến tàn bạo đã đầy đọa mẹ con bà. Bà vẫn cố tạo không khí hòa thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà tươi cười đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.
Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái tăm tối hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết đói. Bà cụ nghĩ đến ông lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dặc dặc của mình, đến cái “đói to” trước mắt. Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con dâu.
Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí truyền thống:
Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” ‘”bà vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung nấu một khái vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
III. Kết bài
Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp – dưới ngòi bút nhân đạo của Kim Lân – nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt” đã động chạm đến nơi sâu thẳm nhất của lòng người, bắt độc giả phải khóc, phải cười, phải sống cùng nhân vật của mình.
Dàn ý chi tiết số 3
1. Mở bài
– Giới thiệu những nét khái quát về tác giả Kim Lân (đặc điểm về con người, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách nghệ thuật,…)
– Giới thiệu những nét khái quát về truyện ngắn “Vợ nhặt” (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ của tác phẩm, những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật,…)
– Giới thiệu vấn đề cần phân tích: Tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt”.
2. Thân bài
a. Giới thiệu những nét khái quát về nhân vật bà cụ Tứ
– Tuy không xuất hiện nhiều trong tác phẩm như nhân vật Tràng song nhân vật bà cụ Tứ vẫn để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.
– Ngoại hình của nhân vật bà cụ Tứ hiện lên thật nghèo khổ, lam lũ, cơ cực: “dáng người lọng khọng”, “vừa đi vừa húng hắng ho, vừa lẩm bẩm tính toán”.
b. Diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ
– Khi trở về nhà, nhìn thấy Tràng cùng người vợ nhặt ở nhà, trong lòng bà cụ Tứ hiện lên một nỗi ngạc nhiên đến khôn cùng, hàng loạt câu hỏi hiện lên trong bà.
→ Bà cụ Tứ không hiểu, không biết người đàn bà kia là ai không phải vì bà không hiểu mà bởi bà lão ngạc nhiên, không ngờ và không dám tin rằng con trai mình lại có vợ trong những ngày nạn đói diễn ra khủng khiếp.
– Bà lão hiểu và bà hiểu ra bao nhiêu điều khác nữa:
+ Bà đã tin rằng Tràng đã có vợ
+ Ai oán, xót thương cho con, cho thị và cho cả chính bà.
+ Bà lão khóc, bà khóc vì thương con, vì lo cho con và vì bà chưa làm tròn trách nhiệm của một người mẹ nhưng có lẽ đó còn là những giọt nước mắt của niềm vui, niềm hạnh phúc khi con trai bà có vợ.
+ Bà mở lòng đón nhận nàng dâu mới
→ Bà cụ Tứ không chỉ là một người giàu lòng yêu thương con mà còn rất giàu tình yêu thương con người.
– Sáng hôm sau:
+ Gương mặt rạng rỡ hẳn lên, nó “nhẹ nhõm, tươi tỉnh hơn ngày thường”.
→ Gương mặt ấy của bà đã toát lên bao niềm vui mừng, phấn khởi và hạnh phúc.
+ Trong bữa cơm sớm hôm ấy, dù thật thiếu thốn nhưng bà nói toàn “chuyện vui, chuyện sung sướng” về sau.
→ Những câu chuyện ấy cùng với niềm vui, niềm tin đang len lỏi trong tâm trí bà như đã thắp sáng lên trong lòng Tràng và người vợ nhặt niềm lạc quan, yêu đời
3. Kết bài
Khái quát những nét đặc sắc về nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” và nêu cảm nghĩ của bản thân.
>> Xem thêm: Phân tích nhân vật Bà cụ Tứ
Dàn ý phân tích nhân vật Tràng
Dàn ý số 1
I. Mở bài
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
- Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh
- Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …
- Hoàn cảnh bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …
2. Tâm trạng và hành động
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
– Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
– Lần gặp 2:
- Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
- Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
- Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.
b. Trên đường về:
- Vẻ mặt “có cái gì phơn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”. Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.
- Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà:
- Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
- Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
- Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
- Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:
- Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
- Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
– Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
III. Kết bài
- Nêu suy nghĩ về nhân vật Tràng.
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
Dàn ý số 2
I. Mở bài: giới thiệu vấn đề cần phân tích
II. Thân bài
1. Khái quát
- Kim Lân – nhà văn chuyên về truyện ngắn. Ông rất am hiểu văn hóa nông thôn và tâm lý người dân quê.
- Ngòi bút Kim Lân thường thiên về cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người nhân hậu, giàu nghĩa tình, biết yêu thương, đùm bọc, sẻ chia và giàu niềm tin vào tương lai.
- Truyện ngắn “Vợ nhặt” trích từ tập “Con chó xấu xí” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm là bức tranh chân thực và cảm động về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Thông qua các nhân vật bà cụ Tứ, Tràng, cô vợ nhặt tác giả Kim Lân đã làm bừng sáng vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm – đó là vẻ đẹp tình người trong nạn đói.
2. Phân tích nhân vật
2.1. Tràng là anh nông phu nghèo khổ, kém duyên
- Anh hiện lên với thân phận nghèo hèn: là dân ngụ cư bị khinh rẻ; nhà cửa thì “rúm ró” lụp xụp, rách nát, tuềnh toàng. Nghề nghiệp thấp kém, bấp bênh, chỉ là anh phu xe với đồng lương chẳng đáng là bao.
- Đã vậy, anh còn có một ngoại hình thô kệch, xấu xí: “đầu trọc nhẵn”, “mắt nhỏ tý lại còn gà gà”, “quai hàm bạnh”, “lưng to như lưng gấu”. Tính cách thì ngờ nghệch, vô tư, chỉ thích chơi với trẻ con.
- Nghèo khổ cộng với ngoại hình xấu xí đã khiến Tràng chẳng còn có gì để hấp dẫn.
2.2. Tràng là người đàn ông nhân hậu, tốt bụng, cởi mở, sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn trong tình huống truyện độc đáo – tình huống Tràng nhặt vợ.
- Gặp lại người con gái đẩy xe bò giúp anh lần trước, Tràng không khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm của người đồng cảnh ngộ: “quần áo rách như tổ đỉa, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cái đói cũng khiến người con gái chẳng còn biết giữ thể diện là gì, cứ thế mà trơ trẽn, nanh nọc, thô thiển, bất chấp tất cả để được ăn. Tràng động lòng thương, bởi Tràng cảm nhận được sự đói khát cùng đường ở người đàn bà ấy.
- Lòng thương đã đánh thức con người nhân hậu trong Tràng. Anh hào hiệp, cởi mở, phóng khoáng, đãi người đàn bà xa lạ đến bốn bát bánh đúc. Đó là lòng thương người đồng cảnh ngộ, là vẻ đẹp tình người trong nạn đói. Tài liệu thầy Phan Danh Hiếu
- Khi lời bông đùa của Tràng trở thành cái phao cứu sinh của người đàn bà giữa biển đời mênh mông; Tràng có “trợn”, có lo lắng, có hoang mang về tương lai của mình. Nhưng lòng thương người, khát vọng được gắn bó với người đàn bà xa lạ đã khiến anh chiến thắng cả lý trí của mình, để rồi nhanh chóng trở thành chỗ dựa cho người đàn bà. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
2.3. Tràng là người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức chăm sóc, vun vén cho hạnh phúc gia đình.
- Đồng ý cưu mang người đàn bà xa lạ khiến Tràng trở nên chín chắn, biết lo lắng, quan tâm chăm sóc. Anh “bỏ tiền mua cho thị cái thúng con, trong đựng vài thứ lặt vặt”. Chăm sóc từ cái nhỏ nhặt như thế cũng chứng tỏ Tràng rất tâm lý. Mua cho thị cái thúng là để thị tự tin hơn khi về nhà chồng, vả lại ai lại để vợ mình về nhà bằng tay không bao giờ. Anh còn mua hai hào dầu thắp sáng. Hai hào dầu có thể là “hoang phí” vào lúc này, nhất là khi “chẳng có nhà nào có ánh đèn lửa”. Nhưng nó mang lại giá trị tinh thần rất lớn, cho thấy, Tràng rất trân trọng giá trị của hạnh phúc, trân trọng người vợ. Với hai hào dầu phải chăng Tràng cũng muốn thắp sáng cả tương lai của mình. Điều đó cũng cho thấy, Tràng không còn hời hợt nông cạn nữa mà đã thực sự nghiêm túc, chu đáo trước quyết định lấy vợ.
- Trên đường “dẫn dâu về nhà chồng”: Tràng hiện lên với hình ảnh “mắt sáng lên lấp lánh”, cái mặt “phớn phở”. Tất cả đều biểu lộ niềm vui, niềm hạnh phúc lâng lâng của một con người lần đầu tiên được đón nhận tình yêu.
- Khi thưa chuyện với mẹ, Tràng tạo ra không khí gia đình ấm áp, thiêng liêng. Tràng cảm nhận được việc lập gia đình là việc hệ trọng, là chuyện cả đời. Anh khéo léo khi gọi người đàn bà xa lạ là “nhà tôi”; tránh làm vợ tổn thương bằng cách gọi mối lương duyên này là “do số”. Anh cũng khéo léo “ép” mẹ mình phải chấp nhận cuộc hôn nhân.
– Tràng không còn thô kệch, vụng về nữa mà trở thành người có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình. Điều đó thể hiện rõ ở tâm trạng của anh vào sáng hôm sau:
- Tâm trạng lâng lâng hạnh phúc: “lửng lơ êm ái như vừa đi từ trong giấc mơ ra”. Chuyện lấy vợ của Tràng giống như cổ tích, giống như giấc mơ nhưng là giấc mơ có thật. Tài liệu thầy Phan Danh Hiếu
- Quan sát xung quanh, Tràng cảm nhận được sự thay đổi mới mẻ. Nhà cửa được bàn tay đảm đang của người vợ vun vén đã trở nên gọn gàng. Người mẹ đang giãy những bụi cỏ dại, người vợ đang quét lại cái sân. Cảnh tượng sinh hoạt gia đình bình dị khiến Tràng cảm động.
- Tình cảm, suy nghĩ của Tràng có nhiều thay đổi. Lần đầu tiên ở người nông phu ấy thấy yêu thương gắn bó với căn nhà; thấy cần có trách nhiệm với gia đình. Đó là những suy nghĩ chín chắn của người đàn ông trưởng thành chứ không còn là một anh Tràng ngốc nghếch, khờ khạo trước đó.
- Tràng trở nên lễ phép, ngoan ngoãn, luôn biết vâng lời trước mẹ là biểu hiện của lòng hiếu thảo. Điều này cũng đã được Kim Lân nhắc đến trong tác phẩm “chưa bao giờ mẹ con lại đầm ấm hòa hợp đến thế”.
- Tràng có niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng. Trong hình ảnh “đoàn người đói, lá cờ đỏ”, tác giả Kim Lân đã gián tiếp nói về nhận thức cách mạng và nhận thức về sự đổi đời của Tràng. Tác giả dự báo, Tràng sẽ xuất hiện dưới lá cờ đó, trong đoàn người đó. Bởi muốn thay đổi được cuộc sống hiện tại, không còn con đường nào khác ngoài con đường đi theo cách mạng, bởi chỉ có cách mạng mới có thể mang lại sự đổi đời cho những người nông dân.
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Xây dựng nhân vật bằng bút pháp miêu tả, phân tích tâm lý chân thực, tinh tế. Khắc họa nhân vật bằng ngôn ngữ đối thoại sống động, giàu cá tính. Xây dựng tình huống truyện độc đáo, bất ngờ. Ngôn ngữ kể tự nhiên, mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân. Giọng kể hồn hậu, hóm hỉnh, giàu chất trữ tình.
III. Kết bài:
- Nêu suy nghĩ về nhân vật Tràng.
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
Xem thêm: Phân tích nhân vật Tràng
Dàn ý phân tích nhân vật Thị
Dàn ý số 1
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Kim Lân: là cây bút chuyên viết Truyện ngắn, ông am hiểu sâu sắc đời sống của người nông dân và thường tập trung viết về họ.
- Vợ nhặt là một trong số những truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân của ông. Nhân vật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm này chính là người vợ nhặt.
II. Thân bài
1. Lai lịch
- Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.
2. Chân dung
– Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
– Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, Thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
– Lần thứ hai:
- Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
- Khi nghe tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ cùng về”, Thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để Thị bấu víu lấy sự sống.
– Nhận xét: cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với Thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.
3. Phẩm chất
– Có khát vọng sống mãnh liệt:
- Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì Thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
- Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, Thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
– Thị là người ý tứ và nết na:
- Trên đường về, Thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, Thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
- Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
- Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào Thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
- Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
- Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt Thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.
– Nhận xét: cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
– Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hy vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
– Nêu cảm nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, xây dựng hình tượng nhân vật thành công, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, …
- Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: người đọc hiểu và cảm thông với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong nạn đói, tố cáo thực dân, phát xít, ngợi ca khát vọng sống trong cảnh cơ cực.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Kim Lân
- Giới thiệu tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, chủ đề của tác phẩm “Vợ nhặt”
- Giới thiệu nhân vật người vợ nhặt, nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt
2. Thân bài
1. Thân phận và cảnh ngộ của người Vợ nhặt
- Vợ nhặt được giới thiệu là một người không tên tuổi, không quê quán họ hàng, xuất hiện giữa chợ tỉnh.Quần áo rách như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
- Là người phụ nữ không họ tên, Thị là hình ảnh tiêu biểu cho những người dân đói khổ khi đó.
- Không có việc làm cụ thể, cuộc sống bấp bênh, cái đói đã hành hạ và đẩy chị đến bờ vực của cái chết. Chỉ vài ba câu nói bâng quơ của Tràng mà Thị theo Tràng về làm vợ. Cái đói đã biến Thị trở thành kẻ trơ tráo liều lĩnh cùng đường.
2. Tâm trạng của người vợ nhặt
* Trên con đường trở về nhà với chồng
- Chị về nhà chồng trong tình cảnh thật thảm hại, theo không Tràng vì Tràng cho ăn đó là hành động thật liều lĩnh. Cái đói quay quắt đã dồn đẩy chị, làm cho chị đánh mất cả sĩ diện và lòng tự trọng.
- Trên con đường trở về nhà chồng, người phụ nữ này không tự tin vì thân phận của mình, đồng thời có cả sự tủi phận, ngại ngùng, lo âu. Thị cảm thấy khó chịu trước lời chêu chọc của những người dân xóm ngụ cư: “người đàn bà có vẻ khó chịu lắm, chị nhíu đôi lông mày lại, sắp lại tà áo, chân nọ bước díu vào chân kia”, tâm trạng ấy thể hiện người con gái này suy tư về con đường ở trước mắt, đồng thời không dấu được niềm khao khát hạnh phúc.
- Thị thay đổi hẳn, vẻ đanh đá, cong cớn đã biến mất (đó chỉ là vẻ bề ngoài để chống chọi với đời) con người thật của Thị hoàn toàn khác.
* Về đến nhà
- Thị mang một tâm trạng ngại ngùng của một nàng dâu mới, buồn thủi cho gia cảnh nhà chồng “Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài…”
- Thị buồn và thất vọng, lo lắng khi thấy gia cảnh nghèo khó của Tràng, vì khi theo Tràng chị muốn trốn chạy cái đói nhưng cái đói không chừa một ai.
* Sáng hôm sau
- Chỉ qua một đêm về làm dâu, ở người con gái này đã có sự thay đổi rất nhanh, Thị đã trở thành người đàn bà nhanh nhẹn, tự tin, Thị chủ động dọn dẹp quét tước nhà cử. Hơn thế nữa, sự có mặt của người đàn bà trong ngôi nhà này chính là mối gắn kết tình cảm trong gia đình. Với khả năng của mình, Thị đã đem lại hạnh phúc cho gia đình này. Ở Thị còn có thái độ lễ phép với mẹ chồng.
- Thị nhanh chóng hòa nhập vào không khí gia đình. Thị cảm nhận được tình thương của mẹ chồng, dù nghèo nhưng hiểu và thương Thị
- Trong bữa ăn ngày đói, khi nhận bát cháo cám “hai con mắt Thị tối lại” “Thị điềm nhiên và vào miệng” vì không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của người mẹ già khốn khổ.
- Thị là người đã dấy lên niềm tin mới về cách mạng, tạo niềm tin hi vọng cho chồng khi kể chuyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không còn đóng thuế nữa và Việt Minh đi phá kho thóc Nhật chia cho người đói.
* Thị là nhân vật đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm
3. Nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo
- Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc
- Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, thể hiện tâm lí nhân vật
- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi
III. Kết bài
Bằng bút pháp tả thực cùng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, tái hiện diễn biến tâm lí nhân vật một cách cụ thể. Kim Lân đã cho người đọc thấy được hình ảnh của người nông dân nghèo nhưng luôn giàu tình yêu thương. Bóng dáng Thị hiện ra tuy không lộng lẫy, không hào nhoáng nhưng gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Nhân vật ThỊ đã mang đến một làn gió mới cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ.
Xem thêm: Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt
Dàn ý phân tích chi tiết nồi cháo cám
1. Mở bài:
- Kim Lân – một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thủy”, là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng.
- “Vợ nhặt” là một truyện ngắn thành công của nhà văn, viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945. Truyện ngắn không chỉ có một tình huống độc đáo mà còn có một chi tiết nghệ thuật đầy ý nghĩa – chi tiết nồi cháo cám.
2. Thân bài:
a) Chi tiết nghệ thuật
Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm thì góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là nhờ chi tiết.
b) Chi tiết nồi cháo cám
– Vị trí của chi tiết trong truyện ngắn ( tóm tắt : nằm trong phần 2 của truyện ngắn , cụ thể đó là món ăn duy nhất của cả nhà trong buổi sáng ngày hôm sau )
– Ý nghĩa
+ Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về . Trong hoàn cảnh của nạn đói năm 1945, khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”, nồi cháo cám lại là món ăn không thể không có.
+ Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ :
- Bà cụ Tứ: người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực ( mặc dù đã già nhưng bà vẫn dậy sớm chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà; hơn thế nữa khi cái đói đang rình rập bà vẫn cố gắng để có được bữa tiệc cưới giản dị cho con trai của mình) .
- Tràng: “Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vôi vào miệng. Mặt hắn chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, cách ứng xử này vừa cho thấy Tràng là người chồng có trách nhiệm với nỗi thẹn không thể dành cho người vợ mới cưới của mình một bữa ăn đủ đầy, một tiệc cưới sang trọng ; vừa cho thấy Tràng là người con hết sức khéo léo trong cách cư xử với mẹ, hiểu rõ được hoàn cảnh của gia đình mình.
- Vợ Tràng: qua chi tiết này ta càng khẳng định được sự thay đổi về tính cách của vợ Tràng, hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Điều đó cũng cho thấy vợ Tràng không còn nét cách đỏng đảnh như xưa nữa mà cô đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
+ Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng.
+ Chi tiết thể hiện tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
3. Kết bài
Đánh giá, nhận xét một cách khái quát về chi tiết nồi cháo cám.
Dàn ý giá trị nhân đạo của Vợ nhặt
I. Mở bài
– Giới thiệu chung về truyện ngắn “Vợ nhặt” và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
II. Thân bài
1. Nạn đói khủng khiếp năm 1945
* Trong truyện đã diễn tả với tất cả niềm xót thương thông cảm của tác giả về cảnh bi thảm của quần chúng lao động trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
a) Cái đói bao trùm khắp nơi và tràn đến cái xóm nghèo của dân ngụ cư.
– Những gia đình từ Nam Định, Thái Bình lũ lượt đội chiếu, dắt díu bồng bế nhau lên, xám lại như những bóng ma. Buổi sáng nào cũng có vài người chết còng queo bên đường, toả mùi gây gây của xác chết.
– Toàn bộ câu truyện của Tràng diễn ra trên cái cảnh đói khổ và tang tóc ấy. Cảnh xóm ngụ cư vào buổi chiều Tràng đưa người vợ theo về; tiếng hờ khóc trong đêm, mùi đốt đống rấm.
b) Tình cảnh của gia đình Tràng
– Tràng: nghèo, không lấy nổi vợ.
– Vợ Tràng: Vì đói mà phải theo không về làm vợ, không có cưới cheo gì.
– Tình cảm xót xa của bữa cơm đón nàng dâu mới (nồi cháo loãng và bát cám).
2. Sự cưu mang, niềm hi vọng của người lao động nghèo khổ
Truyện đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng : mái ấm gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao động nghèo khổ, sáng lên niềm tin hy vọng của họ.
a) Tình huống Tràng có vợ, “nhặt” được vợ và ý nghĩa
– Thái độ của Tràng từ lúc chỉ coi là chuyện tầm phào đến lúc xem đó là chuyện nghiêm chỉnh của đời mình (Dẫn và phân tích những lời nói, hành động của Tràng khi mới gặp người đàn bà và trong cảnh đưa chị ta về nhà).
b) Ánh sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hoành hành
– Cảnh gia đình Tràng, căn nhà, mảnh vườn trong buổi sáng hôm sau.
– Sự biến đổi trong tâm trạng của Tràng, của người vợ nhặt.
– Ý nghĩa và thái độ của bà cụ Tứ, nỗi xót xa, thương cảm và niềm hy vọng của người mẹ.
– Niềm hi vọng của họ về sự đổi thay số phận hướng về cuộc cách mạng.
3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm
– Một tư tưởng nhân đạo hướng về quần chúng lao động, khẳng định phẩm chất và sức sống bền bỉ của họ.
– Niềm tin của tác giả đặt vào những khát vọng bình dị mà chân chính những con người vẫn muốn sống, vẫn khát khao tình thương và sự gắn bó, việc nương tựa vào nhau đã cho họ niềm tin để sống.
– Chủ nghĩa nhân đạo của tác phẩm dựa trên sự am hiểu sâu sắc, gắn với đời sống người nông dân của Kim Lân. Tác giả không tô vẽ, lí tưởng các nhân vật của mình.
III. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề
Xem thêm: Phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt
Dàn ý giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt
I. Mở bài:
– Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
– Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. Bởi vậy đây là truyện ngắn giàu giá trị hiện thực và nhân đạo.
II. Thân bài:
* Giá trị hiện thực
– Phản ánh chân thực cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng tám: nạn đói khủng khiếp khiến bao người phải chịu cảnh sổ sở:
+ Con người chịu cảnh tang thương, cuộc sống ngày càng thê thảm: “Người chết như ngả rạ”, “ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, người sống mặt hốc hác u tối đi lại dật dờ như những bóng ma, xanh xám như những bóng ma, …
+ Không gian chỉ tòa những tiếng khóc hờ, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết.
+ Mùi gây của xác người, mùi ẩm mốc của rác rưởi, mùi khét của những đống rấm.
– Đặc biệt, bữa cháo cám ngày đói nhà anh cu Tràng đã phản ánh cuộc sống thảm hại của con người.
– Con người trong cái đói, cái khổ phải giành giật lấy sự sống cho chính mình: Tràng ngày ngày kéo xe cực khổ để sống qua ngày, bà cụ Tứ già cả vẫn phải đi làm, …
– Nhận xét: ranh giới giữa người và ma, giữa sự sống và cái chết rất mong manh. Không gian xóm ngụ cư không khác biệt nhiều với nghĩa địa
* Bộc lộ niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi thảm của những người dân nghèo trong nạn đói năm 1945
– Cái đói khổ đã khiến cho con người bị rẻ rúng, mất đi giá trị:
+ Điển hình là nhân vật người vợ nhặt, vì quá túng quẫn thị không quan tâm đến thể danh dự cứ tin vào lời nói đùa của Tràng mà “cong cớn đòi ăn”, còn chấp nhận theo không Tràng về làm vợ.
+ Chính Tràng cũng vậy, vì quá nghèo khổ mà khó có thể lấy vợ, đến khi lấy được vợ cũng là nhờ hoàn cảnh éo le.
* Gián tiếp tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta
– “đằng thì chúng bắt nhổ lúa trồng đay, đằng thì chúng bắt đóng thuế”, chúng không cho nhân dân ta con đường sống, đẩy nhân dân đến bước đường cùng.
– Trong đoạn cuối truyện, khi nghe tiếng trống thúc sưu thuế, bà cụ tứ cũng tuyệt vọng kêu lên rằng: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”
* Trân trọng những khát vọng nhân văn của con người
– Tác phẩm ngợi ca khát vọng sống mãnh liệt của con người: Một mặt ta thấy người vợ nhặt như mất nhân cách trong cảnh đói khổ, nhưng mặt khác đó lại là khát vọng sống mãnh liệt của thị, thị không từ bỏ bất cứ cơ hội nhỏ nhoi nào để được sống tiếp, ngay cả việc theo không người ta về làm vợ.
– Ta thấy ở Tràng là một khát vọng hạnh phúc chân thành, không phải vì ngờ nghệch mà anh dẫn người vợ nhặt về, sâu thẳm bên trong là khát khao có một gia đình như bao người bình thường khác.
– Truyện ngắn còn thấm đẫm vẻ đẹp của lòng thương người: vì tình thương người chân thành mà Tràng sẵn sàng mời thị ăn dù không dư dả, vì thương người mà bà cụ tứ chấp nhận người con dâu được nhặt về dù trong cảnh đói khổ.
– Dù bị đẩy đến bước đường cùng, con người vẫn luôn có niềm tin vào cuộc sống:
+ Người vợ nhặt nhắc đến cảnh đoàn người phá kho thóc để tạo niềm tin cho bà cụ Tứ và Tràng, bà cụ Tứ cũng dự tính những chuyện tương lai, khuyên bảo các
* Chỉ ra lối thoát để con người hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn
– Từ câu chuyện phá kho thóc mà người vợ nhặt kể và hình ảnh đám người đói, lá cờ đỏ trong suy nghĩ của Tràng là những dấu hiệu của cuộc cách mạng, khiến người đọc có thể tin tưởng vợ chồng Tràng sẽ có mặt trong đoàn người vùng lên tổng khởi nghĩa.
III. Kết bài:
– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện đặc sắc, miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ giản dị gần gũi.
-Tác phẩm thẫm đẫm giá trị nhân văn: thể hiện sự cảm thương sâu sắc với số phận con người trong đói khổ, lên án tố cáo tội ác thực dân phát xít, từ đó sự trân trọng của tác giả đối với phẩm chất tốt đẹp của con người.
Dàn ý suy nghĩ về kết thúc của truyện Vợ nhặt
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác phẩm: Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân viết về nạn đói. Truyện có kết thúc đặc sắc, gợi nhiều liên tưởng và khắc sâu hơn cho chủ đề của tác phẩm.
II. Thân bài:
– Khái quát kết thúc truyện:
+ Trong bữa cơm ngày đói, để xóa đi bầu không khí trầm lặng vì ám ảnh đói khát, người vợ nhặt đã kể chuyện đoàn người đói phá kho thóc Nhật chia cho dân đói.
+ Lắng nghe câu chuyện của vợ, hiện lên trong tâm trí Tràng lúc ấy là hình ảnh về đám người đói đi trên đê khộp và lá cờ đỏ bay phấp phới.
– Hình ảnh đám người đói và lá cờ đó cùng với vai trò khép lại câu chuyện đã mang đến nhiều liên tưởng sâu sắc và củng cố vững chắc cho nội dung tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
+ Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ xuất hiện thoáng chốc trong tâm trí Tràng không chỉ gợi ra cảnh ngộ đói khát dữ dội, thực trạng thê thảm của người dân nghèo mà còn mang đến những tín hiệu rõ nét của cuộc cách mạng.
–> Nhà văn Kim Lân đã rất khéo léo tái hiện thực trạng xã hội đời sống lúc bấy giờ qua kết thúc truyện mang tính gợi mở.
+ Kết thúc truyện cũng đã thể hiện được tinh thần nhân đạo của nhà văn Kim Lân khi trân trọng vào sức sống mạnh mẽ của con người ngay cả khi bị đặt trên ranh giới giữa sự sống và cái chết.
III. Kết bài:
– Truyện ngắn Vợ nhặt được kết thúc mở gợi nhiều liên tưởng, suy ngẫm thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được khắc họa và miêu tả trong câu chuyện.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Tổng hợp dàn ý bài Vợ nhặt (18 Mẫu) Dàn ý Vợ nhặt chi tiết nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.