TOP 5 bài Thuyết minh về chùa Tây Phương hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về vị trí địa lí, lịch sử hình thành, đặc điểm cấu trúc chùa Tây Phương để viết bài văn thuyết minh thật hay.
Chùa Tây Phương cách trung tâm thành phố Hà Nội, thuộc địa phận huyện Thạch Thất, Hà Nội. Chùa Tây Phương là một trong những ngôi chùa cổ ở Hà Nội, được xây được hơn 300 năm. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Wikihoc.com để hoàn thiện bài văn Thuyết minh về một nét đặc sắc trong di tích thắng cảnh quê em.
Thuyết minh về chùa Tây Phương – Mẫu 1
Nói đến Hà Nội, người ta thường nghĩ ngay đến những danh lam thắng cảnh nổi tiếng nơi đây như: Văn Miếu Quốc Tử Giám, hồ Hoàn Kiếm, đền Ngọc Sơn, chùa Trấn Quốc,… và chắc chắn không ai không nhắc tới ngôi chùa linh thiêng nhất, được xếp vào di tích quốc gia đặc biệt. Đó chính là chùa Tây Phương.
Chùa Tây Phương thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Tương truyền, chùa được xây dựng vào thế kỉ VI. Người xưa kể lại rằng vào những năm 324 – 326 có niên hiệu Hàm Hòa thời Đông Tấn Cát là một chức quan ở huyện Giao Châu nghe tin trên núi Cát Lậu có Chu Sa Đỏ, muốn tìm để làm thành thuốc trường sinh nên ông đã cùng nhân dân lập nên ngôi chùa nhỏ để thờ tự. Trải qua các cuộc chiến tranh và sự bào mòn của thời gian chùa đã bị tàn phá nặng nề. Vào năm 1794 ở thời Tây Sơn chùa đã được đại tu và có tên là chùa Tây Phương được biết tên chữ là Sùng Phúc Tự. Người dân gọi là chùa Tây.
Chùa Tây Phương nằm trên đỉnh núi Câu Lậu (núi Tây Phương) cao chừng 50m. Núi Câu Lậu được ví như con trâu đầu đàn quay đầu xuống dòng sông Tích uống nước. Vì nơi đây có 9 ngọn núi trông xa tựa như một đàn trâu. Qua cổng Tam Quan, chúng ta phải bước qua 237 bậc làm bằng đá ong thì mới tới chùa. Chùa được xây dựng dựa trên kiến trúc mặt bằng chữ tam; có 3 tòa nhà song song là Hạ – Trung – Thượng; tường bao quanh chùa và được xây kín, liền tạo thành kết cấu viền chữ còng. Kiến trúc chùa đã trở thành điển hình của các chùa ở miền Bắc với hai tầng mái giấu thiềm, lợp ngói mũi hài, các góc mái đao vươn lên cong vút, bên trên có gắn tứ linh thú (bốn con vật linh thiêng). Chùa có 64 pho tượng, phần nhiều được làm bằng gỗ mít. Trong đó có 18 tượng La Hán và kiến trúc đặc sắc nhất là pho tượng phật bà Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay. Cửa sổ trong chùa được chạm khắc hình tròn, mang ý nghĩa “sắc sắc không không”. Bên trong có nóc mái, rui mè đều có mông ô vuông được trang trí tô màu mô phỏng áo Cà Sa nhà Phật. Chùa có một chiếc chuông nặng tới 200kg. Cũng nhờ những nghệ thuật đặc sắc này mà vào ngày 24/04/1962 chùa Tây Phương đã được công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia.
Tượng phật ở đây được đánh giá rất cao. Đó là những kiệt tác xuất sắc của các nghệ nhân xa xưa. Viết về các vị La Hán ở chùa Tây Phương, Huy Cận có bài thơ rất nổi tiếng:
Đây vị xương trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.
Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.
Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe từ thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn….
Hình tượng La-hán trong bài thơ rất mới lạ. “Khi đọc bài thơ Các vị La-hán chùa Tây Phương của Huy Cận, một nhà nghiên cứu văn học cho rằng: Nhà thơ vẽ ra những hình vẽ bên ngoài chủ yếu là để thể hiện nội tâm của những vị A-la-hán, mà cũng chính là nội tâm đau đớn, quằn quại, vật vã, đầy đau khổ, của những con người nơi trần thế…”. Các pho tượng là hiện thân của cuộc sống nghèo nàn, cực khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng ở thế kỷ XVIII. Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay là nghệ thuật đặc sắc nhất, là phật bà đại từ đại bi, luôn quan tâm, lắng nghe âm thanh khổ nạn của chúng sinh rồi hiện phép thần thông cứu giúp.
Là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng nên chùa Tây được rất nhiều du khách trong và ngoài nước tới tham quan. Đặc biệt là vào những ngày tết hay những ngày lễ hội vào tháng ba âm lịch hàng năm thì đông đảo nhân dân và du khách chen lấn nhau lên chùa tạo ra một không khí náo nhiệt, một khung cảnh nhộn nhịp, đông vui, tấp nập. Du khách đến nơi đây chủ yếu để cầu bình an cho gia đình, tham quan vẻ đẹp của ngôi chùa. Chùa Tây Phương trở thành nơi phát triển kinh tế cho người dân địa phương, là niềm tự hào của quốc gia chúng ta. Tôi tin rằng ngôi chùa này sẽ càng ngày nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý của du khách trong và ngoài nước.
Thật tự hào vì nơi đây có danh lam thắng cảnh tuyệt vời như vậy. Chúng ta hãy bảo vệ giữ gìn những nét đẹp văn hóa, điêu khắc đặc trưng của quê hương mình.
Thuyết minh về chùa Tây Phương – Mẫu 2
Núi Câu Lậu – xã Thạch Xá – huyện Thạch Thất – thành phố Hà Nội – Nơi có di tích lịch sử lớn của nước ta đó là danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương. Đến bây giờ ngôi chùa vẫn tồn tại trên đất Hà Nội ta.
Chùa Tây Phương nằm trên ngọn núi Câu Lậu, cao chót vót, bao phủ xung quanh là cây xanh. Ngôi chùa có diện tích khá rộng, cảnh tượng cây xanh bao vây trù phú đậm sắc dân tộc cổ xưa, hoang sơ mộc mạc. Cảnh thiên nhiên hùng vĩ với lối kiến trúc thiêng liêng mà líu lo tiếng chim hót. Tạo nên một bức tranh đẹp vô cùng. Ai ai cũng có thể đến nơi đây bằng bất kì phương tiện đường bộ nào nhưng muốn lên đến chùa thì phải đi bộ bằng chính đôi chân của mình.
Từ xưa, vào thời Mạc ngôi chùa đã được trùng tu lại theo nền cũ của cha anh xây trước để lại. Năm 1554, chùa lại được trùng tu lại cho đẹp hơn và đậm sắc dân tộc Việt Nam hơn. Năm 1632 thì chùa lại được xây dựng thêm thượng điện ba gian, hậu cung cùng hành lang 20 gian. Và vào năm 1660 vào thời Tây Sơn, chùa được Tây Đô Vương Trịnh Lạc tu sửa lại và lấy tên là “Tây Phương cổ tự” – Một cái tên truyền thống và đẹp đẽ. Nhưng nhờ cái tên đó mà giờ đây nó vẫn còn tồn tại mà không hề qua một lần tu sửa nào khác. Kiến trúc độc đáo, nguyên liệu xây dựng vững chắc, lưu giữ bền vững đến bây giờ. Giờ đây, danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương đã trở thành một di tích lịch sử của Việt Nam.
Chúng ta đi lên 239 bậc đá ong thì đến đỉnh núi và cổng chùa, chính điện và hậu cung. Mỗi nếp chùa có hai tầng mái, tường được xây bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo nên vẻ hoang sơ, mộc mạc. Các cột gỗ đều được kê trên đá tảng xanh, trong khắc hình cánh sen. Mái chùa Tây Phương cũng rất đặc biệt, có những góc mái cong như con rồng uốn lượn. Mái bên trên in hình lá đề, lớp dưới lót mái vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa. Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều trạm trổ tinh tế, các đầu mái đao cũng bằng đất nung đỏ nổi lên hình hoa lá, rồng bay, giàu sức truyền cảm. Nhìn từ xa ta thấy danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương như một ngọn núi um tùm xanh lá cây cỏ nhưng nổi bật lên trên ngọn núi đó là mái chùa cong cong mà như cổ xưa trù phú.
Chùa nổi tiếng với rất nhiều pho tượng, ngôi tượng thần thánh, vị La Hán và Phật đều được tạc bằng gỗ và được sơn son thiếp vàng làm cho bức tượng càng tôn thêm vẻ uy nghi. Có những pho tượng cao hơn người như pho Kim Cương, Hộ pháp, cao 3m, trang nghiêm, phúc hậu, phần lớn chúng được tạc từ thế kỉ XVII, ngoài ra còn có cả những tác phẩm ở giữa thế kỉ XIV. Đặc biệt hơn cả là 18 vị La Hán to bằng người thật trong các tư thế: ngồi, đứng…Mỗi vị thể hiện một nỗi khổ, tính cách khác nhau, khá sinh động và ít thấy trong điêu khắc Việt Nam. Đó là hình tượng của những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy nghĩ về nỗi khổ của chúng sinh.
Danh lam thắng cảnh Chùa Tây Phương không chỉ nổi tiếng vì nguồn gốc lịch sử lâu đời mà còn nổi tiếng là khu du lịch thu hút các du khách thập phương gần xa, trong và ngoài nước về du lịch và lễ Phật. Với lối kiến trúc cổ lâu đời được lưu giữ đã qua bao thế kỉ, sự cổ kính đã được nhiều người yêu thích. Vào ngày 06-3 Âm lịch hàng năm là ngày Hội chính của Chùa, các du khách khắp nơi đổ về đây đi trẩy hội, lễ phật trốn linh thiêng. Vừa nổi tiếng, vừa mang đậm bản sắc dân tộc và ý nghĩa lịch sử nên vào năm 1962, nơi đây đã được Bộ văn hóa công nhận là di tích văn hóa cấp Quốc gia.
Thuyết minh về chùa Tây Phương – Mẫu 3
Chắc hẳn khi nhắc đến chùa Tây Phương ai trong chúng ta cũng sẽ nhớ đến một nơi được coi là trốn linh thiêng của Hà Nội. Một ngôi chùa mang giá trị nghệ thuật điêu khắc độc đáo và là nơi lưu giữ nhiều pho tượng phật có giá trị. Đó là danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương.
Chùa nằm trên một khu vực có cảnh trí thanh tao, ngự trên đỉnh đồi Câu Lậu thuộc xã Thạch xá – huyện Thạch Thất. Chùa được tọa lạc trên đỉnh núi cao 50m, cách Hà Nội khoảng 37km về phía Tây. Chùa được xây dựng vào năm Giáp Dần mang tên “Tây Phương cổ tự”
Cổng chùa dài 162m với 239 bậc đá ong. Chùa có 3 nếp nhà song song theo lối kiến trúc kiểu chữ Tam gồm Chùa Hạ, chùa Trung, chùa Thượng tọa thành một quần thể uy nghi vững trãi. Chùa được lợp 2 lớp ngói và trạm trổ tinh tế, tỉ mỉ. Tường được xây bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần kết hợp với các cửa sổ hình tròn và các cột gỗ kê trên tảng đá xanh khắc hình cánh sen.
Chùa được trùng tu nhiều lần vào các thế kỉ XVI, XVII, XVIII với cái dấu mốc ghi lại tới nay. Năm 1554 chùa được xây dựng lại trên nền chùa cũ. Năm 1632 chùa xây dựng thượng điện ba gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Năm 1660, Tây Đô Vương Trịnh Lạc cho xây dựng lại chùa mới. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa được trùng tu và có tên mới là “Tây Phương cổ tự” đồng thời có đúc một quả chuông nặng 200kg.
Danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương không chỉ là nơi nổi tiếng về kiến trúc và điêu khắc bậc nhất Việt Nam, mà chùa còn được coi là bảo tàng tượng phật của Việt Nam. Những pho tượng ở chùa được coi là những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo. Theo những tài liệu cũ thì nguồn gốc của những pho tượng của chùa Tây Phương chính là hiện thực của cuộc sống hàng ngày, nghèo nàn, khổ cực, đặc biệt là nạn đói mà nhân dân phải chịu ở thế kỉ 18. Chùa có 72 pho tượng được đánh giá vào loại đệ nhất về nghệ thuật tạc cổ của nước ta, tạc bằng gỗ mít sơn son, thiếp vàng, trong đó có 18 pho tượng thuộc nhóm La hán. Các vị La hán ấy là hình tượng được các nghệ nhân điêu khắc mượn sự tích tu hành của các vị đệ tử Phật nhằm mô tả những con người sống trong xã hội đương thời. Dưới bàn tay tài hoa của các nghệ nhân dân gian các pho tượng hiện ra mỗi người một vẻ, một phong cách khác nhau. Với những đường nét hình khối vô cùng sinh động. Mỗi pho tượng ở đây có sự hài hòa nội tâm và ngoại hình mang biểu tượng một nỗi đau khổ khôn nguôi của con người: buồn vui lẫn lộn, suy tư, giả suy, thiếu ngủ…Nét mặt khắc khổ từ bi, những nếp nhăn trên vầng trán, từng mạch máu đường gân, thớ thịt, khớp xương, con mắt, đôi môi đến trang phục được bàn tay các nghệ nhân khắc họa diệu kỳ.
Ai đến chùa đều có ấn tượng sâu sắc, vì thế mà nhà thơ Huy Cận đã sáng tác bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” khi ông có dịp về thăm ngôi chùa này:
“Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương
Hà chẳng phải đây là xứ Phật
Mà sao ai nấy mặt bi thương”
Hàng năm cứ vào dịp Tết đến xuân về thì danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương lại là nơi du lịch, lễ phật của nhiều phật tử, du khách gần xa, trong và ngoài nước đến tham quan.
Trải qua bao thời gian, biến đổi lịch sử, những pho tượng ở chùa Tây Phương đã để lại trong lòng mỗi người, mỗi du khách những ấn tượng sâu đậm về nền nghệ thuật Việt Nam, với giá trị độc đáo về nghệ thuật và Phật học. Năm 1962, chùa vinh dự được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Vì vậy chúng ta cần phải bảo vệ, trân trọng và giữ gìn nét đẹp văn hóa đó. Ngôi chùa không chỉ là một danh lam thắng cảnh mà còn mang một ý nghĩa thiêng liêng.
Thuyết minh về chùa Tây Phương – Mẫu 4
Thạch Thất quê hương em không chỉ nổi tiếng với những làng nghề truyền thống thủ công mỹ nghệ mà nơi đây còn nổi tiếng bởi di tích văn hóa đã trải qua nhiều thế kỷ. Đó chính là danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương cổ kính.
Chùa Tây Phương được xây từ rất lâu đời theo tài liệu ghi chép lại vào năm Giáp Dần thời Mạc Phúc Nguyên. Chùa tọa lạc trên ngọn núi cao có tên là Câu Lậu thuộc xã Thạch Xá – huyện Thạch Thất – Thành phố Hà Nội. Đến năm 1794 dưới thời Tây Sơn chùa đã được đại tu hoàn toàn với tên mới là “Tây Phương cổ tự” chùa mang hình dáng kiến trúc còn lại như ngày nay.
Từ chân núi để lên tới cổng chùa chính phải trải qua 239 bậc được lát bằng đá ong. Đó là một loại chất liệu mang nét đặc trưng của vùng xứ Đoài. Khi lên đến cổng chùa du khách không khỏi ngưỡng mộ trước vẻ đẹp kiến trúc thể hiện đầy tài năng sáng tạo của cha ông xưa. Chùa gồm ba nếp nhà song song đó chính là bái đường, chính điện và hậu cung. Tường xây hoàn toàn bằng gạch bát tràng nung đỏ để trần, điểm những cửa sổ tròn với biểu tượng sắc không. Các cột gỗ trong chùa đều được kê trên đá tảng xanh có khắc hình cánh sen.Mái ngói của nhà chùa được lợp hai lớp, mái trên có múi in nổi hình lá đề lớp dưới là mái lót hình vuông sơn ngũ sắc như màu cà sa xếp dưới những hàng rui gỗ làm thành ô vuông đều đặn, xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình thức lá triện cuốn. Trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung. Các đầu mái đao cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa lá rồng phương giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm. Toàn bộ ngôi chùa toát lên vẻ hoành tráng và phóng khoáng.
Nơi đây còn tập trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm khảm, trổ, phù, điêu và tạc tượng. Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có trạm trổ theo đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt Nam với các hình như: lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng những đường nét chạm trổ vô cùng tinh xảo được tạo ra dưới bàn tay tài hoa của các nghệ nhân làng mộc nổi tiếng xứ Đoàn. Trong chùa có 70 pho tượng phật cùng các phù điêu có mặt ở khắp mọi nơi, các tượng được tạc bằng gỗ mít sơn son thiếp vàng. Phần lớn đều có niên đại cuối thế kỉ XVIII và giữa thế kỉ XIX. Đặc biệt 18 vị la Hán với nhiều hình dáng khác nhau, kẻ đứng người ngồi mỗi vị một dáng vẻ khác nhau nhằm phản ánh thực tại cuộc sống trần gian với kiếp luân hồi của người đời.
Lên đỉnh chùa cảnh đẹp và yên tĩnh làm cho lòng người nhẹ nhõm như đã bỏ lại cõi nhân gian ồn ào bụi bặm đầy bon chen. Với kiến trúc độc đáo, giao thông thuận tiện danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương đang là điểm du lịch hấp dẫn cho du khách thập phương thưởng ngoạn. Hàng năm, Lễ hội chùa Tây Phương thường tổ chức ngày chính thức vào ngày mùng 6 tháng 3 Âm lịch.
Trải qua bao biến đổi của lịch sử danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương đã để lại trong lòng mỗi người khách những ấn tượng sâu đậm về nền nghệ thuật cổ Việt Nam. Chùa Tây Phương đã được Bộ văn hóa công nhận là di tích lịch sử văn hóa Quốc gia năm 1962.
Thuyết minh về chùa Tây Phương – Mẫu 5
Chùa Tây Phương một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội, một ngôi chùa mang giá trị nghệ thuật điêu khắc độc đáo và là nơi lưu trữ nhiều pho tượng Phật có giá trị.
Chùa có tên chữ là Sùng Phúc tự, nằm trong một khu vực có cảnh trí thanh tao, trên đỉnh đồi Câu Lậu ở xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất.
Theo những tài liệu sử cũ còn ghi lại, núi chùa Tây Phương tên cổ gọi là núi Ngưu Lĩnh. Theo truyền thuyết phong thủy, thềm núi Ba Vì về phía Nam có dãy núi đất chạy xuống huyện Quốc Oai tựa như đàn trâu, có một quả núi như quay lại đón nước sông Tích phát nguyên từ các dòng suối Ba Vì chảy xuống quả núi đó được gọi Ngưu Lĩnh sơn (núi con Trâu)- chính là núi chùa Tây Phương ngày nay. Chính vì thế, chùa Tây Phương hiện nay với kiểu kiến trúc cổ Việt Nam mang dáng dấp “thượng sơn lâu đài, hạ sơn lưu thủy”, là nơi địa linh của non sông đất nước ta.
Về lịch sử, theo nhiều tài liệu, Chùa Tây Phương được xây dựng từ lâu đời nhưng chùa do ai làm và làm từ bao giờ thì đến nay chưa xác minh được. Theo thời gian và do chiến tranh tàn phá, chùa đã nhiều lần được trùng tu vào các thế kỷ XVI, XVII, XVIII với các dấu mốc được ghi lại cho tới ngày nay. Năm 1554, chùa được xây lại trên nền cũ. Năm 1632, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Năm 1660, Tây Đô Vương Trịnh Tạc cho xây lại chùa mới. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là “Tây Phương Cổ Tự” đồng thời cho đúc một quả chuông nặng 200kg. Trong chiến tranh chống Pháp, chùa bị hư hỏng nặng và được các cơ quan chức năng tiến hành trùng tu. Khi tiến hành thi công dỡ ba ngôi chùa, người ta phát hiện thấy trên nóc giữa các ngôi chùa có những dòng chữ đục chìm vào gỗ, ghi lại niên đại làm chùa. Ở nóc ngôi chùa Thượng ghi: “Năm Giáp Dần quý đông tạo” nghĩa là năm Giáp Dần tháng 12 làm chùa. Ở nóc ngôi chùa Trung ghi “Giáp Dần quý đông cát nhật, Canh Tý mạnh thu cát nhật tu lý” nghĩa là năm Giáp Dần tháng 12 ngày tốt làm chùa, Năm Canh Tý tháng 7 ngày tốt tu sửa chùa. Ở nóc ngôi chùa Hạ ghi “Canh Tý trọng thu cát nhật tu lý” nghĩa là năm Canh Tý tháng 8 ngày tốt tu sửa chùa.
Từ chân núi để lên tới cổng chùa chính phải qua 239 bậc đá ong. Chùa gồm ba nếp nhà song song được xây dựng theo lối kiến trúc kiểu chữ Tam gồm Chùa Hạ, chùa Trung, Chùa Thượng, tạo thành một quần thể uy nghi vững trãi. Mái chùa được lợp hai lớp ngói và trạm trổ tinh tế. Tường xây bằng gạch Bát Tràng nung đỏ để trần, kết hợp hài hòa với màu sắc của gỗ đá trong khuôn viên chùa. Các hình khối kiến trúc cộng với những đường nét chạm sắc tinh tế, tỉ mỉ đã tạo cho ngôi chùa thành một tổng thể hài hòa và hoàn mỹ.
Chùa Tây Phương còn là nơi tập trung nhiều pho tượng Phật được coi là những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo. Theo một số tài liệu lịch sử, nguồn gốc ra đời của những pho tượng Phật trong chùa Tây Phương chính là hiện thực cuộc sống nghèo nàn khổ cực và nạn đói mà nhân dân phải chịu ở thế kỷ 18. Chùa có 72 pho tượng được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng trong đó 18 pho tượng thuộc nhóm La Hán chính là hình tượng đã được các nghệ nhân điêu khắc mượn sự tích tu hành của các vị đệ tử Phật nhằm mô tả những con người sống trong xã hội đương thời. Dưới bàn tay tài hoa của các nghệ nhân dân gian, các pho tượng hiện ra mỗi người một vẻ, một phong cách khác nhau với những đường nét, hình khối,dáng điệu vô cùng sinh động. Mỗi pho tượng ở đây có sự hài hòa nội tâm và ngoại hình, mang biểu tượng một nỗi đau khôn nguôi của con người: buồn vui lẫn lộn, suy tưởng, giả say, thiếu ngủ…. Nét mặt khắc khổ từ bi, từng nếp nhăn trên vầng trán, từng mạch máu đường gân thớ thịt, khớp xương, đôi môi, con mắt đến trang phục xiêm y đều được bàn tay nghệ nhân khắc họa diệu kỳ. Chẳng thế mà thi sĩ Huy Cận, nhân khi về thăm Chùa đã sáng tác nên áng thơ nổi tiếng “Các vị La Hán Chùa Tây Phương”:
“Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương?”
Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương gồm bộ tượng Tam Thế Phật, bộ tượng Di-đà Tam Tôn, tượng Tuyết Sơn, Đức Phật Di lặc, tượng Văn Thù Bồ Tát, tượng Phổ Hiền Bồ Tát, tượng Bát Bộ Kim Cương và 16 pho tượng Tổ. Pho tượng Tuyết Sơn thường được du khách đặc biệt chú ý vì đây là pho tượng miêu tả đức Phật thích ca trong thời kì khổ hạnh “đây vị xương trần chân với tay”, một pho tượng tĩnh lặng chìm trong suy tưởng.
Chùa Tây Phương là địa chỉ thăm quan hàng năm của rất nhiều Phật tử và khách vãng lai trên mọi miền Tổ quốc, trong đó đông đảo nhất phải kể tới dịp Hội Xuân. Hội chùa Tây Phương bắt đầu từ mồng 6 đến mồng 10 tháng 3 Âm lịch. Ca dao xưa còn ghi lại cảnh nô nức đến chùa:
“Nhớ ngày mồng sáu tháng ba,
Ăn cơm với cà đi hội chùa Tây”.
Vào dịp này, người dân Thạch Xá nơi có phương múa rối nước từ lâu đời thường tổ chức biểu diễn để phục vụ khách dự hội. Trải qua bao biến đổi của lịch sử, tượng La Hán, Kim Cương chùa Tây Phương đã để lại trong lòng mỗi du khách những ấn tượng sâu đậm về nền nghệ thuật cổ Việt Nam. Với giá trị độc đáo về mặt nghệ thuật kiến trúc và Phật học, chùa Tây Phương đã được Bộ Văn Hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia từ năm 1962.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Thuyết minh về chùa Tây Phương (5 mẫu) Thuyết minh danh lam thắng cảnh hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.