Bạn đang xem bài viết ✅ Phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi (2 Dàn ý + 7 Mẫu) Đất Nước Nguyễn Đình Thi ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi tuyển chọn gợi ý cách viết chi tiết kèm theo 7 bài văn mẫu đạt điểm cao của các bạn học sinh giỏi. Qua đó các em nắm vững được kiến thức nhanh chóng nắm được các luận điểm luận cứ biết cách trình bày vào bài văn của mình hay, sáng tạo.

Đất nước của Nguyễn Đình Thi là bài thơ rất hay và đặc sắc trong cách sáng tạo ngôn từ, diễn đạt liền mạch đầy cảm xúc, giọng thơ phong phú và nhiều hình ảnh thú vị giàu sức gợi. Nguyễn Đình Thi đã mang tới một bài ca về đất nước đậm nét đặc trưng và tinh thần chung của người Việt.  Vậy sau đây là 7 bài văn phân tích Đất nước Nguyễn Đình Thi hay nhất mời các bạn cùng theo dõi.

Dàn ý phân tích bài thơ Đất Nước

Dàn ý số 1

1. Mở bài:

– Giới thiệu chung về tác giả Nguyễn Đình Thi.

– Giới thiệu chung bài thơ Đất nước.

2. Thân bài

a. Phần 1

* Hình ảnh mùa thu Hà Nội trong hoài niệm (từ đầu đến… lá rơi đầy):

– Tín hiệu gợi nhắc về mùa thu Hà Nội: sáng mát trong và gió thổi mùa thu hương cốm mới, đây là những nét đặc trưng quen thuộc của mùa thu Bắc Bộ, mùa thu Hà Nội.

– Mùa thu Hà Nội trong hoài niệm:

+ Bức tranh mùa thu chân thực, thi vị, mang đậm đặc trưng mùa thu Hà Nội nhưng thoáng buồn: những buổi sáng mát trong, gió thổi, hương cốm, chớm lạnh, hơi may xao xác, nắng lá, phố phường Hà Nội => Bức tranh mùa thu có hình khối, đường nét, màu sắc những chứa đầy tâm trạng của người ra đi “Người ra đi… lá rơi đầy”.

+ Hình ảnh người đi buồn bã, lưu luyến nhưng cũng đầy cương quyết: Người ra đi đầu không ngoảnh lại/Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

=> Mùa thu Hà Nội đẹp nhưng buồn thấm thía bởi nhân vật trữ tình phải li biệt Hà Nội để đi tìm con đường thoát vòng nô lệ đau thương, tủi nhục.

* Mùa thu cách mạng, mùa thu độc lập vui tươi, phấn chấn.

– Tiếng reo vui trước mùa thu hiện tại độc lập, hạnh phúc.

– Mùa thu cách mạng tươi đẹp, sôi nổi: không gian nghệ thuật dịch chuyển từ những phố dài xao xác buồn bã sang không gian núi rừng tươi mới, tràn đầy sức sống (rừng tre phấp phới, trời thu thay áo mới) với những âm thanh ngân nga, vang vọng; trạng thái nhân vật trữ tình vui vẻ, hạnh phúc hòa trong sự phấn chấn của tạo vật (phấp phới, thiết tha).

– Mùa thu độc lập, tự chủ: Trời xanh đây là của chúng ta…

– Suy tư về hồn thiêng đất nước: Nước chúng ta…vọng nói về.

=> Niềm tự hào về đất nước.

– Nghệ thuật đặc sắc trong đoạn thơ: hình ảnh thơ giàu sức gợi, câu thơ giàu tính nhạc, vận dụng hiệu quả phép điệp, giọng thơ phấn chấn sôi nổi, cảm xúc mãnh liệt…

=> Đoạn thơ thể hiện tình yêu tha thiết, niềm tự hào về quê hương đã được độc lập, có truyền thống anh hùng, bất khuất.

b. Phần 2

* Đất nước đau thương trong chiến tranh:

– Đất nước chìm trong máu và nước mắt: những cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời chiều, bát cơm chan đầy nước mắt…đứa đè cổ đứa lột da.

– Đất nước bật lên nỗi căm hờn: Từ những năm đau thương chiến đấu…căm hờn.

* Đất nước vùng lên giành lấy chiến thắng vinh quang, chói lọi:

– Vượt lên đau thương để lao động và chiến đấu, chống lại kẻ thù: Những đêm dài hành quân nung nấu, Xiềng xích chúng bay không khóa được….lòng dân ta yêu nước thương nhà.

– Hình ảnh đất nước kì vĩ, chói lọi, quật khởi bừng dậy giữa hiện thực rung trời chuyển đất: Ôm đất nước những người áo vải / Đã đứng lên thành những anh hùng, Nước Việt Nam từ máu lửa / Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

– Nghệ thuật đặc sắc trong đoạn thơ: hình ảnh sáng tạo đầy sức gợi hình gợi cảm, thủ pháp đối lập, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đậm nét.

=> Bức tranh đất nước được tạo nên bằng chất liệu hiện thực (đường nét tương phản đối lập).

=> Hình tượng giàu tính sử thi, là cao trào của cảm xúc, thâu tóm được tư tưởng toàn bài

3. Kết bài:

Nêu cảm nhận chung về đoạn thơ.

Dàn ý số 2

1. Mở bài

– Đây là một bài thơ hay của Nguyễn Đình Thi và của thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp.

– Đoạn thơ mở đầu bài thơ Đất nước đánh giá là hay nhất bài thơ vì biểu lộ cảm xúc trực tiếp về một mùa thu mới đang tới trên quê hương.

2. Thân bài

– Đoạn thơ nguyên là những mảng của hai bài thơ khác nhau nối lại với sự điều chỉnh và sửa chữa chút ít.

– Mở đầu, nhà thơ gợi lại hình ảnh của một “mùa thu đã xa” với không khí “xao xác” và hình ảnh “người ra đi” lặng lẽ. Nỗi xao xác bâng khuâng là âm điệu chính của câu đầu này.

– Tiếp theo, tác giả bộc lộ niềm vui giao hòa giữa lòng người và vật khi chứng kiến “mùa thu nay” đầy âm điệu háo hức

– Mùa thu của đất trời giải phóng. Hai chữ “vui nghe” không chỉ diễn tả một trạng thái tình cảm nhận thời mà còn nói rõ cách nghe hay là một cách nhận thức mới của nhà thơ về cuộc đời.

– Từ niềm vui nói trên, đoạn thơ chuyển ý rất tự nhiên nhấn mạnh ý thức sở hữu của cái ta cộng đồng với non nước mình, mặt khác, bộc lộ cảm xúc tự hào và sung sướng của nhà thơ trước vẻ đẹp đắm say của Tổ quốc.

– Phần cuối của đoạn thơ dẫn người đọc vào mạch suy tư về truyền thống anh hùng của đất nước, ở đây xuất hiện một định nghĩa rất thơ và cũng rất Nguyễn Đình Thi về Tổ quốc Việt Nam.

3. Kết bài

– Trong bài thơ “Đất nước” dường như cảm hứng thời đại đã hòa quyện với cảm hứng lịch sử trong một niềm xúc động thơ đẹp đẽ như vậy.

Phân tích Đất nước Nguyễn Đình Thi – Mẫu 1

Nguyễn Đình Thi – một tâm hồn, một con người đa tài với những tác phẩm, bài viết đủ mọi thể loại. Văn học, soạn nhạc, triết học, lí luận phê bình… mặt nào cũng rất tài hoa. Về thơ ca, ông đã có những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam với giọng thơ sôi nổi, đằm thắm và sâu lắng nhưng lại tao nhã, giản dị gần gũi với mọi người.

Tác phẩm nổi bật trong thời kì này là bài thơ Đất nước. Được sáng tác từ 1948 – 1955, sự kết hợp hai bài thơ Đêm mít tinh và Sáng mát trong như sáng năm xưa đã giúp tác giả hình thành thái độ trân trọng, một cái nhìn đầy đủ về hình ảnh đất nước. Đất nước thực sự là cuốn biên niên sử bằng thơ hào hùng, oanh liệt, vinh quang và rực rỡ của dân tộc.

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã lấy hình ảnh mùa thu đã xa, một mùa thu với những kí ức và hình ảnh đã thuộc về quá khứ:

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Nguyễn Đình Thi đứng trước mùa thu của hiện tại và hồi tưởng về mùa thu quá khứ. Với hình ảnh thu trong lành, mát trong của sáng sớm, với gió mùa thu mang theo hương cốm, tác giả khiến người đọc cảm nhận một mùa thu quen thuộc, một mùa thu xưa đẹp đẽ. Vẻ đẹp của mùa thu, với tác giả, muôn đời vẫn vậy chẳng đổi thay, nỗi nhớ thương về cùng hoài niệm.

Chỉ với một câu thơ gió thổi mùa thu hương cốm mới đã đánh thức trong lòng người đọc hình ảnh mùa thu Hà Nội với vẻ đẹp truyền thống, tao nhã, bền vững và cổ xưa. Một chút gió heo may, một chút hương cốm thơm nức. Một hình ảnh quen thuộc kéo dài từ năm này qua năm khác không đổi thay. Câu thơ tôi nhớ những mùa thu đã xa giống như câu thơ bản lề, chuyển hướng, đầy tâm sự người đọc hướng về hiện tại:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Khổ thơ sau vẫn là nhịp điệu chậm rãi, tràn đầy nhung nhớ. Nguyễn Đình Thi lại nhắc lại hình ánh sáng. Nhưng ảnh thu Hà Nội của hiện tại đẹp mà buồn, gợi bao sự thương nhớ. Sáng mùa thu chớm lạnh trong lòng Hà Nội, hay đúng hơn là cái chớm lạnh của lòng người trước mỗi đợt, mỗi khoảnh khắc thu về. Cái tinh tế của nhà thơ được thể hiện qua câu chữ trong lòng Hà Nội. Liệu có phải đây thực ra là nỗi nhớ qua những câu thơ đầy khắc khoải và ám ảnh?

Ở đây, còn gợi thêm một hình ảnh nữa về đặc trưng của Hà Nội: những phố dài và thêm một nét tinh tế nữa của nhà thơ, đó là việc sử dụng từ láy xao xác. Tất cả đều gợi ra sự vắng vẻ, hiu quạnh. Sự xao xác của lá thu hay là nỗi tâm sự đong đầy. Hình ảnh gió xao xác kết hợp với hình ảnh con phố dài đã tạo ra sự thu hút, sự sâu thẳm.

Và thật đột ngột, mạch cảm xúc của tác giả thay đổi, với hình ảnh người ra đi. Câu thơ thứ ba như một cái hất đầu ngạo nghễ, một sự quyết tâm đầy kiêu hãnh với chí lớn mang trong người. Nhưng câu thơ cuối lại là một tình cảm sâu lắng, trực tiếp, cảm xúc được dàn trải đều qua trang giấy qua cách ngắt nhịp của tác giả.

Có người nói, hình ảnh của Hà Nội đã thu lại trong câu thơ cuối: thềm nắng lá rơi đầy. Câu thơ đẹp và giàu sắc thái thẩm mĩ. Bức tranh thu Hà Nội thấm đầy nắng, gợi nên sắc thái quyến rũ trong tâm trí người ra đi. Mà có khi làm sao mà đi nổi khi một Hà Nội đẹp thế, quyến rũ như thế cứ níu chân chẳng cho đi, làm sao không khỏi mềm lòng. Đó là mùa thu của quá khứ, còn mùa thu của bây giờ, của hiện tại rực rỡ hơn, tươi mát hơn. Và tự hào hơn trong lòng tác giả:

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha

Một lời khẳng định đầy kiêu hãnh, gợi mở cho người đọc hướng về hình ảnh mùa thu trong sự đổi mới với mùa thu xưa. Chữ khác dường như không chỉ là sự khác biệt về thời gian, không gian như xưa, nay mà còn là sự khác biệt trong nhận thức và tư tưởng của con người. Vì một lẽ đơn giản là muôn đời thu vẫn thế, vẫn gió heo may cùng hương cốm. Vấn đề là cảm nhận của con người mà thôi.

Mùa thu xưa là mùa thu của dân tộc nô lệ. Kiếp người khổ đau, vì vậy mà thu có vẻ ảm đạm và thê lương. Khi đã độc lập, mùa thu như rạng rỡ hơn, chan hoà hơn. Giữa sự thay đổi của đất trời, của cuộc đời mới, mỗi người cùng hoà vào tiếng vui chung. Con người giao hoà với đất trời và vũ trụ. Con người lắng nghe được âm hưởng vui mừng của niềm vui độc lập, đó là niềm hạnh phúc tột độ.

Ở đây, không gian thu được mở rộng khoáng đạt hơn. Với tiếng gió thổi rừng tre phấp phới, vẫn là gió thu, nhưng không phải lặng lẽ, buồn bã, mà là tiếng gió (thổi vào rừng tre) phấp phới như muốn giữ trọn niềm vui của con người vào thiên nhiên, vũ trụ. Hình ảnh rừng tre tượng trưng cho sức mạnh Việt Nam, vẻ đẹp của Việt Nam, niềm vui của thu độc lập. Tất cả như muốn cất lên tiếng reo ca tột độ. Và trong xúc cảm thăng hoa, Nguyễn Đình Thi có những câu thơ hết mực tài hoa:

Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Mùa thu như được nhân hoá và người đọc cảm thấy mùa thu như một thiếu nữ điệu đà, thướt tha đang khoác tấm áo mới rạng rỡ, tươi tắn và dịu dàng. Phải chăng tấm áo ấy là của sự độc lập, tự do của dân tộc? Mùa thu ở đây vừa có nét tươi trong trẻo của một mùa thu muôn đời, lại vừa có sự phấn khởi, vui mừng.

Câu thơ đã gợi ra tất cả xúc cảm, sâu lắng, huyên náo… tạo ra sự giao hoà giữa niềm vui của con người và niềm vui của đất trời trong ngày độc lập. Và cảm xúc của nhà thơ như trải dài qua khổ thơ:

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Các câu thơ như cuốn vào nhau. Với cách ngắt nhịp mạnh mẽ, ngắn đã tạo ra âm hưởng hùng tráng, tràn đầy niềm tự hào. Nguyễn Đình Thi bây giờ như đang là một hướng dẫn viên, giới thiệu và tỏ bày với mọi người về cảnh sắc quê hương. Đây là núi rừng, trời xanh, kia là cánh đồng, ngả đường, xa hơn nữa là dòng sông.

Tất cả như đang phơi bày vẻ đẹp, sự mỹ lệ vốn có của bản thân. Hay nói đúng hơn, đây là sự háo hức, tất cả sự hãnh diện, vinh dự với tư cách là người làm chủ. Tác giả nhấn mạnh vào quan hệ từ của như muốn khẳng định sự sở hữu và quyền tự chủ của bản thân.

Ở đây đã có sự thay đổi về cách xưng hô, có sự hoà nhập giữa cái tôi của Nguyễn Đình Thi, của người nghệ sĩ với cái chung của cả dân tộc. Nguyễn Đình Thi không chỉ nói tiếng nói chung của mình mà còn nói tiếng nói chung của cả dân tộc, của mọi người bằng hai tiếng chúng ta đầy kiêu hãnh.

Vào thời Pháp thuộc, không hề có chuyện quan niệm chúng ta. Tất cả đều đặt dưới sự kiểm duyệt gắt gao của bọn thực dân. Chỉ có thời đại mới, chỉ có xã hội và cái chung của chúng ta, chỉ có thời đại mới, chúng ta mới có thể hít thở không khí mát lành của thu tự do, chứ không còn bức bối ngột ngạt như trước. Nguyễn Đình Thi như muốn khẳng định tính ưu biệt của xã hội mới.

Cảm xúc dâng trào khi nghĩ về sự tự do, độc lập, niềm vui mừng hân hoan bỗng nhiên trầm lắng trong sự suy tưởng:

Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Nhịp thơ bỗng thay đổi, mang xúc cảm trầm lắng, ẩn chứa thái độ thành kính thiêng liêng, hướng người đọc trở về quá khứ lịch sử của quê hương. Khi con người ta vui mừng, hân hoan về một chiến thắng thì bao giờ, sau đó cùng sẽ là những giây phút trầm mặc suy nghĩ về cái giá của chiến thắng đó. Tứ thơ của Nguyễn Đình Thi về đất nước tạo nên một chiều sâu khôn cùng.

Đất nước ở đây không chỉ được cảm nhận ở hiện tại mà được nhìn nhận trong chiều sâu quá khứ. Quá khứ là bệ phóng, điểm tựa của hiện tại. Theo ông, đất nước ở đây là đất nước của những con người bất tử, chưa bao giờ khuất phục. Chữ rì rầm kết hợp với từ vọng tạo ra sự hô ứng, cộng hưởng kì diệu. Như thể người cảm nhận được cái cao cả, thiêng liêng, sự gần gũi và thân thiết.

Nguyễn Đình Thi như muốn nêu lên bài học lịch sử cha ông, đạo lý của cha ông được ghi tạc lại trong tâm khảm mỗi con người Việt Nam, ngỡ như lời trò chuyện, tâm tình, thú vị của những người xưa. Tạo nên xúc cảm thiêng liêng thành kính nhưng lại thân thiết và gần gũi. Khổ thơ như khúc nhạc trầm trong bản Instrumental (hoà tan) của Đất nước.

Khi suy nghĩ về tự do độc lập, về bài học lịch sử của cha ông, Nguyễn Đình Thi hướng dòng suy nghĩ của mình về quá khứ đấu tranh của dân tộc, với những khốc liệt vốn có của nó:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Những câu thơ tràn ngập cảm xúc đau thương sâu lắng. Hai câu đầu, có thể coi là hai câu đặc sắc thể hiện tài hoa của nghệ sĩ. Thơ của Nguyễn Đình Thi không chỉ giàu hình ảnh mà đầy ắp tính nhạc và hội hoạ. Các hình ảnh thơ mang giá trị hiện thực cao, sử dụng biện pháp tu từ đặc sắc: cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời… gợi ra một nỗi đau khôn cùng, vẻ đẹp bình yên của làng quê đã bị lãng quên, cái yên ả của không gian không còn.

Thay vào đó là hình ảnh dây thép gai với tội ác chồng chất của kẻ thù và cánh đồng máu đầy sự đau thương. Câu thơ diễn tả sự khốc liệt của chiến tranh và tội ác ghê gớm của quân thù, bộc lộ một nỗi đau lên đến tận cùng. Nỗi đau càng lớn, niềm căm thù càng sâu sắc.

Cái tài của tác giả là tự gửi vào thơ chất điện ảnh và hội họa đặc tả. Đọc thơ, người đọc như thấy trước mắt mình là cả hiện thực khốc liệt của những năm tháng khổ đau một cách tường tận và chi tiết. Ngòi bút của Nguyễn Đình Thi như một máy quay phim tài ba và đặc biệt giúp cho người đọc nhận ra một bức tranh ngập đầy máu của chiến tranh. Nỗi đau của con người và màu của ráng chiều đổ xuống gợi nên một màu tang tóc, đau thương.

Màu máu đỏ là thay thế hoàn toàn cho sắc xanh của bầu trời, màu vàng óng của cánh đồng lúa. Nhưng ở hai câu sau, mạch cảm xúc có sự chuyển đổi. Tác giả nói tới hình ảnh của người chiến sĩ ra trận từ trong đau thương, đã quyết tâm nung nấu một ý chí mạnh mẽ. Câu thơ giàu chất hiện thực và chất lãng mạn. Vẽ nên hình ảnh sống động của người lính kiên cường bất khuất, lại vừa sâu lắng và lãng mạn của bài thơ.

Và ở khổ thơ tiếp, Nguyễn Đình Thi đã lí giải sâu xa về sức sống, tinh thần ý chí chiến đấu của người dân:

Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn

Câu thơ ngắt nhịp khoẻ, rắn rỏi, thể hiện sâu sắc niềm tự hào, kiêu hãnh của tác giả về sức sống và vẻ đẹp của cả dân tộc. Từ ngời và bật được dùng rất hay, sự trỗi dậy, hồi sinh kỳ diệu, sự tỏa sáng, sức sống của dân tộc. Vẻ đẹp quê hương, sức sống dân tộc được khơi nguồn sâu xa từ năm tháng thương đau. Từ hình ảnh con người bình dị, chân lấm tay bùn đã vươn lên thành anh hùng dũng cảm trong hành động, kiên định trong ý chí. Tứ thơ gợi ra chiều sâu của suy tưởng ở khổ thơ tiếp:

Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da

Khổ thơ này đã khắc hoạ trực tiếp tội ác của kẻ thù với niềm căm thù, nỗi đau tột cùng của nhân dân. Hình ảnh bát cơm chan đầy nước mắt là hình ảnh mang tính biểu tượng. Mồ hôi hoà quyện với nước mắt. Câu thơ gợi ra nỗi đau, sự xót xa của con người trong nô lệ. Cách xưng hô đối lập giữa một bên là chính nghĩa: ta, cùng với một bên là sự phi nghĩa: bọn thằng, đứa., như bao căm thù và uất hận được dồn lại.

Nhưng cho dù chiến tranh có khốc liệt như thế nào, dù quân thù tàn bạo đến đâu, chúng ta vẫn mang trong mình một khí phách anh hùng:

Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà

Cấu trúc không, đầy như muốn phủ định lại những gì mà quân đội Pháp đang cố gắng làm ở Việt Nam và khẳng định khí phách ngạo nghễ rất cao của dân tộc. Nhịp thơ mạnh mẽ, đanh thép làm cho câu thơ trở nên giàu sức biểu tượng. Sự đối lập giữa hai hình ảnh thơ xiềng xích và trời đầy chim, đất đầy hoa đã thể hiện tinh thần lạc quan của nhân dân, khí phách anh hùng của dân tộc bất chấp sự tàn khốc của chiến tranh và quân thù. Thể hiện sự tin tưởng vào chiến thắng sau này.

Nguyễn Đình Thi đã chạm đến mạch nguồn sâu xa của truyền thống dân tộc và đã khẳng định rằng: dân tộc Việt Nam không chỉ có khí phách anh hùng mà còn có khát vọng tự do và hòa bình. Ở hai khổ tiếp theo, Nguyễn Đình Thi đã miêu tả cuộc chiến đấu của nhân dân ta:

Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh

Đó là niềm tin và hi vọng chiến thắng mạnh mẽ trong lòng tác giả. Nhịp thơ như giục giã, vẫy gọi mỗi con người trên con đường ra trận, tạo ra âm hưởng hào hùng của những con người anh hùng trong một đất nước anh hùng. Đó còn là sự tự hào của tác giả, những câu thơ đậm chất lãng mạn và sử thi, thể hiện một cảm xúc tươi mới đầy tin tưởng, tràn đầy âm hưởng hào hùng.

Tham khảo thêm:   Ôn tập cuối học kì II môn Toán lớp 3 Đề cương ôn thi học kì 2 môn Toán lớp 3

Hai hình ảnh nắng đốt và mưa dội là quá trình gian khổ thăng trầm của dân tộc. Song từ trong gian khổ, khó khăn ấy, dân tộc vẫn đứng lên. Hai câu thơ kết giàu hình ảnh tráng lệ. Hình ảnh trán cháy rực và bát ngát ánh bình minh gợi lên nét vẽ rạng ngời về những đứa con của Tổ quốc dù có hi sinh, vất vả thì vẫn quyết tâm giành lại độc lập. Hình ảnh rất độc đáo, diễn tả sự thăng hoa của cảm xúc, niềm tin được thắp sáng.

Người đọc hình dung được hình ảnh ngọn lửa của thất vọng. Câu thơ cuối tràn đầy kiêu hãnh, niềm vui, khát vọng bùng nổ hi vọng. Sự bát ngát của trời đất là sự bát ngát của niềm tin con người. Và giờ đây, qua bao nhiêu khó khăn, khốc liệt, bao hi sinh, đất nước ta đã được độc lập:

Súng nổ rung trời giận giữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Hai câu đầu tái hiện sinh động không khí của cuộc chiến, cùng với khí phách anh hùng của con người Việt Nam. Câu thơ thứ nhất ngập tràn tiếng rung, khiến người đọc cảm nhận được sự dữ dội. Động từ “rung” được dùng khá chính xác, không chỉ là sự rung chuyển, khuynh đảo mạnh mẽ mà còn diễn tả niềm căm thù tột cùng đối với quân thù.

Nguyễn Đình Thi đã sử dụng biện pháp nhân hoá và so sánh tài tình, ông khiến cho người đọc, ngay lập tức sau khi đọc song hai câu đầu, cảm nhận được sự khốc liệt và sự mạnh mẽ, khí thế của quân đội ta phải ngập trời đất. Đến tận cuối bài thơ, tác giả mới gọi tên Việt Nam với sự tự do, tự chủ, sự kiêu hãnh.

Ông cảm nhận được hình ảnh đất nước trong lòng. Từ máu lửa và bùn đen đã bật dậy và sáng lòa, rực rỡ huy hoàng. Câu thơ giàu giá trị biểu tượng và tính khái quát, cộng với tính nghệ thuật rất cao. Nhịp thơ 2/2/2 vận động khỏe khoắn, sự vươn lên của dân tộc bởi một sức sống kỳ vĩ và bất tử.

Bài thơ kết thúc bằng ánh sáng, thể hiện niềm tin và khát vọng mạnh mẽ, vinh quang. Đất nước đã ghi lại và vẽ nên một hình ảnh đất nước Việt Nam với bao thăng trầm, khói lửa để đến được ngày độc lập. Đất nước xứng đáng được coi là cuốn biên niên sử nước ta bằng thơ. Đây là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sử thi và sáng tạo nghệ thuật tài năng của Nguyễn Đình Thi.

Phân tích Đất nước – Mẫu 2

Quê hương đất nước là chủ đề, cảm hứng nổi bật trong văn học nghệ thuật. Các tác giả luôn đặt trọn tình cảm yêu mến da diết vào những tác phẩm của mình. Với quãng thời gian sáng tác 7 năm (từ 1948 đến 1955), nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết nên bài thơ nổi tiếng mang tên “Đất nước”. Thi phẩm này đem đến cho người đọc những cái nhìn chân thực về một Việt Nam anh hùng, kiên cường.

Có thể thấy rằng, chủ đề của “Đất nước” được thể hiện ngay trong chính nhan đề – Tổ quốc Việt Nam ta. Bằng ngòi bút tài tình, tâm hồn thi vị, tác giả đã vẽ nên bức tranh về đất nước một cách khái quát ở từng thời điểm. Và bao trùm lên toàn bộ bài thơ là tình yêu, niềm tự hào mãnh liệt của con người dành cho mảnh đất hình chữ S.

Trước hết, đất nước hiện lên qua khung cảnh mùa thu Hà Nội năm xưa:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”.

Cụm từ “Sáng năm xưa” gợi ra hình ảnh về một buổi sáng trời thu với tiết trời trong lành, mát mẻ. Trong bầu không khí ấy, gió nhẹ nhàng thổi, hòa cùng hương cốm mới. Chỉ với hai câu thơ ngắn gọn, nhà thơ đã tái hiện lại cảnh sắc yên bình của mảnh đất ngàn năm văn hiến. Từ đó, khéo léo bày tỏ tình cảm nhớ thương “Tôi nhớ những ngày thu đã xa”. Câu thơ là sự chuyển mạch hết sức nhịp nhàng. Nguyễn Đình Thi đưa độc giả trở về những ngày đầu kháng chiến:

“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may”

Trong hoài niệm của nhân vật trữ tình, thu Hà Nội thật thơ mộng và đẹp đẽ. Sáng sớm, bầu không khí thường se se lạnh, xao xác hơi thở của gió heo may. Không gian thành phố được mở rộng nhờ hình ảnh “những phố dài”. Trên nền bức tranh thu, con người xuất hiện với tâm thế “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đây”. Mạch thơ có sự thay đổi, giọng thơ thiết tha mang âm hưởng bâng khuâng. Con người ra đi “đầu không ngoảnh lại” nhưng vẫn cảm thấy sau lưng lá vàng rơi đầy trên thềm. Từng bước chân bước đi một cách dứt khoát, vững vàng song trong lòng còn quyến luyến, bịn rịn. Như vậy, ở khổ thơ này, nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Qua đấy, dựng lên bức tranh thu cổ kính từ chính những không gian, hình ảnh, màu sắc, hương vị quen thuộc, đặc trưng của thành phố Hà Nội.

Từ mùa thu hoài niệm, Nguyễn Đình Thi quay trở lại với mùa thu thực tại:

“Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha”

Câu thơ ngắn gọn 5 chữ, nhịp thơ nhanh, giọng thơ khỏe khoắn, hồ hởi như một tiếng reo ca trước sự đổi thay của đất nước. Cụm từ “khác rồi” nhấn mạnh vào những biến chuyển ấy. Giờ đây, bức tranh thu được mở rộng, trải dài về không gian với hình ảnh “rừng tre”, “núi đồi”. Đứng giữa thiên nhiên bao la, “tôi” – nhân vật trữ tình cảm thấy hân hoan, vui sướng khi chứng kiến cảnh mùa thu “thay áo mới”. Cảnh tượng ấy càng thêm tươi đẹp nhờ tiếng cười nói rộn rã. Dường như, niềm hạnh phúc đang bao trùm lên tất cả mọi thứ, từ cảnh vật cho đến con người.

Bức tranh đất nước rộng lớn được tô điểm thông qua những hình ảnh:

“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”

Sự thay đổi trong cách xưng hô từ “tôi” thành “chúng ta” cùng biện pháp điệp ngữ “đây là”, liệt kê “trời xanh”, “núi rừng”, “những cánh đồng”, “những ngả đường”, “những dòng sông” đã thể hiện niềm hạnh phúc trào dâng khi con người được làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh. Hàng loạt tính từ “xanh”, “thơm ngát”, “bát ngát”, “đỏ” được sử dụng, góp phần tô đậm cảnh sắc thiên nhiên quê hương, Tổ quốc thân yêu.

Định nghĩa về “đất nước”, nhà thơ khéo léo giải thích qua mấy vần thơ:

“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”

Nước Nam ta được dựng xây, bảo vệ từ chính đôi tay bé nhỏ của cha ông. Ngàn năm trôi qua, bờ cõi, lãnh thổ nước nhà vẫn luôn toàn vẹn. Ấy là nhờ có những con người chưa bao giờ chịu cúi đầu, khuất phục. Họ chính là người làm nên một Việt Nam giàu truyền thống văn hóa. Khổ thơ toát lên niềm tự hào, kiêu hãnh về đất nước ngoan cường, về những giá trị tốt đẹp, quý báu vẫn sáng ngời trong suốt bốn nghìn năm lịch sử.

Bài thơ tiếp tục có sự chuyển mạch khi nhà thơ miêu tả đất nước trong những năm tháng đau thương:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”

Khi viết về quân thù, giọng thơ vô cùng đanh thép, hùng hồn, chứa đầy phẫn uất. Chiến tranh đã biến những cánh đồng yên bình, trù phú thành biển máu; biến bầu trời trong xanh thành cảnh tượng hoang tàn “dây thép gai đâm nát trời chiều”. Chưa dừng lại ở đó, lũ giặc còn làm ra những tội ác ghê gớm “Bát cơm chan đầy nước mắt/ Bay còn giằng khỏi miệng ta”. Đứng trước cảnh quê hương đất nước bị giày xéo, người con không khỏi xót xa, căm tức.

Dẫu có đau khổ, khó khăn trăm ngàn nhưng đất nước vẫn mạnh mẽ đứng lên:

“Từ những năm đau thương chiến tranh
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn”

Trong các khổ thơ tiếp, tác giả dùng hàng loạt từ ngữ “ngời lên”, “bật lên”, “không khóa được”, “không bắn được”, “đứng lên” để nhấn mạnh vào sức mạnh, tinh thần anh dũng, bất khuất của dân tộc ta. Dù hoàn cảnh có khắc nghiệt “ngày nắng đốt theo đêm mưa giội”, có chông gai “mỗi bước đường mỗi bước hi sinh” thì nhân dân Việt Nam vẫn vững lòng, vững chí.

Cuối cùng, khép lại tác phẩm là hình ảnh:

“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Bốn câu thơ được viết bằng thể thơ năm chữ, nhịp điệu dồn dập đã tạo nên âm hưởng hào hùng như khúc tráng ca. Từ đây, đất nước hiện lên sáng ngời trên cái nền máu lửa, bùn lầy, trong một không gian ầm ầm súng nổ. Hai câu thơ kết chính là hình ảnh khái quát, tượng trưng cho đất nước đứng lên từ gian khổ và tỏa sáng ngời ngời.

Bằng ngôn ngữ giàu sức gợi, hình ảnh thơ gần gũi, thân thuộc, sử dụng thành công biện pháp so sánh, điệp ngữ, Nguyễn Đình Thi đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh Việt Nam hiên ngang, bất khuất và kiên trung. Qua đó, bộc lộ niềm ngợi ca, tự hào thiết tha về đất nước tươi đẹp, giàu truyền thống.

Không thể phủ nhận, “Đất nước” là sự kết hợp hài hòa giữa nhiều yếu tố: chất trữ tình với chất chính luận, cảm xúc cá nhân với tình cảm, tư tưởng của cả dân tộc. Đọc bài thơ, ta càng thêm ngưỡng mộ Nguyễn Đình Thi – một ngòi bút tài hoa, một tâm hồn sâu sắc.

Phân tích bài Đất Nước – Mẫu 3

Có lẽ không có một nhà thơ nào trên thế gian này, trở thành một nhà thơ chân chính mà lại không có một vần thơ, một bài thơ viết về đất nước, về quê hương. Bởi vì đất nước là nguồn cảm hứng vô tận đối với thi sĩ muôn đời. Nhưng tình cảm đất nước ở mỗi con người lại hình thành theo một con đường riêng, mang nội dung màu sắc riêng và dựa trên những cảm nhận riêng.

Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ viết nhiều về đất nước. Nhưng có lẽ chưa ở đâu, trong thơ và trong văn của ông, cảm hứng về đất nước lại nổi bật, tập trung đặc sắc như ở bài thơ Đất nước.

Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác từ năm 1948 đến năm 1955 mới hoàn thành, so với Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi ngắn hơn, thế mà Hoàng cầm sáng tác chỉ trong một đêm, còn Nguyễn Đình Thi đã viết trong bảy tám năm ròng rã. So sánh như vậy để thấy cảm hứng về đất nước của hai nhà thơ ngay ở mặt này đã có cái gì rất khác nhau:

Bên kia sông Đuống là cảm hứng tuôn tràn, Đất nước là tình cảm nung nấu: Những đêm dài hành quân nung nấu. Lần giở lại “tiền sử” của bài thơ và đọc kĩ phần thứ nhất Đất nước, ta càng thấy rõ đó là một tình cẩm nang nấu, nung nấu nỗi nhớ, nung nấu niềm vui, niềm tin yêu của người làm chủ.

Là một thanh niên sống và hoạt động ở Hà Nội, Nguyễn Đình Thi viết về đất nước, trước hết là viết về Hà Nội, thủ đô của đất nước, thủ đô của trái tim ông, Hà Nội với hương sắc xao động long lanh trong nắng gió mùa thu.

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Mùa thu nay khác rồi,
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha…

Chẳng phải ngẫu nhiên chút nào khi nói đến đất nước là nói đến Hà Nội và nói đến Hà Nội lại nói đến mùa thu. Đất nước ta tươi đẹp bốn mùa nhưng đẹp nhất là vào mùa thu và có mùa thu ở đâu lại đẹp, lại “mát trong” hơn mùa thu Hà Nội? Nhất là mùa thu nơi đây lại từng điểm một cái mốc vàng son vào lịch sử – “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình” giữa “Tháng Tám mùa thu xanh thẳm” (Tố Hữu). Cho nên, chẳng phải chờ đến bốn câu tuyệt tác, ngay từ những đồng đầu đã có cái gì xôn xao, xào xạc trong hồn:

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Đất nước gắn với nỗi nhớ, nỗi nhớ khởi từ mùa thu, mùa thu “đã xa” được gợi lại từ “mùa thu nay”. Rõ ràng là có hai mùa thu như đang soi chiếu vào nhau làm cho mọi phía đều long lanh lấp lánh hơn lên trong tâm hồn thi sĩ. Cái cảm giác “mát trong” là chung, là muôn thuở đối với mọi mùa thu Việt Nam, mùa thu Hà Nội.

Cái riêng biệt cái “đã xa” đã “khó rồi” giữa hai mùa thu, còn lại là gì? Trong những ngày thu đã xa Hà Nội “mát trong” vẫn “mát trong” vẫn đẹp và thơ mộng. Nhưng đó là cái đẹp buồn. Phố xá vắng vẻ, xao xác, sân thềm đầy nắng, đầy lá vàng rơi. Gió heo may mang theo khí lạnh đầu mùa thổi dài theo những dãy phố cổ vắng người. Có một cái gì buồn, thật trang trọng trong thời khắc chuyển mùa, thời khắc chia xa.

Mùa thu nay vẫn “mát trong” như “sáng năm xưa” ấy nhưng cũng “đã khác rồi”. Khác rồi bởi cái “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” của “những ngày thu đã xa”, giờ đây đã “đứng giữa núi đồi”, đúng từ một tầm cao của chiến khu kháng chiến Việt Bắc để mà “nhớ’ mà “nghe”. Lòng người đã đổi nên ngọn gió cũng đổi, âm thanh cũng đổi, sắc hương cũng đổi:

Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.

Đó là cơn gió thổi, sắc áo mới, tiếng nói cười giữa một cuộc hồi sinh. Có một thay đổi nhỏ trong cách xưng hô ở trên là “tôi nhớ”, “tôi đứng vui nghe”. Đến đoạn thơ tiếp theo, đất trời mùa thu lại vang vọng tiếng “nói cười thiết tha” của “chúng ta”.

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Nước chúng ta…

Mấy chữ “của chúng ta”, “chúng ta” ấy vang lên thật rắn rỏi, kiêu hãnh tin yêu, “chúng ta” tự hào về “nước chúng ta” có chủ quyền, tự hào vì “nước chúng ta” giàu đẹp rộng lớn.

Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa…

Tự hào vì truyền thống “không bao giờ khuất” của cha ông mình:

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về

Ở trên, ta nghe một “tiếng nói cười thiết tha” vọng lên đâu đó giữa tầng trời “trong biếc”, ơ đây trong những dòng khép lại phần thứ nhất bài thơ, ta lại nghe tiếng nói thiêng vọng lên từ lòng đất thiêng mà nhà thơ gọi là “tiếng đất”. Như vậy, cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi trong phần thứ nhất của bài thơ là niềm vui của người làm chủ.

Đó là niềm vui, là nỗi nhớ vừa sâu lắng vừa náo nức trong lòng, một thứ nỗi niềm vọng trong tâm thức thành một thứ tiếng nói riêng, “tiếng thu” riêng, nghe mênh mang sâu thẳm: sâu thẳm giữa bầu trời, sâu thẳm trong lòng đất và sâu thẳm giữa hồn người đi kháng chiến.

Như trên đã nói, Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác từ năm 1948 đến 1955 mới hoàn thành. Phần thứ nhất được hoàn thành năm 1948 (“Sáng mát trong như sáng năm xưa”), (“Đêm mít tinh”) phần thứ hai, được viết tiếp từ 1949 đến 1955.

Nguyễn Đình Thi hình như chờ cho lịch sử viết xong thiên sử thi của dân tộc mình, rồi mới theo đó mà viết nốt phần thứ hai này. Có lẽ vì vậy mà dù thiên về xây dựng những hình ảnh có tính biểu tượng khái quát, lời thơ vẫn âm vang những tiếng vọng của cuộc sống hào hùng của một đất nước chiến đấu và chiến thắng, ơ đó, có âm vang của phong trào phát động quần chúng trong cải cách ruộng đất:

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn

Có âm vang nhịp bước vào công – nông – binh “liên minh” kháng chiến:

Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng

Nhưng nếu như những biểu tượng khái quát trên đây chỉ được xây dựng bằng cảm quan lịch sử, bằng sự kiện thì Đất nước của Nguyễn Đình Thi đã không làm xôn xao lòng người đến thế. Rất nhiều những biểu tượng đã kết tinh từ những kĩ niệm riêng, từ chính quan sát, trải nghiệm của một nghệ sĩ từng sống lăn lộn trong kháng chiến. Cho nên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi có nhiều khổ, nhiều dòng lấp lánh cái chất sống của nhà thơ và của nhân dân.

Khi ông viết:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Thì ta hiểu đó là nỗi đau chung quyện vào những nỗi đau riêng, và nỗi đau ấy nung nấu thêm vì một nỗi nhớ xao xuyến chay lòng. Trong đó có kỉ niệm về một buổi chiều hành quân ở Bắc Giang: Nhìn lên đồi cao, dây thép gai đồn giặc hằn lên như cào cấu “đâm nát trời chiều”.

Ráng chiều đỏ bầm lại, rãnh cày đồng quê như “chảy máu”. Những chi tiết rất thực, rất sống sít ấy đã vào thơ và trở thành biểu tượng đau thương của đất nước trong kháng chiến chống Pháp. Đó không còn là hình ảnh của một thời mà là hình ảnh của mọi thời giặc giã, không còn là hình ảnh của một vùng quê Bắc Giang mà hiển thân của mọi vùng quê, mọi đất nước dưới gót giày quân xâm lược.

Những hình ảnh đau thương quặn lòng ấy sẽ còn “nung nấu” những “đêm dài hành quân” nhưng cũng từ miền đau thương sâu thẳm ấy, mọc lên những ngôi sao thương nhớ lấp lánh, thao thức bồn chồn. Đó là ánh mắt “người yêu” là nỗi nhớ bồn chồn và cũng chính là sự thôi thúc, là niềm tin.

Trong thơ Nguyễn Đình Thi, nỗi “nhớ mắt người yêu” như nhớ một ánh sao lấp lánh ấy thường trở đi trở lại nhiều lần (Trong Bài thơ viết cạnh đồn Tây: “Nhớ em đôi mắt hay cười”, Trong Em bảo anh: “Tia lửa nơi ta bay lên cao – Trong mắt người yêu thành trời sao”, trong Nhớ: “Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh – Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây”…)

Nhưng đặc biệt ở “Đất nước”, “Mắt người yêu” gợi một nỗi nhớ lớn lao sâu thẳm, vượt lên trên cả tình yêu đôi lứa, vượt lên trên nỗi nhớ người yêu. Bởi thứ ánh sáng bất chợt bừng lên trong tâm hồn ấy có cả nỗi đau, nỗi nhớ, có cả buồn vui, cả tin yêu hy vọng, cả riêng và chung. Bài thơ khép lại bằng một cảnh tượng hào hùng, tráng lệ:

Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Cảnh tượng vĩ đại này cũng là một biểu tượng khái quát về sự lớn mạnh quật cường của đất nước từ trong đau thương gian khổ. Nhưng đó là một bức tranh sống động. Cảm hứng hiện thực lấy từ chiến thắng Điện Biên Phủ: Đoàn quân “áo vải”, “đứng lên thành những anh hùng” phất cao cờ chiến thắng trên nóc hầm viên tướng bại trận Đờ Caxtơri chiều mùng 7 tháng 5 lịch sử.

Cảnh tượng đó đã được nhiều nhà quay phim, chụp ảnh ghi lại, nhưng hiếm có ở đâu gợi cho ta thật nhiều ấn tượng như ở đây, có cái gì rung chuyển như một cơn trở dạ vĩ đại của trời đất, của lịch sử. Trước mắt ta lồng lộng, chói lòa một “Nước Việt Nam từ máu lửa – Rũ bùn đứng dậy…” Đó là cái “rũ bùn đứng dậy” của Phù Đổng Thiên Vương thời đánh Pháp.

Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ đặc sắc về đề tài này. Đặc sắc nhất là ở cảm hứng rất riêng về đất nước của ông: Một đất nước gắn liền với mùa thu, gắn liền với niềm vui nỗi nhớ của con người làm chủ, một đất nước thật đẹp ngay trong cảnh gian khổ đau thương. Chính nhà thơ đã từng viết:

Anh yêu em như yêu đất nước
Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần

(Nhớ)

Có lẽ vì vậy mà giữa bao nhiêu bài thơ hay về đất nước của bao nhiêu nhà thơ, người đọc vẫn không thể quên được những câu thơ tuyệt tác của ông về phố Hà Nội, về “Những cánh đồng quê chảy máu – Dây thép gai đâm nát trời chiều” và về “Nước Việt Nam từ máu lửa – Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.

Phân tích bài thơ Đất Nước – Mẫu 4

Đất nước là đề tài lớn, xuyên suốt trong lịch sử văn học, nhưng ở mỗi thời kì văn học, đề tài này được các nhà thơ khai thác ở những góc độ khác nhau. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp xuất hiện rất nhiễu bài thơ tập trung khắc họa hình ảnh đất nước đau thương nhưng anh hùng quật khởi, nổi bật nhất là Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ là cả một chặng đường nhận thức về đất nước của tác giả.

Từ ba bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít linh (1949), và Đất (1965), Nguyễn Đình Thi đã tập hợp lại thành Đất nước. Qua những cảm nhận tinh tế về mùa thu đất nước, qua hình tượng Tổ quốc đau thương mà anh hùng, bài thơ thể hiện sâu sắc ý thức độc lập tự chủ, tình cảm yêu nước, căm thù giặc và niềm tự hào về sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ là sự tập hợp, ghép nối từ nhiều bài thơ nhưng không hề mất đi tính thống nhất chỉnh thể, trái lại đã phát triển theo một mạch cảm xúc tinh tế và khá nhất quán về tư tưởng. Bài thơ mở đầu với dòng cảm xúc về mùa thu đất nước, nhưng là trong những thời điểm và không gian khác nhau:

Tham khảo thêm:   10 quán bánh xèo bình dân ở Sài Gòn ngon không thể rời đi

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương, cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.

Trong một sáng mùa thu ở chiến khu Việt Bắc, nhà thơ bỗng có cảm giác cái mát mẻ, trong sáng của sớm mùa thu ấy giống như “sáng năm xưa” khi nhà thơ ra đi, hơn nữa trong gió thu nhẹ thổi còn thoảng bay hương cốm mới, gợi nhớ tới một mùi hương rất đặc trưng của Hà Nội vào thu. gần với cuộc sống sinh hoạt của người dân Thủ đô. Nhịp thơ như chậm rãi, nhẹ nhàng, dòng hồi tưởng của nhà thơ trong không khí ấy dào dạt tuôn chảy:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Đó là “những ngày thu đã xa” – những ngày thu trước Cách mạng, nhà thơ phải tạm biệt Thủ đô để lên đường. Cũng là viết về cảnh thu nhưng có bao nhiêu mơ hồ, mặc cảm trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến; bao nhiêu lãng mạn trong thơ Xuân Diệu, bao nhiêu cái ngơ ngác của con nai vàng đạp trên lá khô trong thơ Lưu Trọng Lư.

Trong thơ Nguyễn Đình Thi, cảnh thu Hà Nội chỉ hiện ra trong hồi tưởng nhưng thật đẹp, tuy nhiên vẫn có cái tĩnh lặng và buồn man mác. Đó là cảnh thu đất nước trong những năm đau thương: Sương chớm lạnh trong lòng Hà Nội. Trong thơ Nguyễn Khuyến, thời tiết thu được nói đến “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” – đó là thời tiết chính thu. Thơ Nguyễn Đình Thi cũng nói về mùa thu nhưng là độ đầu thu.

Hai chữ “chớm lạnh” thật gợi cảm: chút se lạnh trong mùa thu tuy mới đến nhưng không phải là “những hiện tượng da thịt bên ngoài” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) mà đã thấm thía tận “trong lòng Hà Nội”. Nghĩa là tất cả không gian, cỏ cây, hoa lá, con người, phố phường đã cảm nhận sâu sắc được cái lạnh của mùa thu. Cái “chớm” ấy không ngọt ngào như cái rét đầu mùa. nhưng không phải là cái mát mẻ trong mùa hè mà đã là sự pha trộn trong cả hai mùa.

Có lẽ chỉ mùa thu, khí thu Hà Nội mới mang lại cho con người cái cảm giác về thời tiết như vậy. Hà Nội vào thu, gió thổi trên những dãy phố dài cổ kính lại rất nhẹ, chưa phải gió “heo may” mà mới chỉ dừng lại ở độ “hơi may”. Nghĩa là cũng mới chỉ ở độ “chớm” mà thôi.

Dường như tất cả mới chỉ đang ở độ bắt đầu, hết sức nhẹ nhàng nhưng đã làm cho người đọc cảm nhận được sự thay đổi, sự mới bắt đầu ở ranh giới ấy. Nhà thơ đã nhận ra, người Hà Nội đã nhận ra được “hơi thở dịu dàng” ấy của mùa thu. Lẽ tất nhiên, con người ra đi trong hoàn cảnh ấy, dù có mục đích gì chăng nữa tuy bê ngoài có tạo ra dáng vẻ mạnh mẽ, kiên quyết, dứt khoát “đầu không ngoảnh lại” nhưng từ trong sâu thẳm tâm hồn vẫn tràn đầy lưu luyến, nhớ thương, vẫn nhận ra rất rõ những gì của Hà Nội ở phía sau: Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy .

Câu thơ có cả chất nhạc, có cả chất họa trong cái rơi đầy của nắng, lá. Phải chăng đó là điều đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội? Màu vàng của nắng quyện vào màu vàng của lá tạo nên một khung cảnh tràn đầy sắc vàng, xua đi cái “chớm lạnh” của “hơi may”. Khung cảnh ấy làm nền cho tâm trạng ấy mới thật hợp. Dường như không gian và thời gian đã có sự biến đổi, cái lắng lại dịu dàng của màu tím Hà Nội rất phù hợp với tiếng lòng thi sĩ, phù hợp với tâm trạng người ra đi.

Từ mùa thu năm xưa, nhà thơ dẫn vào cảm xúc về mùa thu của cách mạng, mùa thu của độc lập dân tộc trong khung cảnh hiện tại của chiến khu Việt Bắc:

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha

Nếu như bảy câu thơ đầu viết theo thể thơ thất ngôn, gần như trọn vẹn là một bài thơ thất ngôn bát cú, diễn tả những cảm xúc lắng đọng, trang trọng, phù hợp với cách diễn tả nỗi nhớ thì đoạn thơ tiếp theo lại viết theo thể thơ tự do, thể hiện cái náo nức, niềm vui phơi phới, tràn đầy tiếng nói cười. Câu thơ “Mùa thu nay khác rồi” là câu thơ chuyển đoạn, một sự khẳng định hay một lời reo vui mà sao nghe tha thiết đến thế!

Có thể thấy ở đây thiên nhiên được nhân hóa không chỉ đầy màu sắc, âm thanh mà còn chan chứa tình người. So với mùa thu xưa, cái “khác rồi” rõ nhất ở mùa thu nay là “vui”: niềm vui của hiện thực khách quan đã thành niềm vui của chủ thể trữ tình và khi cất lên thành cảm xúc thơ ca, niềm vui ấy lại lan tỏa vào từng cảnh vật được miêu tả, khắp núi đồi, rừng cây, bầu trời. Tiếng cười “trong biếc” nghe tha thiết được chuyển đổi cảm giác như lan tỏa vào cảnh vật, gieo niềm vui đến muôn nơi.

Rõ ràng cảm xúc về mùa thu đã gắn liền với niềm vui, niềm yêu mến, tự hào làm chủ đất nước. Với con mắt say mê của nhà thơ, đất nước nơi nào cũng tươi đẹp, cũng dài rộng bát ngát, cũng màu mỡ phì nhiêu, cũng tiềm tàng sức sống cho một cuộc đời ấm no hạnh phúc. Chính vì thế, cảm xúc của nhà thơ đi từ trạng thái vui tươi đến sự khẳng định chắc chắn:

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Điệp khúc “của chúng ta” như ngân vang trong lòng người và giữa đất trời sông núi. Đó không chỉ là ý thức về quyền làm chủ đất nước mà còn là niềm tự hào của những con người Việt Nam qua Cách mạng tháng Tám đã giành lại đất nước bằng mô hôi, xương máu của chính mình. Những câu thơ là sự khẳng định liên tiếp, nhanh, dồn dập của nhà thơ cũng là của con người Việt Nam trước độc lập của đất nước.

Có được mùa thu đẹp như thế hôm nay, được nắm vững chủ quyền độc lập trong tay, người ta không thể không nghĩ tới những cội nguồn sâu xa đã tạo nên sự thay đổi vĩ đại ấy. Đó đâu chỉ là sức mạnh của hiện tại mà còn là sức mạnh của truyền thông bao đời, đó cũng là bản chất của con người Việt Nam – những con người luôn gắn bó, tha thiết với quá khứ, hướng tới tương lai, sống thầm lặng, bình dị nhưng bất khuất và anh hùng:

Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Đó là đất nước của tình yêu, đất nước của nguồn cội “con Rồng cháu Tiên”. Đó là một cách cảm nhận ở Đất nước. Trong bài thơ, Nguyễn Đình Thi định nghĩa đất nước là đất nước của những con người anh hùng, anh hùng ở

mọi thời đại, những khí phách tinh hoa vẫn âm vang trong hồn thiêng sông núi. Dáng điệu của đất nước được khái quát bằng chiều dài của lịch sử tâm hồn, khí phách của nhân dân ta. Nghe tiếng vọng của cha ông cùng hồn thiêng sông núi, trong lòng ta dâng lên một niềm tự hào về chính Tổ quốc mình.

Xuất phát từ tình yêu và niềm tự hào về Tổ quốc, Nguyễn Đình Thi nghĩ về cuộc kháng chiến gian lao mà anh dũng, ở đó cảm hứng chủ đạo là hướng tới sự khẳng định Tổ quốc nhân dân, cuộc cách mạng này được quyết định bằng sức mạnh của nhân dân. Dường như đây là một quy luật tất yếu – giặc đến xâm lược quê hương, đất nước mình, những con người hiền lành hồn hậu trở thành những con người cháy bỏng lòng căm thù:

Từ gốc lúa bờ tre hiền hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn.

Vẫn trong nguồn mạch của lòng căm thù, gây ấn tượng hơn cả là hai câu thơ:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.

Trong ánh chiều tà, cánh đồng vùng vành đai trắng như nhuốm đỏ màu máu, hàng dây thép gai đồn giặc tua tủa chĩa lên đâm nát bầu trời và bầu trời ấy cũng đỏ rực như đang ứa máu. Đó là hình ảnh có thực mà Nguyễn Đình Thi đã nhận ra trên chặng đường hành quân, nhưng với cách miêu tả rất gợi của nhà thơ kết hợp với từ cảm thán “ôi” đặt ở đầu câu thơ, hình ảnh ấy mang ý nghĩa biểu tượng cho đất nước đau thương trong chiến tranh, bị quân thù chiêm đóng, đồng thời lên án, tố cáo tội ác của quân giặc tàn bạo.

Cánh đồng quê kia chứng kiến bao cảnh đầu rơi máu chảy, là dấu tích của sự tàn ác mà quân giặc gây ra. Chiến tranh đồng nghĩa với sự tàn phá, đau thương, chết chóc. Nhưng vượt lên trên những đau thương ấy, cuộc sống vẫn chảy trôi, những tình cảm của con người vẫn biểu lộ hết mình:

Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Đó là cái rất chung của người lính ra đi chiến đấu. Trong hành trang của họ bao giờ cũng có nỗi nhớ. Bên cạnh những nỗi nhớ người thân, xóm làng còn có nỗi nhớ người yêu. Trong Đất nước, Nguyễn Đình Thi cũng nội về nỗi nhớ ấy, nó xoa dịu đi bao nhiêu nỗi đau vì quê hương bị tàn phá.

Có thể nói, nhà thơ đã kết hợp giữa cái “tôi” và cái “ta” rộng lớn. Nói về cái chung để nói đến cái riêng, cái riêng đó là tình cảm hết sức chân thật, đời thường. Những giây phút “bồn chồn nhớ mắt người yêu” ấy là những khoảnh khắc yên bình, lãng mạn rất quý trên đường hành quân qua mưa bom, lửa đạn. Đó là những giây phút làm ấm lòng người lính xa nhà.

Cùng với sức mạnh của lòng căm thù, những con người bình dị của nước non này đã xung trận với sức mạnh bất khuất từ nghìn xưa của cha ông, sức mạnh của sự gắn bó với những gì thân thuộc trong đời sống hàng ngày, sức mạnh của ước mơ giản dị về cuộc sống quê hương thanh bình – tất cả đã tạo nên điều vĩ đại:

Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.

Chính những người anh hùng áo vải ấy, theo cách nói của Nguyễn Đình Thi. đã “gánh trên vai cả cuộc kháng chiến thắng lợi”, cũng chính họ đã tạo nên dáng hình đẹp đẽ, rực rỡ của Tổ quốc trong hào quang của chiến thắng của tương lai:

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

Bốn câu thơ đã tái hiện được cả quá trình đi lên của dân tộc, trải qua những vất và hi sinh để giành lại độc lập từ tay giặc. Biết được những vất vả gian lao ấy, ta mới thấm thía được giá trị của nền độc lập, của cuộc sống tự do. Bốn câu thơ viết theo thể thất ngôn, làm thành một bài thơ tứ tuyệt mang tính chất sử thi hùng tráng, thể hiện niềm tự hào về lịch sử và con người Việt Nam. Và tất cả sự dồn nén của tình cảm, của cảm xúc, sự dồn nén của lòng căm thù, cuối cùng cũng phát ra thành tiếng nổ lớn:

Súng nổ rung Trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Nhịp thơ ngắn, nhanh như những bước chân đang dồn dập xông lên, thể hiện khí thế, sức mạnh của lòng căm thù cao độ (biểu hiện qua hình ảnh “súng nổ rung trời giận dữ”). Vũ khí nhấn chìm, tiêu diệt hết quân giặc bằng sức mạnh của cả một dân tộc bị áp bức bóc lột, đô hộ trong gần một thế kỉ được biểu hiện bằng hình ảnh so sánh “người lên như nước vỡ bờ” lấy từ thành ngữ “tức nước vỡ bờ”.

Sức vươn dậy thần kì của đất nước và con người Việt Nam từ kiếp sống nô lệ, đầy tăm tối dưới bùn đen đã vượt qua những trận chiến đấu ác liệt đầy máu lửa để đi đến chiến thắng sáng chói, vinh quang như một tượng đài lịch sử đã được nhà thơ khắc họa thật rõ nét.

Có thể nói, từ một chi tiết có thực trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nhà thơ đã nâng lên thành tư thế của cả một dân tộc, khái quát đầy đủ khí phách của cả dân tộc. Nhân dân ta đã chiến thắng hoàn toàn thực dân Pháp, đánh đổ ách thống trị hàng trăm năm của chúng. Hòa bình đã lập lại, đất nước ta đã hoàn toàn độc lập, nhân dân ta đã hoàn toàn tự do. Bài thơ kết thúc trong tư thế đi lên của dân tộc, của con người Việt Nam.

Đất nước gây ấn tượng sâu sắc bởi chất chứa tình kết hợp với chất chính luận, bởi hình thức câu thơ linh hoạt, nhịp thơ phóng khoáng, hình ảnh thơ đẹp đẽ, chọn lọc, ngôn ngữ thơ cô đọng mà gợi cảm. Những ấn tượng sâu sắc, rõ nét hơn cả là bài thơ đã tạo dựng thành công một tượng đài hùng vĩ bằng thơ về Đất nước, Tổ quốc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì gian khổ nhưng anh dũng và tất thắng.

Phân tích bài thơ Đất Nước – Mẫu 5

“Đất nước” là bài thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ được sáng tác và hoàn thành trong thời gian khá dài (1948 – 1955) theo hành trình và phát triển đi lên của đất nước và dân tộc. “Đất nước” in trong tập thơ “Người chiến sĩ” của tác giả.

Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi thể hiện những cảm nhận về đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam hiền hòa, đẹp tươi, trong đau thương đã quật khởi đứng lên anh dũng chiến đấu và chiến thắng với sức mạnh phi thường. Hai câu thơ đầu nói về vẻ đẹp của đất nước khi mùa thu về:

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.

Nguyễn Đình Thi chỉ gợi sắc thu, khí thu (mát trong), về gió thu về hương thu (hương cốm mới). Một cách viết hàm súc mở ra bao liên tưởng về bầu trời thu trong xanh, bao la và khí thu mát mẻ mơn man hồn người, về gió thu nhè nhẹ thổi từ những cánh đồng lúa mang theo hương cốm mới phả vào lòng người lâng lâng. Đó là vẻ hiền hòa, tươi đẹp của đất nước đã bao đời nay. Đoạn thơ tiếp theo là hoài niệm của “người ra đi” về “những ngày thu đã xa” – thu Hà Nội:

Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

“Chớm lạnh” là cái lành lạnh đầu thu; chỉ có sáng và chiều thu trong buổi thi sơ mới “chớm lạnh” như thế. Hà nội như mở rộng lòng đón nhận cái “chớm lạnh” đầu thu. Hơi may tỏa khắp mọi nơi. Lá thu, lá vàng rụng bay bay, xoay xoay theo chiều gió, để lại tiếng thu xao xác trên những phố dài.

Cảnh giã biệt phố cũ của “người ra đi” buồn lẳng lặng. Khách chinh phu của thời đại “ôm chí nhớn” ra đi, cố nén lại bao tâm tư trĩu lòng. “Đầu không ngoảnh lại” là một tâm thế của li khách. “Người ra đi” xa dần, xa dần năm cửa ô, chốn cũ yêu thương, tuy “đầu không ngoảnh lại” nhưng vẫn cảm thấy có bao nhiêu nắng thu, lá thu “rơi đầy” trên hè phố, thềm đường ở phía sau lưng mình. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều.

Tâm trạng của người ra đi buổi sáng sớm đầu thu ngày xưa ấy như vương vấn mang theo một mảnh trời thu Hà Nội với nắng vàng và lá thu rơi. Có nhiều người đã đưa ra các cách ngắt nhịp cảm thụ vẻ đẹp câu thơ cuối đoạn: ngắt nhịp 3/4 hoặc 4/3; lại có người cho rằng nên ngắt nhịp 2/5 để làm rõ chủ thể trữ tình với không gian nghệ thuật: Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Qua đoạn thơ, ta thấy ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi thật là tài hoa. Lời thơ trong sáng, dịu buồn. Vẻ đẹp và hồn thu đất nước, hồn thu Hà Nội như được tinh lọc trong tâm hồn tác giả, trở thành hành trang của “người ra đi”. Cuộc đời đã đổi thay, đất nước đã đổi thay nên vẻ đẹp mùa thu đất nước cũng đổi thay kì lạ. Câu thơ bảy tiếng bỗng co ngắn lại, giọng thơ như một tiếng reo cất lên náo nức:

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.

Không gian nghệ thuật được nói đến là núi đồi chiến khu, là “rừng tre phấp phới” trong gió thu. Cả một trời thu bao la, xao động, tươi sáng lên, ánh lên tươi thắm như “thay áo mới”. Đất nước buổi thu vẻ đẹp tươi lạ thường và dào dạt sức sống. Có sắc thu “trong biếc”, có tiếng thu là âm thanh “nói cười thiết tha” xôn xao. Hình ảnh “tôi đứng vui nghe” biểu lộ một tâm thế một tư thế, một cảm xúc nhiều thơ mộng, nhiều tự hào trước vẻ đẹp và niềm vui khi đất nước vào thu. Đó là mùa thu chiến khu Việt Bắc, mùa thu kháng chiến thời chống Pháp.

Những câu thơ bảy tiếng, năm tiếng đan xen vào nhau hòa quyện vào nhau tạo nên giọng thơ mạnh mẽ, hào hùng. Hình ảnh đất nước hiện lên tráng lệ hùng vĩ với “trời xanh”, với “núi rừng”, với những cánh đồng, những ngả đường, những dòng sông… Các tính từ: “xanh, thơm mát, bát ngát, đỏ nặng” là những nét vẽ, những gam màu tô đậm cái hồn đất nước, không chỉ là một giang sơn gấm vóc mà còn biểu lộ biết bao yêu mến tự hào về sự bền vững của đất nước bốn nghìn năm.

Các điệp ngữ “đây là của chúng ta”, “những” (cánh đồng, ngả đường, dòng sông) như những nốt nhấn, lúc bổng, lúc trầm của bài ca Tổ quốc, thể hiện ý chí tự lập tự cường và tinh thần làm chủ đất nước của quân và dân ta. Ngọn gió thời đại, ngọn gió của cách mạng và kháng chiến đã làm cho những vần thơ viết về mùa thu, về đất nước của Nguyễn Đình Thi cất cánh bay lên. Đây là đoạn thơ đẹp nhất trong bài thơ “Đất nước”, trở thành câu thơ trong trí nhớ của hàng triệu con người Việt Nam hơn nửa thế kỉ qua:

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.

Khổ thơ tiếp theo, tác giả nói lên những suy ngẫm về đất nước và dân tộc. Lời thơ vang lên như một tuyên ngôn về Tổ quốc và dáng đứng Việt Nam trong trường kì lịch sử:

Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng tiếng về.

Câu thơ thất ngôn bỗng rút ngắn lại còn ba tiếng; vần trắc (khuất – đất) như dồn nén lại, thắt lại, làm cho âm điệu thơ trầm hùng thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh về truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc. Tiếng nói của tổ tiên ông bà, tiếng gươm khua trên sông Bạch Đằng, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, … vẫn “đêm đêm rì rầm trong tiếng đất”, vẫn “vọng nói về”, nhắn nhủ con cháu ngẩng cao đầu đi tới để bảo vệ và xây dựng đất nước hùng cường bền vững đến muôn đời.

Phần thứ hai bài thơ nói về đất nước trong máu lửa. Một chữ “ôi” cảm thán cất lên đau đớn nghẹn ngào:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Các từ ngữ “chảy máu”, “đâm nát” gợi tả cảnh đau thương của đất nước đang bị quân thù chiếm đóng, dân ta đang bị quân giặc tàn sát dã man. Luống cày, cánh đồng “chảy máu” . đồn giặc dựng lên khắp nơi . bầu trời quê hương đang bị “đâm nát ” bởi trùng trùng dây thép gai đồn giặc. Người chiến sĩ hành quân ra trận với sức mạnh của lòng căm thù giặc và tình yêu quê hương. Các từ láy “nung nấu” , “bồn chồn” diễn tả thật hay quyết tâm và tình cảm mãnh liệt, sâu sắc ấy.

Trong chiến đấu gian lao và đau thương càng thấy vẻ đẹp quê hương “ngời lên”. Lòng căm thù giặc càng thêm “sục sôi”. Các từ ” bay, thẳng, đứa” thể hiện lòng căm thù, sự khinh bỉ của nhân dân ta đối với quân xâm lược.

Thằng giặc tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ đứa lột da.

Độc lập tự do là lí tưởng chiến đấu, là niềm tin “đi tới và làm nên thắng trận”. Tác giả phủ định: quân thù “không khóa được”, “không bắn được”, để từ đó khẳng định sức sống bền vững của đất nước ta, tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Câu thơ như một chân lí lịch sử được cô đúc mà thành:

Trời đầy chim và đất đầy hoa
Lòng dân ta yêu nước thương người.

Cuộc kháng chiến chống pháp( 1946 – 1954) là một cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh do đảng và bác hồ lãnh đạo, mang tính chất toàn dân, toàn diện, trường kì, nhất định thắng lợi. Cả đất nước, cả dân tộc quật khởi đứng lên. Cảnh tượng thật hào hùng đang diễn ra khắp mọi miền đất nước, từ rừng núi chiến khu đến khắp các cánh đồng làng quê:

Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quanh văng vẳng cánh đồng.

Anh bộ đội Cụ Hồ là người nông dân mặc áo lính. Người anh hùng thời đại là “những người áo vải”, là la văn Cầu, Củ Chính Lan, Nguyễn Quốc Trí, Nguyễn Thị Chiến, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diệu… là hàng ngàn hàng vạn thanh niên yêu tú của dân tộc.

Tham khảo thêm:   Tìm hiểu về protein: Thành phần, tính chất và cấu tạo

Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.

Con đường ra trận kéo dài hơn ba ngàn ngày khói lửa. Có biết bao máu đổ sương rơi. Trong “nắng đốt” và “mưa giội”, trong chiến đấu và hi sinh, niềm tin vào một ngày mai chiến thắng, về đất nước độc lập, hòa bình tỏa sáng tâm hồn quân và dân ta như ngọn lửa ” cháy rực” như ánh bình minh “bát ngát”:

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Đất nước chiến thắng

Được viết theo thể thơ lục ngôn:

Người lên như nước vỡ bờ
Nước việt nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

Tác giả đã vận dụng thành ngữ, tục ngữ “tức nước vỡ bờ” để ca ngợi tư thế và sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của dân tộc ta . tác giả cho biết “Rũ buồn đứng dậy sáng lóa” là hình ảnh của người chiến sĩ Điện Biên từ các chiến hào dũng mãnh xông lên trong những ngày tổng công kích đầu tháng 5-1954.

“Đất nước” là hồn thơ chiến sĩ, tiêu biểu cho bốn hồn thơ Nguyễn Đình Thi. Viết về chủ đề quê hương , đất nước trong chiến tranh, thơ Nguyễn Đình Thi mang tính khái quát, chất trữ tình đằm thắm kết hợp hài hòa với chất chính luận sâu sắc để lại một số câu thơ, đoạn thơ đẹp, đầy ấn tượng. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, sắc nét, chan chứa nồng độ xúc cảm. Câu thơ biến hóa : thất ngôn, lục ngôn, có lúc đan xen vào câu thơ ba tiếng , năm tiếng đã làm cho giọng thơ biến hóa: lúc man mác, bồn chồn, lúc dồn dập mạnh mẽ.

Hình tượng đất nước vừa mang vẻ đẹp hiền hòa trong sắc thu, hương thu, mang cái bát ngát của quân và dân ta trong những năm dài kháng chiến. “Đất nước” là bài thơ kiệt tác, mà người đọc lúc nào cũng cảm thấy mới mẻ, niềm tự hào dân tộc cứ lâng lâng mãi tâm hồn mỗi chúng ta.

Phân tích bài thơ Đất Nước – Mẫu 6

Đất nước là một đề tài được nhiều nhà văn, nhà thơ chú ý thể hiện. Tuy nhiên, đây là đề tài thuộc loại hóc búa. Nếu cảm xúc không đủ mạnh, đủ sâu và khả năng khái quát hạn chế, chắc chắn tác phẩm sẽ rơi vào công thức, sơ lược và bị lối đại ngôn chia phôi. Nhưng những cá tính thơ mạnh mẽ bao giờ cũng tìm được một cách thể hiện riêng, làm cho đất nước mỗi lúc lại hiện ra với một vẻ mặt mới lấp lánh, đa dạng và hàm chứa một nội dung cụ thể lịch sử.

Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ hay. Nó không thiếu tính khái quát nhưng vẫn đầy ắp ấn tượng, cảm giác về những cảm giác, những người cụ thể (đặc biệt là những cảnh, những người trong kháng chiến chống Pháp). Bài thơ vì thế không sa vào tự biện, mặt khác, có được không khí chân thực của đời sống đủ sức đồng hóa những ý thơ sẽ đôi khi được cho vào chỉ để cho “đủ”, cho “toàn diện” và “bề thế”.

Đúng như có người nhận xét, cái từ của bài thơ không được thể hiện thật rõ. Mới đọc qua phần đầu, ta khó hình dung được dòng chảy của cảm xúc hay hình tượng then chốt của bài thơ. Phải chăng việc lắp ghép một đoạn của bài Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) với một đoạn của bài thơ Đêm mít tinh(1949) rồi kéo dài thêm để tạo ra Đất nước(1955) đã quy định đặc điểm riêng đó của bài thơ?

Trên ý nghĩa khách quan, quá trình hình thành độc đáo của bài thơ phản ánh khá rõ một chặng đường từ nhận diện để đi đến thấu hiểu về đất nước của nhà thi sĩ. Tất cả không diễn ra một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có sự trải nghiệm, nghiền ngẫm, đòi hỏi tự nhà thơ phải vượt lên trong cuộc hòa mình vào đời sống chiến đấu của toàn dân tộc. Đối với việc bộc lộ tâm hồn của nhà thơ, cái vẻ lỏng lẻo ở kết cấu bề mặt của bài thơ lại trở nên một sáng tạo lí thú. Vì vậy, trong ý đồ sáng tạo, chưa hẳn nhà thơ đã muốn che dấu hoàn toàn những mối “hàn ghép”.

Phần đầu bài thơ – phần vẫn được đánh giá là hay hơn cả – chứa đựng rất nhiều ấn tượng cụ thể về một mùa thu đất nước. Thoạt tiên, đó là một cảm giác thư thái như muốn nhẹ nhàng bay lên theo hai câu thơ có đến 12/14 âm tiết mang thanh điệu có âm cực cao:

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.

Một sự tương đồng gợi nhớ. Một liên tưởng của nét đẹp trường cửu của mùa thu xứ sở với hơi may phảng phất và hương cốm dìu dịu tỏa bay. Mùa thu nay cũng như mùa thu xưa, thiên nhiên vẫn đẹp đến nao lòng. Có khác chăng là lòng người và hoàn cảnh xã hội. Nỗi nhớ của tác giả đã thực sự làm một đối chiếu tự nhiên để hình ảnh của ngày qua được dịp trở về vô cùng sống động:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Còn có thể nói gì thêm về câu thơ ấy? Một tiết trời dễ khiến lòng ta xao xuyến. Một chút thoáng heo may se se khơi gợi biết mấy nỗi niềm. Thu tới – không gian chợt yên ắng để tiếng nói của nội tâm cất lời. Các dãy phố như dài thêm và đượm vẻ trầm u đặc biệt, tạo nên một bối cảnh xao xác rất thích hợp cho hình ảnh người ra đi xuất hiện. Người ra đi ở đây là ai, tác giả không nói rõ cụ thể chỉ biết rằng Người ấy rời Hà Nội yêu dấu với rất nhiều quyết tâm, tương tự các tráng sĩ xưa đã lên đường là đi một mạch chẳng ngoảnh đầu trở lại.

Phải chăng đó cũng chính là mẫu người từng được Thâm Tâm nhắc tới “Một giã gia đình một dửng dưng” Và chắc chắn giống nhân vật của Tống biệt hành, người ấy tuy bên ngoài có vẻ lạnh lùng nhưng lòng thì để lại đang trăn trở thao thức với “ thềm nắng lá rơi đầy” ở phía sau lưng. Cả đoạn thơ rất giàu chất điện ảnh, trong đó câu cuối đặc tả cận cảnh để tự cảnh đó kể với người đọc bao điều.

Câu thơ ngắt nhịp 2/2/3 như muốn diễn tả vẻ rơi rơi ngập ngừng của lá vàng khô cùng niềm lưu luyến ủ kín trong lòng kẻ quyết chia tay Hà Nội để lên đường. Bề ngoài, họ không “ bước đi một bước giây giây lại dừng”, nhưng trong thâm tâm, từng chiếc lá rơi đều gieo vào lòng họ một nỗi bâng khuâng dìu dặt. Từ gần đến xa, rồi từ xa lại về gần, những câu thơ tiếp đó khơi thêm cảm xúc về mùa thu, đưa độc giả quay lại thời điểm hiện tại để được thanh thản trong niềm vui giao hòa giữa lòng người và cảnh vật.

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.

“Mùa thu nay khác rồi” là sự so sánh bật thành tiếng reo, một tiếng reo ghi nhận sự khác biệt giữa hai thời đại và khẳng định niềm vui mới đang tới. Câu thơ năm chữ xuất hiện đột ngột sau những câu bảy chữ có nội dung mạch lạc và âm điệu thật dứt khoát. Nó chứa đựng cả tình cảm và nhận thức, đồng thời lí giải sâu sắc vị trí đứng và tâm thế lắng nghe của nhà thơ giữa một bối cảnh thiên nhiên vô cùng khoáng đạt: “Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi”.

Hai chữ “vui nghe” mà càng nhận ra bao cái khác. Cái khác ấy đến từ cách thổi của gió và cách hòa điệu của rừng tre. Nó “phấp phới” như vẫy chào, mời gọi và đầy tin tưởng, không giống như cây “xao xác” chứa niềm khắc khoải mơ hồ xưa kia. Trùm lên cả người, cả rừng tre, cả núi đồi là trời thu mới mẻ tinh khôi đang hay vừa thay áo mới. Giữa những câu sáu chữ, bảy chữ dài ngắn không đều, câu thơ năm chữ “trời thu thay áo mới” rơi xuống thật ngọt ngào, ấm áp, rồi điệu thơ chuyển ngập ngừng và xúc động khôn xiết với câu “Trong biếc nói cười thiết tha”.

Trong câu thơ vừa trích có những chỗ “bất khả giải” gợi nhiều cách hiểu khác nhau. Trong niềm vui dâng đầy, mỗi chữ đều như tỏa chiếu ánh hân hoan và các thanh trắc đều dội vào lòng người một nỗi náo nức đặc biệt.Bè cao của bài thơ bỗng tách ra, vút lên trong vắt, hồn nhiên và hào hứng vô cùng: Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta. Câu thơ cao giọng mà không lên gân.

Hai câu điệp lại mang cùng một ý mang cảm hứng khẳng định mạnh mẽ – khẳng định chủ quyền của chúng ta đối với vùng trời vùng đất ta đang chiêm ngưỡng với tầm ôm chứa rộng rãi:

Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.

Nhịp điệu liệt kê dồn dập của đoạn thơ tiếp tục nhấn mạnh ý thức sở hữu của cái ta cộng đồng đối với non nước mình, mặt khác, gợi cảm giác cái ta ấy đang làm việc giới thiệu vẻ đẹp của Tổ quốc với cảm xúc tự hào và sung sướng. Nếu hai thanh trắc “ mát – ngát” kết thúc hai câu trên giống như nhấn mạnh khi giới thiệu khiến cho hình ảnh dược khắc đậm trong tâm khảm người đọc, người chứng kiến, thì hai thanh trắc liền nhau (đỏ nặng) ở phần giữa câu tiếp đó lại làm cho âm điệu của đoạn thơ trầm dần xuống để trôi xa mơ màng cùng hai thanh bằng nơi hai chữ phù sa.

Dồn dập reo hát rồi trầm lắng, bâng khuâng, đó là sự chuyển động theo chu kì của điệu thơ, tạo nên sự căng – chùng luân phiên rất đặc biệt và giàu tính nghệ thuật.Ở cuối đoạn thơ này, từ câu thơ ba chữ. cô đọng và trang nghiêm “Nước chúng ta”, độc giả được dẫn dắt vào mạch suy tư về truyền thống anh hùng của đất nước:

Nước chúng ta
Nước của những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Có thể xem hai câu đầu của đoạn vừa trích là một định nghĩa – cái định nghĩa khá cơ bản thể hiện nhận thức sâu sắc của nhà thơ về đất nước: Việt Nam – Ấy là một mảnh đất bất khuất. Trong bối cảnh của cuộc chiến tranh, đúng là có điều kiện nhìn rõ hơn bao giờ hết phẩm chất ấy của dân tộc mình, đất nước mình. Sau định nghĩa là chứng minh. Nhưng điểm độc đáo là nhà thơ không chứng minh bằng lí lẽ, bằng các sự kiện mà bằng một cảm nhận.

Hai chữ “rì rầm” làm câu thơ trở nên giàu ấn tượng, khiến cho khái niệm “tiếng nói ông cha” vẫn thường quen nói bớt vẻ trừu tượng, mơ hồ để trở nên sống động cụ thể. Quả thật, đây là kiểu chứng minh rất thơ và cũng rất Nguyễn Đình Thi nữa! Trước khi nói với những ai, nó đã chứng minh cho mình hiểu thêm về đất nước. Từ những mối xúc động tuy phong phú nhưng không rõ rệt ban đầu trước một sáng thu Hà Nội đến thứ tình cảm được tổ chức lại và có định hướng như vừa phân tích trên, hẳn đó là cả một chặng đường dài nhận thức.

Khi đã chạm tới cốt lõi của vấn đề, ý thơ ngày càng sáng và mạch thơ ngày càng lộ rõ. Nếu đoạn thơ trước diễn tả sinh động quá trình đi từ cảm giác đến ý niệm thì đoạn thơ sau giống như sự thể nghiệm của nhận thức bằng thực tiễn. Không phải ngẫu nhiên mà từ “Ôi những cánh đồng quê” … trở đi, cách biểu đạt thơ đã đổi khác, những hình ảnh thực tế giàu biểu trưng và song hành và đôi khi hòa lẫn với những khái quát luận trực tiếp.

Sự phân khổ bốn câu đều đặn một mặt làm các ý thơ hơi tải ra, mặt khác, lại có vẻ cần thiết cho sự dẫn giải, lập luận vốn đòi hỏi sự sáng sủa, lô-gíc. Hay nhất trong phần hai của bài thơ có lẽ là khổ này:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Đây là những câu thơ từng trải, kết quả của một vốn sống phong phú. Nếu chưa từng biết đến những “ đêm dài hành ”, chưa từng chứng kiến những cảnh xóm làng tan hoang vì sự tàn phá của quân thù, chưa từng thấy những gai nhọn tua tủa của dây thép gai cản vương tầm mắt hằn rõ lên hoàng hôn bầm đỏ một màu máu, thì không thể viết được những câu thơ như thế. Những từ “chảy máu”, “đâm nát” đâu chỉ đơn giản là thủ pháp tạo hình, gây ấn tượng của thơ.

Nó trước hết là nỗi quặn lòng, là sự đau đớn vò xé tâm can. Cũng như từ “bồn chồn” rất gợi ở câu sau đó. Nó chính là cuộc đời. Cuộc đời làm cho lòng yêu thương ta thêm lớn, thêm sâu, giúp ta bắt được mạch sống lớn của dân tộc để từ đó mọi buồn vui xúc cảm thực sự mang ý nghĩa đại diện.

Nếu xem bài thơ (trong đặc điểm ghép mối đã nói trên của nó) là một sự phản ánh chân thực quá trình chuyển tiếp phong cách thơ cũng như nhận thức chính trị – xã hội của Nguyễn Đình Thi, thì khổ thơ này giống như cái bản lề giúp ta hiểu thấu các giai đoạn của quá trình. Từ đây, bắt đầu một sự hòa nhập thơ của Nguyễn Đình Thi vào cái phong cách thơ mang ý nghĩa thời đại: cảm xúc cá nhân, riêng tư (hiểu theo nghĩa hẹp).

Bắt đầu mờ dần để tiếng nói công nhân sang sảng cất lời. Thời gian mở ra (từ “sáng chớm lạnh” của kỉ niệm riêng đến những năm đau thương, “ngày nắng đốt theo đêm mưa dội” của cả dân tộc), không gian mở ra (từ “thềm nắng lá rơi đầy”) Hà Nội quen thuộc đến quê hương, đất nước, “trời đất mới” không còn của riêng của một con người và lịch sử cũng mang chiều kích mới (từ lịch sử một tâm hồn đầy “nhớ”, đầy “xao xác”, thậm chí cả “phấp phới” đến lịch sử một đất nước vận động từ “đau thương”, “căm hờn” đến “ đứng dậy”, “vỡ bờ”).

Tất cả những sự “mở ra” nói trên đã làm cho các ý thơ mang tính khái quát cao hơn phù hợp với tầm vóc của đề tài và các hình ảnh cũng mang những nét hoành tráng khác trước với những biểu hiện tình cảm vừa trầm tĩnh vừa phấn khích. Lúc này, hình ảnh người ra đi xuất hiện đầu bài thơ đã thu hút vào trong hình tượng lớn: cả dân tộc là một khối thống nhất, “trán đẫm mồ hôi và hi vọng”, rắn rỏi, mạnh mẽ bước tới tương lai:

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh

Cái “được” nhất của mảng thơ sau này chính là hơi thơ. Tiếng nói của một cá nhân âm vang tiếng nói của một dân tộc “Đã đứng lên thành những anh hùng”, cho nên, nhiều điều to tát đã nói ra mà không gây cảm xúc khó chịu. Sự nhân danh một cái gì to lớn hơn của nhà thơ được tiếp nhận tự nhiên, bởi sự thật ông đã đồng cảm với mạch sống lớn của dân tộc qua khát vọng chân thành, muốn nắm bắt và thấu hiểu nó.

Khổ cuối cùng của bài thơ là một cái “kết” xứng đáng với bản tráng ca về đất nước:

Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

Sau những khổ thơ bảy chữ mang âm hưởng của một giọng kể trầm vang chứa chất từng trải với cách ngắt nhịp phổ biến 3/4 dễ tạo cảm giác bề thế, là khổ thơ sáu chữ dường như muốn cô đọng lại, nén lại mà vẫn muốn toả ra. Cảm xúc vừa muốn tiết chế vừa muốn buông thả tự nhiên theo những từ có khả năng đập mạnh vào cảm giác, gợi nghĩ đến sự chuyển rung đi lên.

Đoạn thơ không chỉ có sự thuyết phục của ý tứ mà còn có sức thuyết phục của một hình ảnh thực tế được biểu trưng hóa, chưa để mất hết những dấu vết cụ thể cảm tính (“rung trời”, “người như nước vỡ bờ”, “rũ bùn”, “đứng dậy”, “sáng lòa” ). Phải nói rằng, thơ Nguyễn Đình Thi thường rất hay trong những trường hợp tương tự, khi những chi tiết đời sống đưa vào qua sự chọn lọc của một hồn thơ vừa mạnh ở cảm giác, vừa mạnh ở khả năng khái quát trí tuệ.

Trong bài thơ này, nét mặt quê hương đã ngời lên với những vẻ đa dạng thông qua sự cảm nhận, khám phá của một tâm hồn thi sĩ rất giàu nội tâm cũng như rất giàu ý thức công dân. Nhưng về cơ bản, sự phát hiện của Nguyễn Đình Thi chủ yếu hướng vào truyền thống anh hùng, bất khuất của đất nước – một phẩm chất càng trải qua gian khó, qua thử thách chiến tranh nó càng rạng ngời tỏa sáng. Đây là một góc nhìn vừa của riêng nhà thơ lại vừa của lịch sử trong một thời kỳ nhất định.

Phân tích bài thơ Đất Nước – Mẫu 7

Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Nguyễn Đình Thi là người đa tài. Thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện sự tìm tòi về hình ảnh. Bài thơ “Đất nước” chính là những tìm tòi độc đáo nhất. Bài thơ lấy hình tượng đất nước làm trung tâm với hai màu sắc vừa tươi đẹp vừa bất khuất.

Trước hết, Nguyễn Đình Thi cảm nhận đất nước trong mùa thu hoài niệm và mùa thu hiện tại. Mùa thu trở thể hiện nối tiếp từ hiện tại về quá khứ rồi trở lại hiện tại. Thi sĩ mở đầu “Đất nước” bằng một vài chiêm nghiệm:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”

Không gian vô cùng tươi sáng của một buổi sớm thu đặc trưng quê hương Việt Nam. Một chút mùi vị “hương cốm” gợi lòng người bao điều. “Cốm làng vòng thơm mát những vòng tay”. Người ta bỗng nhớ những câu văn đầy đặc sắc Hà Nội trong thơ Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng… Người ta nhớ về người mẹ, người bà, người em thảo thơm. Thật bình dị và thân thương! Từ hương cốm, mùa thu năm xưa hiện về:

“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”

Hai câu đầu là cảnh, hai câu sau là người. Cảnh và người hợp hảo trong cuộc chia ly năm ấy. Mỗi câu từ chứa một nét chạm khắc thú vị như cái buồn vắng lặng của “những phố dài”, chút “chớm lạnh” cô đơn, đẹp nhưng buồn của cái “xao xác” và chút “hơi may”. Thiên nhiên đẹp nhưng buồn còn lòng người cũng không nguôi cảm giác đơn côi. Người ra đi tựa thế Kinh Kha đầy quyết tâm. Người ở lại chùn chân dưới lá thu bay. Hình ảnh thơ vừa giàu chất cổ điển vừa đầy tinh thần hiện đại.

Cuối cùng, thi sĩ về với mùa thu hiện đại. “Mùa thu nay khác rồi”. Thi sĩ reo vang về thu nay với tâm trạng phơi phới. Từ trong tư thế “đứng vui”, “phấp phới” mà tác giả cảm nhận được thiên nhiên như “thay áo mới”, “Trong biếc”, “nói cười”… Mùa thu ngày nay đầy hứng khởi và niềm vui sống. Từ đó, tâm trạng đơn côi xưa cũ đã thay thế cho tâm trạng hào phóng, tấm lòng rộng mở.

Nó được chứng minh từ những hình ảnh trải rộng về địa lí “trời xanh”, “núi rừng”, “cánh đồng”, “ngả đường”, “dòng sông”… Phụ từ “đây” như khoe như mời mọc tận hưởng. Hẳn thi sĩ đang tự hào về quê hương lắm!

Cùng với việc thể hiện đất nước tươi đẹp trong mùa thu, Nguyễn Đình Thi còn khắc họa hình ảnh đất nước trong chiến tranh. Đó là một đất nước kiên cường và bất khuất:

“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!”

Đất nước như có một sức sống bền bỉ. Đất nước anh dũng, kiên cường đã thành truyền thống, điều ấy khẳng định qua cụm từ “chưa bao giờ khuất”. Mặt khác, những từ láy “đêm đêm”, “rì rầm” thể hiện sức sống tiềm ẩn, sự tự cường trong lớp trầm tích ngàn năm. Đất nước đau thương mà quật khởi vô cùng:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”

Thán từ “ôi” như niềm cảm xúc dâng trào khi nhìn lại đất nước. Đất nước chìm trong đau thương với “chảy máu”, “đâm nát”. Tác giả tố cáo đanh thép tội ác của giặc khi giày xéo quê hương. Thế rồi, đất nước cũng quật khởi vô cùng. Nguyễn Đình Thi đã sử dụng biện pháp đối lập để thể hiện.

Đó là sự đối lập giữa tàn bạo ác liệt của cuộc chiến đấu hiện lên trong “những năm đau thương”, “xiềng xích”, “súng đạn” với sức mạnh quân ta “ngời lên”, “bật lên”, “không khoá được”, “không bắn được”, “đứng lên”… Đó là sự đối lập giữa vất vả lam lũ “Ngày nắng đốt”, “đêm mưa dội” với tương lai ngời sáng “trời đất mới”, “ánh bình minh”… Cuối cùng, cả đất nước đọng lại trong tư thế “rũ bùn đứng dậy”:

“ Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Bốn câu thơ lục ngôn với giọng đanh, chất chứa cảm xúc của thi sĩ. Hình ảnh “người lên như nước vỡ bờ” hay “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” thể hiện sức mạnh cộng đồng vừa đau thương vừa anh dũng. Cũng từ cái kết này, người đọc thấy được niềm tin vào chiến thắng và tương lai của đất nước mà Nguyễn Đình Thi luôn hướng tới.

Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi rất đặc sắc trong cách sáng tạo ngôn từ, diễn đạt liền mạch đầy cảm xúc, giọng thơ phong phú và nhiều hình ảnh thú vị giàu sức gợi. Nguyễn Đình Thi đã mang tới một bài ca về đất nước đậm nét đặc trưng và tinh thần chung của người Việt.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi (2 Dàn ý + 7 Mẫu) Đất Nước Nguyễn Đình Thi của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *