TOP 6 bài Cảm nhận hình ảnh bếp lửa SIÊU HAY, ấn tượng nhất, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn ý nghĩa của hình ảnh bếp lửa, cùng tình cảm bà cháu thiêng liêng, cao cả trong bài thơ Bếp lửa.
Hình ảnh bếp lửa gắn liền với những năm tháng tuổi thơ của tác giả, mỗi lần thấy khói bếp, ông lại càng nhớ về người bà tần tảo, đáng kính của mình. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Wikihoc.com để có thêm nhiều vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 9.
Đề bài: Cảm nhận của em về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.
Dàn ý Cảm nhận về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
I. Mở bài:
- Giới thiệu Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
II. Thân bài: Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc:
- Bếp lửa là một hình ảnh rất quen thuộc ở làng quê Việt Nam
- Bếp lửa rất gần gũi, thân thiện
- Hình ảnh ngọn lửa ảo mộng được nhen nhóm vào lúc sương sớm rất mộng mị và ảo mộng
- Hình ảnh bếp lửa rất gần gũi, thân thuộc và gắn bó với tuổi thơ
2. Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa:
- ấp iu, nồng đượm
- niềm yêu thương
- bếp lửa không thể dập tắt được trong lòng người cháu
- bếp lửa là nơi ấp ủ tình bà cháu thiêng liêng
III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa
Đoạn văn cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa
Bếp lửa là một hình ảnh rất quen thuộc trong mỗi ngôi nhà ở làng quê Việt Nam, gợi nên hơi ấm gia đình, bàn tay tần tảo sớm hôm của người bà, người mẹ. Bếp lửa rất gần gũi, thân thiết với những người con nông thôn phải xa quê. Bếp lửa ấy ấp iu, nồng đượm, nhóm niềm yêu thương, và dang rộng vòng tay để vỗ về an ủi, để đưa người cháu trở về với những kỉ niệm yêu thương nhất của cuộc đời. Bếp lửa ấy đã âm ỉ cháy mãi, nuôi nấng tình yêu quê hương trong lòng người cháu, bếp lửa ấy đã ấp ủ mãi tình bà cháu thiêng liêng. Có thể nói, bếp lửa trong bài thơ chính là biểu tượng cho cội nguồn gia đình, quê hương, đất nước; cho những gì gần gũi thân thiết đối với tuổi thơ mỗi người và có sức mạnh tỏa sáng, nâng đỡ tâm hồn con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tóm lại, bếp lửa vừa là hình ảnh thực đồng thời và là một hình tượng nghệ thuật độc đáo của tác phẩm.
Cảm nhận hình ảnh bếp lửa ngắn gọn
Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt là một hình ảnh thơ đẹp. Hình ảnh bếp lửa gắn với người bà tần tảo sớm hôm. Và hơn hết, bếp lửa ấy là cả tuổi thơ trong người cháu. Nó gắn với sương sớm, gắn với những yêu thương và cả những tháng ngày bố mẹ mẹ vất vả nơi chiến trường, bên cháu chỉ có bà và bếp lửa.
Ký ức có phần đau thương bởi gắn với mùi hương của lửa, gắn với những tháng ngày xa nhà, thiếu vắng tình yêu thương của bố mẹ. Nhưng bù lại người cháu được sống trong tình yêu thương lớn lao của bà. Tám năm dòng cùng bà nhóm lửa là tám năm người cháu cháu được nghe những tiếng tu hú kêu, được sống trong tình yêu thương lớn lao của bà. Và dù bếp lửa có trải qua gian khó vẫn ấm áp mãi tình yêu thương.
Ngay cả khi giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi thì bếp lửa ấy vẫn là nơi sưởi ấm tình thương của bà và cả niềm tin trong cháu. Điệp từ một ngọn lửa, một bếp lửa được lặp đi lặp lại trong toàn bài thơ như một sự khẳng định, một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ dòng cảm xúc trong lòng tác giả. Bếp lửa là sự vất vả của bà nhưng những vất vả của bà đã làm nên tình thương lớn lao cho người cháu và trở nên: Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Hình ảnh bếp lửa không chỉ là hình ảnh của làng quê, không chỉ là hình ảnh của những năm tháng thiếu thốn mà bếp lửa trở thành những ký ức trong tâm hồn của cháu. Và dù để ở nước Nga xa xôi chúa vẫn mãi nhớ về bà, mãi nhớ về bếp lửa trong tất cả yêu thương nồng đượm.
Cảm nhận hình ảnh Bếp lửa hay nhất
Trưởng thành là một hành trình khó khăn và gian khổ, là phải học cách sống tự lập, tự chăm sóc lấy bản thân, có lúc tự nhủ bản thân rằng mình ổn nhưng đôi khi lại bất chợt bật khóc đến nghẹn lời. Những lúc như thế ta lại nhớ về mái ấm gia đình, nhớ về những kỉ niệm xưa cũ, đó như là động lực để ta tiếp tục bước đi trên con đường đã chọn. Thật vậy có phải vì quá cô đơn, quá mệt mỏi khi phải sống và học tập một mình nơi đất khách quê người mà Bằng Việt đã đặt bút viết nên đôi dòng tâm tư ẩn sâu trong trái tim mình. Bài thơ Bếp lửa với hình ảnh bếp lửa xuyên suốt tác phẩm là nỗi niềm thương nhớ, là tình cảm, là tâm tư của một đứa con xa nhà khao khát được trở về mái ấm đơn sơ nơi có bóng dáng người bà thân thuộc.
Đúng vậy, sống trên đời làm gì có ai là thực sự mạnh mẽ, cứng cỏi mà không cần lấy tình yêu từ gia đình mình. Càng được yêu thương, chở che bao nhiêu thì khi mất đi cái lớp bảo vệ hoàn hảo ấy con người ta sẽ càng cảm thấy mất mát, nhớ nhung. Và đó có lẽ cũng là tâm sự của tác giả- nỗi lòng của một đứa con xa nhà.
Mùa đông, mùa của cô đơn và lạc lõng. Thật vậy cái lạnh trong sương mờ ảo ấy lại khiến tác giả nhớ về quê hương, nhớ về bà, nhớ về tuổi thơ chân chất nồng đượm tình yêu của bà. Có phải vì không thể kìm được nỗi nhớ mà tác giả đã thốt lên:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Hình ảnh bếp lửa xuất hiện ở ngay đầu bài thơ, ngọn lửa ấy như làm sáng rực cả không gian thời gian, làm thổn thức trái tim nhỏ bé của bao đứa con xa nhà. Ngọn lửa lớn lên trong tiềm thức người cháu là ngọn lửa gắn với hình ảnh của bà, bà là người thắp lên ngọn lửa để nuôi cháu lớn lên không quản bao khó nhọc, bà tần tảo thức khuya dậy sớm, tình yêu của bà đã chạm đến trái tim cháu để rồi đứa cháu lại phải thốt lên tình yêu thương bà trong nghẹn ngào.
Nhờ việc sử dụng các từ láy “ấp iu, chờn vờn” tác giả đã khắc họa lên hình ảnh một bếp lửa thật đẹp, thật giản dị. Đó không chỉ là một cái bếp lửa bình thường và cũng chẳng phải một vật vô tri vô giác, nó mang hơi ấm của tình yêu thương, nó đốt lên ngọn lửa trong trái tim cháu, là ngọn lửa tình yêu của bà và cũng là minh chứng cho tình cảm gia đình những ngày thơ bé của tác giả.
Ngọn lửa sưởi ấm cả tuổi thơ của cháu, lớn lên cùng cháu. Nó đã trở thành biểu tượng gắn liền với tuổi thơ bên bà khó nhọc:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói…
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Phải chăng là làn khói kia vô tình hun nhèm mắt cháu hay là nỗi lòng thương bà khiến cháu nghẹn ngào trong những xúc cảm. Thời gian vốn chẳng để dành ngoại lệ cho một ai, khi bé thơ cháu cứ hồn nhiên mà vô tư sống bên bà, cháu vốn chỉ ích kỉ biết đến bản thân, đôi khi vu vơ giận dỗi bà mà đâu biết bà mang trên vai gánh nặng gia đình. Bà thay cha, thay mẹ cháu, bà cho cháu yêu thương, cho cháu cảm nhận được sự phẳng lặng của cuộc đời. Giờ đây khi cháu lớn, cháu biết cuộc sống là gì thì cháu mới lại nhận ra nỗi đau của bà, nỗi cô đơn mà bà phải chịu, nhưng bà vẫn nhẫn nhịn tần tảo nuôi cháu lớn khôn.
Khúc ca về tình yêu thương và sự hy sinh của bà vẫn cứ tiếp tục, nó cứ dồn dập không ngớt như bóp nghẹt lấy trái tim của cháu, cháu lại hồi tưởng về những ngày tháng bên bà, cứ thế thả trôi vào dòng kí ức bất chợt từ tiềm thức dội về.
“Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa!”
Bà đã quen với cuộc sống khó nhọc, ngày qua ngày bà vẫn tần tảo nhóm bếp. Bếp lửa của yêu thương nồng đượm, của no ấm sum vầy. Bếp lửa của đức hy sinh cao cả giúp nhen lên ngọn lửa sáng rực trong tim cháu, dạy cháu biết yêu thương và trân trọng.
Ai rồi cũng sẽ lớn, sẽ phải rời xa những điều thân thuộc để học cách lớn lên, học cách trưởng thành. Nhưng dù sống ở đô thị phồn hoa, tàu xe trăm ngả nhưng tác giả vẫn không quên nhắc nhở mình về ân nghĩa của bà, vẫn băn khoăn lo lắng về thói quen dậy sớm của bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Kết thúc bài thơ bằng một câu hỏi tu từ đầy băn khoăn trăn trở, đó là tình yêu dành cho bà, là lo lắng đầy săn sóc dành cho người đã nuôi mình lớn. Dù nơi phương xa nhưng cháu vẫn dõi theo bà, vẫn hướng về phía bà như bà đã luôn dõi theo cháu. Giờ này ở nơi ấy liệu bà nhóm bếp lên chưa?
Hình ảnh bếp lửa được nhắc đến xuyên suốt trong bài thơ, bếp lửa là nguồn sống của hai bà cháu, là ấm no của những bữa cơm đơn sơ thủa nhỏ. Bếp lửa gắn với tuổi thơ cháu, bà nhóm bếp nhóm dậy lên cả những tâm tình tuổi nhỏ. Hình ảnh bà và bếp lửa sẽ còn theo cháu mãi, trở thành biểu tượng của tình yêu thương mà cháu tự nhắc nhở sẽ không bao giờ quên. Cuộc đời chẳng mấy thoáng chốc sẽ qua đi, vậy nên đừng để phí một giây một phút nào vì sự ích kỉ của bản thân mà làm tổn thương những người xung quanh mình. Hãy sống để yêu thương, trân trọng và để cho đi. Sống luôn biết ơn người đã yêu thương mình và hãy trưởng thành thật tốt để đền đáp ân nghĩa của cha mẹ, của những người đã trao cho chúng ta yêu thương.
Cảm nhận hình ảnh Bếp lửa
Trong bài thơ “Bếp lửa”, hình ảnh bếp lửa chính là hình ảnh giản dị mà thiêng liêng, cao quý, là biểu tượng của tình bà cháu và lưu giữ những kỷ niệm ấu thơ tươi đẹp của tác giả. Thật vậy, bếp lửa chính là hình ảnh của một thời ấu thơ gian khó mà tràn ngập tình yêu thương của tác giả Bằng Việt.
Ông sống cùng bà bên bếp lửa, đã quen với những “chờn vờn sương sớm”, với những “ấp iu nồng đượm” bên bếp lửa và bên người bà kính yêu của mình. Đó là những tháng ngày vất vả mà “khói hun nhèm mắt cháu”, “sống mũi còn cay” mà tác giả đã từng trải qua. Thế nhưng, cũng chính ở bếp lửa, người đọc thấy được tình bà cháu sâu đậm. Trong suốt những năm tháng ấu thơ đó, tác giả đã sống cùng với bà, được bà chăm sóc, chỉ bảo tận tình. Đặc biệt nhất đó là hình ảnh:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Qua đó, cho thấy được tình yêu mà bà dành cho cháu, dành cho gia đình qua bếp lửa. Trong bếp lửa, người đọc thấy được tình yêu, tấm lòng bao la mà bà dành cho con cháu.
“Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Cho ta thấy được bếp lửa hay cũng chính là ngọn lửa mà bà luôn ấp ủ dành cho tương lai hạnh phúc của con cháu. Trong những năm tháng chiến tranh, bà chính là chỗ dựa tinh thần và là người mang đến hơi ấm cho con cháu của mình tựa như bếp lửa bập bùng. Để rồi, sau này, hình ảnh bếp lửa mãi mãi là ký ức thật đẹp mà tác giả lưu giữ trong tâm trí.
Dù có đi đến những chân trời mới thì bếp lửa và ký ức về bà vẫn mãi mãi ngự trị trong tim của tác giả. Đó chính là thứ thiêng liêng, kỳ diệu và ấm áp nhất “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng, bếp lửa”. Tóm lại, hình ảnh bếp lửa là hình ảnh nghệ thuật thành công, để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc.
Cảm nhận về hình ảnh bếp lửa
Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thật ấy được tác giả làm sống dậy trong bài thơ “Bếp lửa”. Bài thơ được viết năm 1963 khi tác giả đang sinh sống và học tập xa đất nước. Bài thơ đã khắc họa chân thật hình ảnh người bà gắn liền với những kỷ niệm trong quá khứ để từ đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn cảm phục của mình đối với người bà thân yêu.
Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả những hình ảnh, ngôn từ bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thời quá khứ được tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh ký ức hiện về. Theo diễn biến tâm tư của nhân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thấm thía từng cung bậc tâm trạng theo từng ngọn lửa trong bài thơ: lửa của kỷ niệm tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành; bếp lửa của bà ngày xưa, bếp lửa ngày nay.
Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến một bếp lửa thật ấm áp của quê hương. Bếp lửa gắn chặt với hình ảnh người bà, bếp lửa của một thời thơ ấu với nhiều kỷ niệm khó phai.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!
Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh “chờn vờn sương sớm” thật sống động, gợi lên ngọn lửa không định hình khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ. Sử dụng hình ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lý hồi tưởng những vậy đã qua, đã rời ra nhưng lại có sức ám ảnh day dứt. Từ láy “ấp iu” bao gồm hàm ý bé nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợi lên cho ta bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ “một bếp lửa” được lặp lại ở đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh dấu ấn kỷ niệm sâu lắng trong ký ức tác giả. Nó trở thành hình tượng xuyên suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa của quê hương, cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình. “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Đọng lại trong 3 dòng thơ đầu có lẽ là chữ “thương” và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi “biết mấy nắng mưa”. Hai chữ “nắng mưa” không chỉ để nói đến nắng mưa của thiên nhiên mà còn gợi cho ta nghĩ đến nắng mưa cuộc đời. Biết bao tình cảm xúc động mà nghẹn ngào trong câu thơ ấy!
Từ tình thương và nỗi nhớ da diết tràn đầy đã đánh thức tác giả sống lại với những năm tháng ấu thơ.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Lẽ thường, vui thì người ta cũng nhớ, nhưng những kỷ niệm buồn thường sâu đậm hơn nhiều. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn, đau buồn của nạn đói năm 1945. Đó là năm “đói mòn đói mỏi”, “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”. Đứa trẻ đã sớm có ý thức tự lập và phải sống trong sự cưu mang của người bà. Cảm nhận về nỗi vất vả gián tiếp tác giả bộc lộ thời thơ ấu của mình. “Mùi khói” rồi lại” khói hun nhèm”, có thể nói nhà thơ đã chọn được một chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện những tình cảm da diết, bâng khuâng, xót xa, thương mến. Hình ảnh “khói hun nhèm mắt” cũng gợi cho ta nghĩ đến sự cơ cực, vất vả tỏa ra từ một bếp lửa của gia đình nghèo khổ. Câu thơ “nghĩ lại…. cay” tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả. Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thật, giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói… mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đậm biết bao nghĩa tình sâu nặng.
Từ sau sương khói mịt mờ của tuổi thơ, tác giả đã thổi phồng lên những kỷ niệm của tuổi thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh.
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ như thể giọng kể trong một câu chuyện cổ tích, có thời gian, không gian, có sự việc và các nhân vật cụ thể. Nếu trong hồi ức, lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất của đứa cháu là “mùi khói”, thì đến đây, xuất hiện một ấn tượng khác là “tiếng tu hú”. Lúc mơ hồ, vắng lặng “trên những cánh đồng xa”, lúc gần gũi, nghẹn ngào “sao mà tha thiết thế”, tiếng tu hú như than thở, sẻ chia những nỗi nhớ xa cách, trông ngóng mỏi mòn. Đưa tiếng tu hú, một âm thanh rất đồng nội ấy vào thơ, Bằng Việt quả là có một tâm hồn gắn bó sâu nặng với quê hương.
Trong những câu thơ ấy, ta thấy từ “bà” được lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc “bà – cháu” sóng đôi gợi sắc điệu tình cảm xoắn xuýt, gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Tác giả như trách móc loài chim tu hú vô tình chỉ gợi sự cô đơn đến vắng vẻ mà không đến san sẻ với bà. Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm của tác giả đối với bà. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỷ niệm có chiều sâu. Nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi. Ẩn chứa đằng sau những câu chữ ấy là tình cảm thương yêu, xót xa của nhà thơ trước nỗi cô đơn và sự vất vả của bà.
Khổ thơ tiếp theo với những hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm kháng chiến.
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn trước song nghị lực của bà vẫn bền vững, tấm lòng của bà vẫn nhân hậu, mênh mông. Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. “Bố ở chiến khu bố còn việc bố – Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ”. Gian khổ, thiếu thốn và nhớ nhung cần phải che giấu cho con người đi xa được yên lòng. Tấm lòng người bà thương con thương cháu ân cần, chu đáo biết bao.
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Trong những câu của khổ thơ này, hình ảnh “bếp lửa” đã chuyển thành “ngọn lửa” trong ý nghĩ tượng trưng, khái quát. “Bếp lửa” với những ấm áp bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu, đã trở thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và sức sống mãnh liệt con người. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng, trường tồn.
Từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ với bà, tác giả đã chuyển sang bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của một thanh niên đã trường thành đối với người bà trong hiện tại.
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Chiến tranh đã đi qua, những gian khổ đã vơi bớt, cuộc sống đã đổi thay nhưng bà vẫn giữ thói quen “thói quen dậy sớm”, bếp lửa của bà vẫn “ấp iu nồng đượm” như ngày nào. Điệp từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần mang bốn nghĩa khác nhau, tỏa sáng dần nét “kỳ lạ”, thiêng liêng và nhất là tình nghĩa của bà. Nếu trước đây, đó là ngọn lửa nồng đượm nhóm niềm tin trong những ngày gian khổ, khó khăn vì vật vã đói kém, thì bây giờ ngọn lửa ấy còn nhóm lên trong lòng tác giả bao vẻ đẹp khác nữa. “Nhóm” mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm quê hương. Và cuối cùng, người bà kỳ diệu ấy “nhóm dậy”, thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu về tâm hồn bếp lửa ấp iu nồng đượm” ấy là bếp lửa có thật, có ánh sáng và hơi ấm. “Nhóm niềm yêu thương” có nghĩa là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng đượm, ngọt ngào. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà và cách sống. Âm điệu trong đoạn thơ này dạt dào như sóng dồi, lan tỏa như lửa ấm hay đây chính là cảm xúc đang dâng trào, đang tỏa ấm trong trái tim nhà thơ? Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương nhân nghĩa! Có thể nói câu thơ cuối bộc lộ rõ nhất thái độ kính trọng và cảm xúc đang dâng trào ào ạt trong tâm hồn Bằng Việt. Câu thơ chỉ có 8 chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả đối với bếp lửa gắn liền hình ảnh người bà, với cách ngắt nhịp là một dấu lặng đầy nghệ thuật chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ ko thể diễn tả hết bằng ngôn từ.
Đoạn thơ cuối cùng vẫn tiếp tục mạch cảm xúc nhớ thương khôn nguôi thể hiện kín đáo tình cảm biết ơn sâu nặng của tác giả đối với người bà đã từng cưu mang, đùm bọc mình.
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?
Giờ đây, tác giả đã sống xa xứ, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay người bà. Đứa cháu ấy đã được mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng vẫn ko nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt tâm trí người đọc. Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần của đứa cháu ở phương xa. Đó là nỗi nhớ tha thiết, da diết. Hình ảnh bếp lửa cứ trở đi trở lại trong bài thơ, vừa là một hình ảnh rất cụ thể, vừa có sức khái quát sâu sắc.
“Bếp lửa ấp iu nồng đượm” đã trở thành biểu tượng của tấm lòng người bà, mãi mãi sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Thật không ngờ, một bếp lửa bình thường như trăm ngàn bếp lửa khác lại có tác dụng xúc động đến như vậy. Người bà trong “Bếp lửa” đã nuôi con nuôi cháu, đã đi qua đói khát và chiến tranh, đã cho con mình đi kháng chiến vì đất nước, đã âm thầm ở lại nhà giữ mảnh đất tổ tiên để lại, âm thầm chờ đợi và hy vọng… Đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người sao? Bà là người phụ nữ Việt Nam, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi.
Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người có những ngày tháng, những kỷ niệm và những con người không thể nào quên được. Bằng Việt đã có được một tuổi thơ gắn bó với người bà mà ông yêu quý, kính trọng. Ông đã gửi gắm tâm sự trong bài thơ và thể hiện nó bằng giọng điệu tâm tình, sâu lắng, hình ảnh thơ gợi cảm và giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. Bài thơ chính là món quà quý giá mà Bằng Việt gửi đến cho người đọc. Tác phẩm có tác dụng giáo dục rất tốt về tình nghĩa thủy chung với gia đình, quê hương, đối với những gì đã nhen nhóm và nuôi dưỡng ngọn lửa thiêng liêng trong tâm hồn mỗi con người.
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Cảm nhận vẻ đẹp hình ảnh bếp lửa
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm và mơ ước của tuổi trẻ nên rất gần gũi với bạn đọc. Bài thơ Bếp lửa được Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi ấy tác giả là sinh viên đang du học tại Liên Xô, phải sống xa nhà. Bài thơ gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu cảm động, sâu sắc. Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ là hình ảnh nổi bật, giàu ý nghĩa, khơi gợi nhiều suy nghĩ.
Hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”.
Hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong mỗi gia đình từ bao đời (từ “ấp iu”: gợi nhớ bàn tay khéo léo, kiên nhẫn, lại rất chính xác với công việc nhóm lửa)
Trong kí ức, hình ảnh bếp lửa đã trở thành kỉ niệm khó phai. Bếp lửa không chỉ “chờn vờn” sương sớm, gắn bó với sự tần tảo của người phụ nữ Việt Nam mà còn “ấp iu nồng đượm”, bếp lửa được nhen lên bằng sự nâng niu, ôm ấp của tình thương.
Hình ảnh bếp lửa khơi gợi kỉ niệm thời thơ ấu bên người bà:
“Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”.
Tuổi thơ có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945; có mối lo giặc tàn phá xóm làng; có hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt Nam trong kháng chiến : bố mẹ đi công tác bận không về, cháu ở với bà, sống trong sự dạy dỗ, cưu mang của bà. Bếp lửa hiện lên trong kí ức như tình bà ấm áp, như sự đùm bọc của bà: “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói” hay “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”.
Bếp lửa của tình bà cháu lại gợi nên một liên tưởng khác. Đó là tiếng chim tu hú như giục giã, như khắc khoải điều gì thật da diết, vừa gợi ra tình cảnh vắng vẻ và nhớ mong của hai bà cháu, vừa khiến lòng người trỗi dậy nồi nhớ mong, rất phù hợp với tâm tình người xa xứ.
Hình ảnh bếp lửa khơi gợi đức hi sinh, tần tảo của người bà, bếp lửa gắn với cuộc đời bà nhiều gian khổ, nhưng cũng gắn với những đức tính cao đẹp của bà. Bà là người nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và toả sáng trong mỗi gia đình. Ngọn lửa bà nhóm lên mỗi sớm mai.
“Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”.
Vì vậy, đứa cháu dù đi xa, vẫn không thể quên ngọn lửa của bà, tấm lòng thương yêu đùm bọc của bà. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin, nâng bước cháu trên chặng đường dài. Kì diệu hơn, người cháu nhờ hiểu và yêu bà mà thêm hiểu nhân dân, dân tộc mình “Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi”
Trong bài thơ: mười lần tác giả nhắc đến bếp lửa và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh người bà, cũng là tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp tảo tần, nhẫn nại và đầy yêu thương.
Hình ảnh bếp lửa được nâng lên thành ngọn lửa trong suy tưởng của nhà thơ:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Nhà thơ đã nhận ra một điều sâu xa: bà nhóm lên bếp lửa bằng chính ngọn lửa trong lòng mình – ngọn lửa của sức sống, niềm yêu thương, niềm tin mãnh liệt. Bởi thế, hình ảnh bếp lửa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc: Người bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, của niềm tin cho các thế hệ mai sau.
Hình ảnh bếp lửa là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, có giá trị thẩm mĩ cao: vừa cụ thể, chân thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, góp phần thể hiện chiều sâu triết lí thầm kín của bài thơ: những gì thân thiết nhất của tuổi thơ đều có sức mạnh nâng đỡ con người suốt cuộc đời.
Tình cảm yêu quý, biết ơn đối với người bà chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, điểm khởi đầu của tình yêu đất nước.
Bài thơ khiến người đọc xúc động bởi tình cảm bà cháu chân thành, thắm thiết.
Từ những suy ngẫm của người cháu về hình ảnh bếp lửa và tình bà, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa Dàn ý & 6 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.