Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (thơ song thất lục bát) gồm 2 bài văn mẫu hay nhất, giúp các em học sinh lớp 9 tham khảo, nhanh chóng hoàn thiện bài viết của mình.
Viết bài văn nghị luận một tác phẩm thơ song thất lục bát là chủ đề hay trong tiết Viết – Bài 2: Những cung bậc tâm trạng SGK Ngữ văn 9 Kết nối tri thức tập 1 trang 52. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Wikihoc.com để có thêm nhiều ý tưởng cho bài văn của mình thêm sâu sắc.
Viết bài văn nghị luận phân tích Tiếng đàn mưa
Mỗi khi mưa rơi, dường như cảm xúc trong mỗi người lại trở nên nhạy cảm hơn. Tiếng mưa đi kèm với những tâm trạng nhớ nhung, khắc khoải và những suy tư về cuộc sống. Cũng như chúng ta, đứng trước mưa mà xao xuyến nỗi lòng, Bích Khê đã đưa cảm xúc ấy vào chính tác phẩm của mình, bài thơ Tiếng đàn mưa.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã gợi nên khung cảnh về một ngày mưa:
“Mưa hoa rụng, mưa hoa xuân rụng
Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan
Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn
Nước non rả rích giọng đàn mưa xuân.”
Sự vật như rơi rụng cùng những giọt mưa nặng hạt. Những giọt mưa rơi xuống, rơi xuống từng hạt rồi xuống “lầu”, xuống cả “thềm lan”. Mưa bao trùm mọi thứ xung quanh. Khung cảnh của một ngày mưa được tái hiện cùng sự rụng rơi của những sự vật. Một khung cảnh tả thực, được vẽ nên bằng chính ngòi bút của tác giả. Ông gọi tiếng những giọt mưa rơi ấy là “giọng đàn mưa xuân”. Mưa xuân, mùa mưa mang đến hạnh phúc, vậy nên tiếng mưa dưới mùa xuân nghe thấy tiếng đàn. Tiếng đàn ấy mang sức thôi miên con người, nghĩ về những gì đã qua êm ái, những gì tốt đẹp còn vương lại trong tâm trí. Mưa rơi, bao phủ lên mọi nẻo, mọi chốn:
“Lầu mưa xuống, thêm lan mưa xuống
Cùng nước non hoa rụng mưa xuân
Mưa rơi ngoài nội trên ngàn
Nghe trong ý khách giọt đàn mưa rơi.”
Mưa rơi xuống lầu, lại rơi xuống thềm hoa lan xinh đẹp. Mưa rơi từ những cánh đồng tới những núi non suối thác. Một khung cảnh chỉ toàn những giọt nước mưa rửa trôi những thứ cũ để mang đến những cái mới lạ. “Nghe trong ý khách giọt đàn mưa rơi” đâu đó ta nghe thấy tiếng của nỗi lòng đầy tâm sự. Tiếng đàn có thể cất lên trong tiếng mưa chút buồn. Nó gợi lên cái tâm tư riêng khó đoán của người khách. Lúc vui lúc buồn, chỉ có thể là nhớ và tìm những hoài niệm xưa chốn cũ:
“Đầm mưa xuống nẻo đồi mưa xuống
Bóng dương tà rụng bóng tà dương
Hoa xuân rơi với bóng dương
Mưa trong ý khách mưa cùng nước non.”
Lại tiếp tục là một khổ thơ nói tới những nơi mưa rơi xuống, cảnh vật cũng rơi cũng rụng theo mưa. Khắp nẻo đồi thấy mưa rơi thành đầm. Khi mà mặt trời chuẩn bị lặn, cùng với những cánh hoa xuân, khung cảnh mờ ảo, hư thực mà đầy mơ mộng. Ta thấy được sự cảm nhận, tình yêu thiên nhiên sâu sắc mới có thể tinh ý nhận ra vẻ đẹp đến từ thiên nhiên dưới những cơn mưa như vậy. “Mưa trong ý khách mưa cùng nước non”, đâu đó ta thấy được tình yêu thiên nhiên, đất nước, nơi đang tồn tại của nhân vật. Chính những cung bậc cảm xúc và tình yêu thiên nhiên như vậy, mới nghe được tiếng mưa như một tiếng đàn và cũng mới thấu được cái đẹp mà thiên nhiên đem lại. Mượn cảnh mà cũng gợi được tình, gợi cái cảm xúc và suy tư:
“Rơi hoa kết mưa còn rả rích
Càng mưa rơi cánh tịch bóng dương
Bóng dương với khách tha hương
Mưa trong ý khách muôn hàng lệ rơi”.
Mưa rơi khơi nguồn cảm xúc. Sự cô đơn dưới “bóng dương” đã làm tâm trạng sầu càng thêm sầu, buồn càng thêm buồn. Sự cô đơn như bao trùm, cùng nỗi nhớ về vùng đất xưa mà “muôn hàng lệ rơi”. Khổ thơ cuối như lý giải cảm xúc của cả bài thơ. Sự buồn rầu, nhớ nhung, cô đơn đã biến tiếng mưa trở thành tiếng đàn, ngân lên khúc nhạc đầy xao xuyến, khắc khoải, đầy nỗi nhớ nhung đang tuôn chảy vào từng lớp cảm xúc và tâm hồn của “người khách tha hương”.
Bích Khê đã thành công sử dụng thể thơ song thất lục bát kết hợp với những ngôn từ giàu sức biểu cảm để nói lên tâm trạng một cách sâu sắc. Cùng với đó là những biện pháp tu từ gần gũi như liệt kê cảnh vật trong mưa, lặp đi lặp lại những cảnh vật và đặc biệt là từ “mưa” để nhấn mạnh không gian gợi nên cảm xúc. Kết hợp với giọng thơ nhẹ nhàng, đã gợi nên cảm xúc từng câu từng chữ cũng cứ nhẹ nhàng lướt trong tâm trí người đọc. Nói về nỗi nhớ, sự cô đơn mà không hề nặng nề về cảm xúc mà cứ nhẹ rơi như những giọt mưa mang âm thanh của tiếng đàn.
Tiếng đàn mưa đã thành công khắc họa nên tâm trạng của con người tha hương trước cảnh mưa rơi. Rời xa quê hương, cảm nhận được sự cô đơn mà cuộc sống mang lại, con người lại nhớ về những khung cảnh đầy quen thuộc. Nỗi khắc khaoir của một tâm hồn, mang một nỗi nhớ nhung xa vời. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, và khi người buồn, thì tiếng mưa rơi cũng trở thành một tiếng đàn buồn thương, xuyến xao và ngập tràn nỗi nhớ thương.
Bài thơ không dài, không dùng quá nhiều từ ngữ và chi tiết những vẫn đem lại đủ cả hình ảnh và những tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình. Một bài thơ hết sức thành công trong bút pháp nghệ thuật của Bích Khê.
Viết bài văn nghị luận phân tích Khóc Dương Khuê
Đã từ lâu, tình bạn đã được đề cập đến trong các tác phẩm văn học. Nguyễn Khuyến là nhà văn sở hữu số lượng lớn các bài thơ mang chủ đề rất quen thuộc trong đời sống hàng ngày như thế. Nếu như trong Bạn đến chơi nhà, ông dùng giọng văn hóm hỉnh, khôi hài để nói về tình bạn không màng vật chất, thì sang bài thơ Khóc Dương Khuê, giọng thơ đã thay đổi hẳn. Cả bài thơ như tiếng khóc nấc lên trong sự buồn bã của Nguyễn Khuyến khi đến đám tang của người bạn Dương Khuê. Đặc biệt trong 16 câu thơ cuối:
“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày.
…
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”
Nỗi xót thương cho người bạn quá cố càng được thể hiện đậm nét.
Nguyễn Khuyến xuất thân là nhà nho, có tài văn chương, đỗ đầu cả ba kỳ thi nên còn được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông thường viết về gia đình, bạn bè, quê hương và châm biếm bọn thực dân. Bài thơ Khóc Dương Khuê ban đầu được viết bằng chữ Hán, sau được Nguyễn Khuyến dịch lại bằng chữ Nôm. Dương Khuê là bạn của Nguyễn Khuyến, mặc dù kém tuổi nhưng Dương Khuê cũng đỗ chức tước cao, trở thành tri âm của Nguyễn Khuyến. Mười sáu câu thơ cuối là nỗi đau đáu, thương xót của Nguyễn Khuyến trước sự ra đi đột ngột của bạn.
Hai câu thơ mở đầu được nhà thơ viết bằng giọng văn khôi hài, nhưng chua xót, bộc lộ sự đau lòng của ông:
“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày.”
Quả thật, Nguyễn Khuyến hơn Dương Khuê bốn tuổi, nhưng Nguyễn Khuyến vẫn gọi Dương Khuê bằng giọng thân mật “tôi – bác”. Câu thơ “đau trước bác mấy ngày” sử dụng biện pháp ẩn dụ, ý chỉ sự ra đi của Dương Khuê quá đột ngột, khiến tác giả không thôi giật mình và đau đớn.
Trong bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc trầm lắng, đau thắt lòng:
“Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng mà mải lên tiên.”
Tác giả sử dụng biện pháp nói giảm, nói tránh và biện pháp nói quá rất khéo léo,, ý nhị. Để chỉ sự ra đi của người bạn thân, ông dùng những từ “vội về ngay”, “chán đời”, “vội vàng”, “lên tiên”, với mục đích để giảm đi sự đau thương, nhưng sao câu thơ vẫn đau bội phần như vậy. Nói tránh đi sự ra đi của bạn, Nguyễn Khuyến phóng đại nỗi đau của mình “chân tay rụng rời”. Chắc hẳn, vì quá bất ngờ, ông đã không kìm được cảm xúc mà suy sụp, đau như “chân tay rụng rời”.
Trước kia, tất cả những thú vui trên cõi đời đều có ông và Dương Khuê hưởng thụ. Nhưng nay, những niềm vui đó bỗng trở nên chán chường, vô nghĩa bởi đã mất bạn rồi:
“Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo cũng hững hờ,
Đàn kia gãy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.”
Rượu luôn là thức uống yêu thích của thi nhân, thế nên mới có thi tửu. Nhưng rượu chỉ ngon khi được uống cùng bạn hiền. Biện pháp điệp từ “không” ba lần liên tiếp trong một câu thơ như nhân lên ba lần sự vô vị, không ham muốn thi tửu của Nguyễn Khuyến khi không có bạn. Hôm nay không mua rượu, không phải do không có tiền, mà là do không còn tri âm.
Bài thơ vẫn còn dang dở, chưa viết xong, bởi với ông, mất bạn rồi thì còn ai để đọc. Một lần nữa, biện pháp điệp ngữ lại xuất hiện, điệp từ “ai” và”đưa” hai lần, kết hợp với biện pháp chơi chữ “viết đưa ai” – “ai biết mà đưa”. Đây như một vòng luẩn quẩn, viết xong cũng không biết đưa cho ai, mà cũng không có ai để đưa. Mất đi Dương Khuê, Nguyễn Khuyến gần như mất đi cả một người đọc tri kỉ của mình.
Các sự vật tạo niềm vui khác như giường, đàn cũng mất đi sự sống, trở nên “hững hờ” và “ngẩn ngơ”. Đây là hai từ láy rất đặc sắc trong đoạn thơ, đồng thời là hai từ ngữ nhân hóa, khiến các sự vật tưởng như vô cảm ấy cũng đang hòa dần với nỗi đau mất mát bạn của nhà thơ. Sau cùng, thú vui để thưởng ngoạn với bạn, mất bạn rồi, thú vui cùng dần trở thành nỗi buồn sâu lắng.
Đau đớn là vậy, xót thương là vậy, nhưng Nguyễn Khuyến cũng đành chấp nhận sự thật rằng bạn đã đi xa:
“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương.
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”
Nguyễn Khuyến trách móc, hờn dỗi bạn khi “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở”. Đây là một điều vô lý nhưng hết sức hợp lý. Vô lý bởi Dương Khuê mất do tuổi già, nên cho dù nhà thơ có trách móc, van nài thì Dương Khuê cũng đâu thể nghe thấy được. Nhưng hợp lý là bởi, Nguyễn Khuyến quá nhớ thương Dương Khuê, mong muốn bạn ở lại với mình, nên mới buông lời mà trách nhẹ nhàng thế.
Mãi đến tận cuối bài thơ, ta mới thấy xuất hiện giọt nước mắt của nhà thơ. Nhưng sao giọt nước mắt ấy lại “như sương”, mà còn phải ‘ép” mới ra? Đọc đến đây, ta chợt nhớ lại giọt nước mắt cũng phải “ép” mới ra của Lão Hạc trong tác phẩm của Nam Cao. Một phần cũng là do tuổi cao nên khó chảy nước mắt. Nhưng phần nhiều, do lão quá đau khổ vì mất cậu Vàng, nên không thể khóc thành dòng được nữa. Cũng như vậy, Nguyễn Khuyến cũng nói một phần do “tuổi già”, nhưng thật ra, sâu trong thâm tâm, ông đau lòng đến độ thật khó để có “hai hàng chứa chan”. Nước mắt chảy ngược vào trong, như thể ông đang “nuốt” cái thương bạn vào trong bụng.
Bằng những câu thơ sử dụng ngôn ngữ bình dân mộc mạc, gần gũi, từng câu thơ chất chứa cảm xúc mãnh liệt, sử dụng tài tình biện pháp nhân hóa, phép điệp ngữ, biện pháp so sánh, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ lòng thương bạn, đau đớn muôn phần khi mất bạn, nhưng đồng thời cũng thể hiện thái độ chấp nhận sự thật. Đọc bài thơ, ta càng thêm trân trọng hơn những tình bạn đẹp đẽ, trong sáng giữa đời thường.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (thơ song thất lục bát) Văn mẫu lớp 9 KNTT của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.