Bạn đang xem bài viết ✅ Văn mẫu lớp 9: Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam Văn mẫu 9 Chân trời sáng tạo ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam gồm 2 mẫu hay nhất, giúp các em học sinh lớp 9 dễ dàng lựa chọn cho mình một đoạn trích trong một truyện thơ yêu thích để viết bài phân tích thật hay.

Truyện thơ

Nhờ đó, các em dễ dàng trả lời câu hỏi tiết Viết – Bài 5: Khát vọng công lí (Truyện thơ Nôm) SGK Ngữ văn 9 Chân trời sáng tạo tập 1 trang 145. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn, viết bài văn phân tích thật hay.

Đề bài: Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam là một trong số những hoạt động mà Câu lạc bộ Văn học trường em tổ chức nhằm khuyến khích học sinh tìm hiểu truyện thơ dân tộc. Để hưởng ứng hoạt động ấy, em hãy chọn một đoạn trích trong một truyện thơ mà mình yêu thích để viết bài phân tích và gửi cho câu lạc bộ.

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam – Mẫu 1

Truyện thơ nôm Tống Trân – Cúc Hoa có cốt truyện vay mượn từ truyện thơ nôm Kinh Tống Trân Cúc Hoa. Truyện thơ Tống Trân – Cúc Hoa có nguồn gốc từ truyện cổ tích Giã sử quan trạng Gầu. Truyện được xây dựng trên những mâu thuẫn phức tạp của cuộc sống đời thường. Đó là những nghịch cảnh, nghịch lí trớ trêu của cuộc đời mang đến nhiều giá trị nhân sinh sâu sắc.

Truyện nôm là một bộ phận văn hóa độc đáo và có những giá trị sâu sắc trong nền văn học phong kiến Việt Nam. Đây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi rộng vì vậy có người gọi truyện thơ nôm là trung thiên tiểu thuyết. Những giá trị mà truyện nôm mang lại cho cuộc sống được khẳng định qua sự tồn tại của nó theo thời gian.

Chuyện kể rằng Tống Trân vốn là con cầu tự, lên ba tuổi thì cha mất gia đình hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Mẹ con chàng phải đi ăn xin kiếm sống qua ngày, cuộc sống muôn vàn khó khăn vất vả. Một hôm Tống Trân đưa mẹ tới nhà quý phái, tại đi Tống Trân và Cúc Hoa gặp nhau, thương tình cho cảnh nghèo đói của mẹ con chàng, nàng Cúc Hoa đem gạo ra cho và đem lòng yêu Tống Trân. Dưới sự ngăn cản của gia đình Cúc Hoa đi theo Tống Trân, lấy chàng làm chồng. Kể từ đó Cúc Hoa vừa lo phụng dưỡng cho mẹ chồng vừa lo cho chồng ăn học.

Tống Trân lên kinh thi và đỗ Trạng nguyên được vua khen là “quốc sĩ tướng tài trong nước chỉ có một mình Tống Trân không ai sánh được”. Nhà vua muốn gả con gái cho chàng nhưng bị khước từ. Chính vì điều đó là chàng bị cử đi sứ Tần , chàng lúc nào cũng không quên nhớ nhà, nhớ người thân, nhớ hình ảnh mẹ già và người vợ thảo hiền của mình “thân nàng theo mừa đuổi hiên/ Thân nàng về lầu các mái hiên/ Phít se quan Trạng Nguyên nàng vọng/ Dõi theo bóng Trạng Nguyên xa khuất”. Tống Trân là một người tài giỏi, yêu thương gia đình hai vợ chồng chưa được bên nhau bao lâu thì bàng hoàng khi nhận được chiếu chỉ của vua ban “ngày vui ngắn chẳng tày ngang/ chữ hiếu chưa tròn chữ tình dở dang”. Chàng lên đường theo chiếu chỉ của vua thế nhưng lòng vẫn luôn hướng về gia đình. Tống Trân thương người mẹ già tuổi đã cao, thương người vợ hiền đảm bao công nuôi mẹ rồi nuôi chồng nay mới hưởng được chút vinh danh lại phải xa cách mà chưa biết bao giờ mới có ngày đoàn tụ. Cả đoạn Tống Trân chia tay mẹ già và người vợ hiền để lên đường đi sứ mang đến cho ta cảm giác xa cách, chứa chan nước mắt với những từ ngữ đầy buồn đau như “thảm hại”, “lệ tuôn lai láng”, “nước mắt rơi lã chã”,…Tống Trân đến với Cúc Hoa bằng tình cảm chân thành, họ yêu nhau không vì danh lợi bởi tình cảm họ dành cho nhau đều đến từ trái tim. Cúc Hoa nguyện ở nhà nuôi mẹ cho chồng vững bước trên đường xa. Một người vợ với tấm lòng đôn hậu, nghĩa tình thủy chung nặng tình nặng nghĩa như Cúc Hoa quyết định ở lại chăm lo cho mẹ già chờ ngày chồng trở về. Ở nơi xứ lạ quê người, Tống Trân không ngừng nhớ về quê hương, nhớ về mẹ về vợ của mình “thoảng nhớ nàng nhớ đến Cúc Hoa/ Nhớ vợ châu lệ xa không cạn/ Nhớ đến mẹ lão mẫu thân sinh” không gian xuất hiện cũng chỉ nhằm để đi sâu vào tâm trạng của nhân vật trữ tình. Dòng tâm trạng của Tống Trân cuộn chảy theo thiên nhiên, khiến cho lời thơ trở nên mới mẻ sinh động và phong phú.

Tham khảo thêm:   Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân (30 mẫu) Tóm tắt Vợ nhặt

Cúc Hoa là một người con dâu hiếu thảo, lễ phép ở nhà làm một dạ nuôi con nuôi mẹ chờ chồng. Mặc dù xuất thân trong một gia đình quý phái với đầy đủ về vật chất thế nhưng nàng có một người cha tàn nhẫn và ác độc. Tác phẩm là câu chuyện đẹp để về tình cảm son sắt sự thủy chung giữa Cúc Hoa và Tống Trân. Vì lòng thương chàng trai nghèo khổ nàng quyết định mổ từ bỏ gia đình để về làm vợ chàng. Mặc dù sống cuộc sống nghèo khổ, phải xa chồng nuôi mẹ thế nhưng nàng chưa một lần than thở hay cảm thấy khó chịu mà còn luôn yêu thương chăm sóc cho mẹ khi chồng vắng nhà. Cùng mẹ san sẻ lo lắng cho cuộc sống, lo cho mẹ hơn chính bản thân của mình. Người vợ thủy chung luôn hy sinh và lo lắng cho chồng. Cúc Hoa chấp nhận chịu thiệt, hi sinh bản thân để chăm lo cho chồng, tạo cho chồng có cơ hội được học tập thi đỗ thành tài. “Kể chi phận thiếp đàn bà/ Khó nghèo chớ quản lỗi nhà thảm thương”. Nàng tự ý thức được thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải luôn chịu áp lực, thiệt thòi, chịu những định kiến cổ hủ của xã hội. Cúc Hoa và người mẹ già là đại diện tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong xã hội cũ. Dù vậy Cúc Hoa vẫn một lòng tin tưởng chồng không ngại khó khăn nuôi mẹ lại nuôi cả chồng. Có thể thấy Cúc Hoa là một người vợ thủy chung thấu tình đạt lý. Nàng chấp nhận thân phận nữ nhi với nhiều thiệt thòi, bất công để lo cho chồng sự nghiệp phát triển. Không giống như bậc nam nhi trong xã hội đương thời, thật may mắn khi Tống Trân là một người luôn lo lắng cho mẹ, thương yêu vợ của mình. Kết thúc truyện họ đã được trở về bên nhau sống cuộc sống hạnh phúc và viên mãn.

Tác phẩm đã mang đến cho ta những giá trị nhân văn sâu sắc. Nếu như ta thường thấy những mâu thuẫn trong cuộc sống mẹ chồng nàng dâu thì ở đây Cúc Hoa cùng mẹ chồng lại chăm sóc yêu thương nhau, họ cảm thông cho nhau vì cùng là số phận của những người phụ nữ. Nàng dâu hiếu thảo lễ phép hết mực thương yêu gia đình chồng. Tác phẩm đã lên án gay gắt xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên tình yêu của con người. Số phận những người phụ nữ trong xã hội xưa luôn phải chịu bất công áp bức

Truyện thơ nôm Tống Trân – Cúc Hoa đã mang đến cho ta những giá trị văn hóa, triết lý nhân sinh sâu sắc. Chính tình yêu của quốc hoa của họ đã mang đến thông điệp về sự dũng cảm, nhẫn nại vượt qua mọi khó khăn thách thức trong cuộc sống để đến được hạnh phúc viên mãn.

Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam – Mẫu 2

Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Đoạn trường tân thanh tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài, đức hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.

Tham khảo thêm:   Đề thi thử Đại học năm 2013 - môn Tiếng Anh (Đề 11)

Với ngòi bút của một kì tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai nàng giai nhân tuyệt thế:

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.

Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều (con đầu lòng của gia đình Vương viên ngoại) đều là những ả tố nga – những người con gái đẹp. Vẻ đẹp của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:

Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn mười nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều và Thuý Vân đều mang vẻ đẹp lí tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.

Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:

Vân xem trang trọng khác vời,

Hai chữ trang trọng trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân. Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.

Tả Vân thật kĩ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác hoạ thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái mặn mà của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái tóc như Thuý Vân mà Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc tả bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:

Làn thu thủy nét xuân sơn,

Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn thu thủy – làn nước mùa thu, có nét xuân sơn – dáng núi mùa xuân. Cũng như khuôn mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:

Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh.

Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua, nhường mà cau mày, bặm môi tức giận, mà đố kị hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của Vân là những gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp của nước non, của không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm cho nghiêng nước, đổ thành:

Tham khảo thêm:   Bảng nhận xét viên chức - Dùng để xét lên lương Biểu mẫu GD-ĐT

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai nhân tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những phẩm chất bên trong cao quí là tài và tình rất đặc biệt:

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Kiều có cả tài cầm – kì – thi – hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt đối: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là một thiên Bạc mệnh. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc – tài – tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn mĩ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn Bạc mệnh nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm, truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận.

Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.

Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu mực của hai chị em Kiều:

Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc – tài – tình mà còn có đức hạnh. Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê – tới tuổi búi tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:

Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.

Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mĩ lệ nhất. Hai bức tranh mĩ nhân bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Viết bài giới thiệu về Vẻ đẹp của truyện thơ Việt Nam Văn mẫu 9 Chân trời sáng tạo của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *