TOP 22 bài Thuyết minh về con trâu Việt Nam, kèm theo 3 dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ về nguồn gốc, đặc điểm, lợi ích trong đời sống vật chất và tinh thần mà con trâu đem lại.
Con trâu như người bạn thân thiết với người nông dân Việt Nam từ bao đời nay, giúp ích rất nhiều trong việc đồng áng để tạo ra hạt gạo. Chi tiết mời các em cùng tải 21 bài thuyết minh con trâu siêu hay trong bài viết dưới đây để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Dàn ý thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam
Dàn ý chi tiết số 1
I. Mở bài
- Giới thiệu chung về hình ảnh con trâu trên đồng ruộng, làng quê Việt Nam.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc, đặc điểm của loài trâu:
- Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
- Là động vật thuộc lớp thú, lông trâu có màu xám, xám đen; thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn; bụng to; mông dốc; đuôi dài thường xuyên phe phẩy; bầu vú nhỏ; sừng hình lưỡi liềm…
- Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con…
2. Lợi ích của con trâu:
a. Trong đời sống vật chất:
- Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày, bừa, giúp người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo.
- Là tài sản quý giá của nhà nông.
- Cung cấp thịt; cung cấp da, sừng để làm đồ mỹ nghệ…
b. Trong đời sống tinh thần:
– Trâu là người bạn thân thiết với tuổi thơ của trẻ em ở nông thôn một buổi đi học, một buổi đi chăn trâu: thổi sáo, đọc sách, thả diều, đánh trận giả khi chăn trâu…
* Bổ sung hai câu thơ của nhà thơ Giang Nam viết về tuổi thơ chăn trâu:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
“Ai bảo chăn trâu là khổ ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
– Con trâu với lễ hội ở Việt Nam:
- Hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng.
- Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.
- Là biểu tượng của Sea Game 22 Đông Nam Á được tổ chức tại Việt Nam.
III. Kết bài
- Khẳng định lại vai trò của con trâu trong đời sống người nông dân ở làng quê Việt Nam.
- Nêu suy nghĩ, tình cảm của bản thân.
Dàn ý chi tiết số 2
I. Mở bài: giới thiệu về con trâu Việt Nam
Con trâu gắn liền với người nông dân Việt Nam từ xa xưa, bao đời nay. Con trâu như một người bạn thân thiết với người nông dân Việt Nam. Chính vì thế mà con trâu đi vào thơ ca Việt Nam rất đỗi tự nhiên. Để biết rõ hơn về con trâu thân thiết với người nông dân như thế nào, chúng ta cùng đi tìm hiểu con trâu Việt Nam.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc của con trâu
- Con trâu Việt Nam là thuộc trâu đầm lầy
- Con trâu Việt Nam là trâu được thuần hóa
2. Đặc điểm của con trâu Việt Nam
- Trâu là động vật thuộc lớp thú, lông trâu có màu xám, xám đen
- Trâu có thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn; bụng to; mông dóc; đuôi dài thường xuyên phe phẩy; bầu vú nhỏ; sừng hình lưỡi liềm…
- Trâu có sừng
- Trâu rất có ích với người nông dân Việt Nam
- Mỗi năm trâu đẻ một lứa và mỗi lứa một con
3. Lợi ích của con trâu Việt Nam
a. Trong đời sống vật chất thường ngày
- Trâu giúp người nông dân trong công việc đồng áng: cày, bừa,
- Trâu là người gián tiếp là ra hạt lúa, hạt gạo
- Trâu là một tài sản vô cùng quý giá đối với người nông dân
- Trâu có thể lấy thịt
- Da của trâu có thể làm đồ mỹ nghệ,…
b. Trong đời sống tinh thần
– Trâu là người bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam
– Trâu là tuổi thơ trong sáng, tươi đẹp của tuổi thơ: chăn trâu thổi sáo, cưỡi lưng trâu,…
– Trâu có trong các lễ hội ở Việt Nam:
- Hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng.
- Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.
- Là biểu tượng của SeaGames 22 Đông Nam Á được tổ chức tại Việt Nam.
- …..
4. Tương lai của trâu
Những tác động khiến trâu mất đi giá trị của mình:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Máy móc kỹ thuật hiện đại: máy bừa, máy cày,….
- Phát triển đô thị, quy hoạch hóa, xây dựng khu đô thị,….
III. Kết bài:
- Khẳng định vai trò của con trâu ở làng quê Việt Nam
- Nêu cảm nhận với ý nghĩ của mình về con trâu ở làng quê Việt Nam
Dàn ý chi tiết số 3
1. Mở bài
- Giới thiệu về con trâu
- Hình ảnh thôn quê, xóm làng gắn liền với những con vật quen thuộc, gần gũi
- Con trâu mang lại nhiều giá trị với người nông dân và với nền nông nghiệp lúa nước Việt Nam.
2. Thân bài
2.1. Nguồn gốc
- Tiến hóa từ trâu rừng
- Được người dân thuần chủng trở thành trâu như ngày nay
- Trâu Việt Nam thuộc nhóm trâu đầm lầy, phân bộ nhai lại, họ bò.
- Theo truyện dân gian, trâu từng là vị thần trên trời do vô tình gây nên nạn đói nhân gian bị Thượng Đế phạt làm trâu.
2.2. Tập tính
- Trâu thường sống theo bầy đàn
- Khi ăn, chúng có thói quen nhai lại thức ăn.
- Trâu thích đến các nơi đầm lầy, ao bùn.
- Trâu mới sinh được gọi là nghé, chưa có sừng.
- Nghé phát triển khá nhanh, sau 2 tuần sinh nghé có thể đứng, đi chập chững, sừng bắt đầu nhú.
- Khoảng 2 – 3 tháng, nghé bước vào giai đoạn trâu trưởng thành và dần hoàn thiện các bộ phận trâu.
2.3. Chủng loại
- Trâu Việt Nam phổ biến với hai loại trâu: Trâu trắng và trâu đen được phân loại dựa vào màu sắc lông
- Trâu trắng: Bộ lông màu trắng, biểu tượng sự may mắn
- Trâu đen: phổ biến nhất tại Việt Nam, lông màu đen
2.4. Đặc điểm
- Trâu đực và trâu cái có những đặc điểm khác nhau nhất định
- Lông trâu ngắn, có màu trắng hoặc xám đen.
- Da trâu cứng cáp
- Bốn chân thấp, guốc chẵn
- Thân hình trâu chắc nịch, khỏe khoắn
- Đuôi dài linh hoạt, phe phẩy đuổi ruồi muỗi.
- Trên đầu có cặp sừng cong, dài và phát triển hơn so với bò.
- Trâu không có hàm trên.
- Sữa trâu lỏng, chứa ít dinh dưỡng
2.5. Giá trị
– Giá trị sử dụng:
- Trâu ra đồng với người nông dân
- Trâu chở đồ, kéo xe
- Thịt trâu mang lại nguồn lợi kinh tế
- Da trâu làm đồ thời trang, mỹ nghệ
– Giá trị tinh thần:
- Trâu là người bạn gần gũi, thân thuộc với người nông dân, là người đồng hành cùng trải qua
- những nắng mưa, vất vả, những trưa hè nắng gắt bên cánh đồng
- Các lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là nét văn hóa đẹp của người dân bản địa
- Trâu trở thành biểu tượng thế vận hội Seagame lần thứ
3. Kết bài
- Tương lai của con trâu
- Hình tượng đẹp đẽ của con trâu trong đời sống hiện đại
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 1
Hình ảnh làng quê Việt Nam gắn liền với cánh cò bay lả bay la, với dòng sông vắt ngang qua mơ màng, với khói lam chiều từ ống bếp nhà ai đầy mờ ảo. Và có một biểu tượng quen thuộc cho nét thanh bình của vùng đất nông thôn. Đó chính là con trâu.
Trâu Việt Nam vốn có gốc gác từ loại trâu rừng, sống hoang dã, sau đó được con người thuần hóa và dần dần thân thiết như bây giờ và đa phần chúng đều thuộc nhóm trâu đầm lầy. Bởi vậy chúng ta vẫn hay bắt gặp chúng đằm mình thư thái trong các đầm hoặc những quãng sông nông. Trâu thuộc loài lớp thú, động vật có vú. Màu đặc trưng của nó là màu xám đen, khác hẳn với bò là màu vàng nâu dù cả hai là họ hàng với nhau. Trâu có một thân hình vạm vỡ như một thanh niên trai tráng nhưng chiều cao lại thấp. Chiếc bụng của nó phình ra to hơn cả thân hình. Lúc nó đi cái bụng cứ ngúc nga ngúc nguẩy. Trên đầu của nó có một chiếc sừng ngắn, hình lưỡi liềm. Điều đặc biệt là trâu không có hàm răng trên. Nó gắn với câu chuyện của dân gian “Trí khôn của ta đây”, vì trâu mải lăn ra cười mà va phải tảng đá nên gãy hết răng. Đó chỉ là cách lý giải vui nhộn còn theo sự nghiên cứu khoa học, hàm trên của trâu đã được thay bằng một tấm nệm để thuận tiện hơn trong quá trình xử lí thức ăn. Trâu cũng là loài động vật nhai lại và sức ăn cũng như sức chứa của nó khá là lớn. Trâu sinh sản không nhiều, hai năm mới có một đứa hoặc ba năm được hai đứa là nhiều bởi thời gian mang thai của nó rất dài thường rơi vào khoảng hơn ba trăm ngày.
Trâu đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của người nông dân. Từ sáng sớm tinh mơ, nó đã cùng các chú các bác ra đồng làm việc. Trâu có sức kéo tốt nên thường phụ trách công việc cày bừa. Những đồng ruộng trở nên tơi xốp hơn dưới đường cày của trâu. Ngoài ra chúng còn giúp người dân kéo một số đồ dùng. Thịt trâu cũng là một thực phẩm giàu chất dinh dưỡng, là nguyên liệu quan trọng của nhiều món ăn. Thịt trâu còn được coi là đặc sản với giá thành không hề rẻ. Trâu còn cung cấp da, sừng để làm đồ thủ công mỹ nghệ trưng bày trong nhà cửa. Chính vì những tác dụng của nó, trâu được coi là người bạn, là tài sản quý mà người nông dân dày công chăm sóc. Xét đến cùng, trâu đem đến cho gia đình ở vùng quê thôn dã những giá trị kinh tế để cải thiện đời sống.
Nhưng đâu chỉ có thế, trâu còn là người bạn của những đứa trẻ, của những chú mục đồng. Hình ảnh chú bé ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo đã đi vào trong bao bài thơ, câu ca, bức tranh, là nguồn cảm hứng khơi gợi cho văn chương nghệ thuật. Nhân dân còn tổ chức lễ hội chọi trâu thu hút rất nhiều khách du lịch. Trâu đi vào tâm linh, văn hóa của người Việt. Và trong lần đăng cai SEA Game 22, Việt Nam đã chọn con trâu vàng làm biểu tượng linh vật.
Để chăm sóc một con trâu vừa dễ cũng vừa khó. Thức ăn cho trâu đa số là cỏ nhưng chúng không phải loài động vật ngắn hạn như vịt gà mà nuôi một con trâu trung bình phải mất vài năm. Người dân cũng phải chú ý tiêm phòng đầy đủ, khi có dấu hiệu ốm phải gọi bác sĩ thú ý đến kiểm tra. Những mùa mưa rét, gió bão những người nông dân lại kiếm rơm rạ, dự trữ thức ăn để bảo vệ gia súc quý giá của mình.
Con trâu vẫn luôn là người bạn, một tài sản mà người nông dân Việt Nam luôn trân quý!
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 2
Nếu bạn đã từng đi qua những làng quê ở Việt Nam thì không thể không bắt gặp những chú trâu đang cần mẫn cày ruộng hay đang thong thả gặm cỏ. Con trâu là người bạn thân thiết của người dân và gắn bó lâu đời với nhau từ hàng ngàn năm nay. Và chúng được xem như biểu tượng của người nông dân Việt Nam.
Trâu bắt nguồn từ loài trâu rừng. Lông trâu thường có màu xám đen, thân hình vạm vỡ. Với đôi sừng nhọn, uốn cong như hình một lưỡi liềm. Chúng được con người sử dụng làm đồ trang sức. Trâu là loài động vật thuộc lớp có vú. Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày. Một con trâu đực trung bình cày bừa từ 3 – 4 sào còn trâu cái có thể cày bừa từ 2 – 3 sào.
Trong những thời đại trước trâu còn dùng để kéo xe, chở hàng và có thể kéo tải trọng từ 400 – 500kg. Con trâu còn có thể kéo gỗ củi và hàng hóa. Trâu cung cấp cho ta rất nhiều sản lượng về lương thực và sữa. Đem bán thịt trâu cũng thu được những khoản tiền đáng kể. Người ta thường trồng cây xen lẫn các cây ăn quả, phân trâu ủ xanh là thuốc bón tốt nhất cho cây. Trâu chính là tài sản nên rất được người dân chăm sóc rất chu đáo.
Hình ảnh con trâu ung dung gặm cỏ non, xanh mát và trên trời là những cánh diều bay cao giữa không trung đã in sâu trong tâm trí người Việt Nam. Chăn trâu thả diều là một trong những trò chơi của trẻ em nông thôn, một thú vui đầy lý thú. Trên lưng trâu còn có bao nhiêu là trò như đọc sách, thổi sáo… Những đứa trẻ đó lớn dần lên, mỗi người mỗi khác nhưng sẽ ko bao giờ quên được những ngày thơ ấu.
Ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu đâm trâu. Lễ hội chọi trâu ở Hải Phòng là nổi tiếng nhất ở Việt Nam. Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn – một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là 1 trong 15 lễ hội quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người. Ở Đồ Sơn vẫn có câu thành ngữ “Trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ” để lập luận Hội chọi trâu ra đời cùng với việc trở thành hoàng làng.
Tìm hiểu nguồn gốc ấy để thấy rằng lễ hội chọi trâu có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Đồ Sơn từ xưa tới nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến công ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho “nhân khang, vật thịnh”.
Người vùng biển đã gửi gắm tinh thần và ý chí của mình vào những “kháp đấu” giữa các “ông trâu”. Mỗi “ông trâu” trên xới đấu thắng thua ra sao sẽ chứng tỏ tài năng của các ông chủ trâu, của phường xã mình. Như vậy các “kháp đấu” giữa những ông trâu đã trở thành nghệ thuật, có tính biểu tượng sinh động, thể hiện bản sắc văn hoá. Như vậy chọi trâu đã nói hộ tích cách của người dân vùng biển, nó đã được định hình từ lâu với nội dung phong phú gồm nhiều yếu tố văn hoá dân gian, lành mạnh kết tinh của cả một vùng văn hoá ven biển mà Đồ Sơn là trung tâm. Đây là một lễ hội độc đáo của người dân Đồ Sơn, nó gắn liền việc thờ cúng thuỷ thần với nghi lễ chọi và hiến sinh trâu, có cả sự giao thoa giữa những yếu tố văn hoá nông nghiệp đồng bằng với văn hoá cư dân ven biển.
Con trâu đã gắn bó với người những người nông dân Việt Nam. Nó không những mang lại cho những người nhân dân việt nam về mặt vật chất mà còn mang lại cả về mặt tinh thần. Con trâu còn gắn bó với những lễ hội tiêu biểu của người dân Việt Nam. Nó đã là biểu tượng của của làng quê việt nam và Đất nước Việt Nam.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 3
Nhắc đến con trâu chúng ta nghĩ ngay đến con vật to khỏe nhưng hiền lành chăm chỉ. Trên những cánh đồng chúng ta bắt gặp hình ảnh con trâu cần mẫn kéo cày. Có thể nói con trâu gắn bó thân thiết với người nông dân Việt Nam: Con trâu – là động vật nhai lai thuộc họ bò, phân bộ nhai lại, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn, lớp thú có vú – loài động vật này chủ yếu vào việc cày kéo.
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần chủng, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Lông màu xám hoặc xám đen, thân hình vạm vỡ, thấp ngắn bụng to, mông đốc, bầu vú nhơ, sừng có hình lưỡi liềm. Ngày xưa, người ta phân biệt trâu lành hay trâu dữ là một phần nhờ vào đôi sừng trên chỏm đầu: Sừng dài, uốn cong hình lưỡi liềm cùng cặp mắt to dữ thì phải coi chừng và có biện pháp thuần phục. Nếu trâu cái trung bình từ 350 – 400 kg có tầm vóc từ vừa đến to, linh hoạt và hiền lành thì trâu đực nặng từ 400 – 450kg có tầm vóc lớn, cân đối, dài đòn trước cao sau thấp, tính khí hăng hái nhưng hiền lành.
Không chỉ có thế con trâu còn có một vị trí to lớn trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Hình ảnh con trâu đi trước cái cày đi sau đã trở thành hình ảnh gần gũi bao đời nay. Chính vì vậy nó là một phần không thể thiếu của người nông dân. Cũng như hình ảnh con trâu ung dung gặm cỏ non, xanh mát và trên trời là những cánh diều bay cao giữa không trung đã in sâu trong tâm trí người Việt Nam. Chăn trâu thả diều là một trong những trò chơi của trẻ em nông thôn, một thú vui đầy lý thú. Trên lưng trâu còn có bao nhiêu là trò như đọc sách, thổi sáo… Những đứa trẻ đó lớn dần lên, mỗi người mỗi khác nhưng sẽ không bao giờ quên được những ngày thơ ấu:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta,
Cái cày nối nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu, đâm trâu. Lễ hội chọi trâu ở Hải Phòng là nổi tiếng nhất. Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn – một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là một trong mười lăm lễ hội quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người.
Con trâu cũng có mặt trong lễ hội đình đám Việt Nam như tục chọi trâu ở Đồ Sơn (Hải Phòng), tục đâm trâu ở Tây Nguyên, nhưng từ lâu lắm rồi người Đồ Sơn đã lưu truyền câu ca dao cổ:
Dù ai buôn đâu, bán đâu
Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai bận rộn trăm bề
Mồng chín tháng tám nhớ về chọi trâu
Cũng có nhiều ý kiến về nguồn gốc ra đời của lễ hội chọi trâu đưa ra những căn cứ giải thích khác nhau, nhưng ở Đồ Sơn vẫn có câu thành ngữ “Trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ” để lập luận Hội chọi trâu ra đời cùng với việc trở thành hoàng làng. Không những thế để nói lên sự sung túc, thành công của nhà nông có câu: “Ruộng sâu, trâu nái”.
Tìm hiểu nguồn gốc ấy để thấy rằng lễ hội chọi trâu có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Đồ Sơn từ xưa tới nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến công ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho “nhân khang, vật thịnh”. Chọi trâu không chỉ đơn thuần “hai con trâu chọi” mà nó đã trở thành tục lệ, tín ngưỡng độc đáo ở vùng biển Đồ Sơn. Người dân đặt vào lễ hội niềm tin và hy vọng bởi những cặp trâu chọi sẽ quyết định thắng thua, thành bại cho phe giáp ngày trước, phường xã ngày nay. Người Đồ Sơn gắn lễ hội chọi trâu với việc thờ cúng thành hoàng làng với mong muốn những chuyến đi biển thuận buồm xuôi gió, cho nên ngày Hội càng trở nên thiêng liêng, trang trọng. Vào Hội, mọi người được dịp hoà mình vào cộng đồng để tình cảm kết nối bền chặt, gắn bó hơn. Vì thế mà tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng cũng được duy trì, khẳng định.
Con trâu được xem là một con vật linh thiêng bởi vì nó nằm trong mười hai con giáp mà người Việt Nam cũng như người phương Đông dùng để tính tuổi, tính năm. Ngoài ra, chúng còn được đưa vào nhiều bức tranh của làng tranh Đông Hồ nổi tiếng như bức tranh “Trẻ em cưỡi trâu thổi sáo”. Con vật thiêng này cũng là con vật đã in đậm vào kí ức tuổi thơ khi nhớ về làng quê. Nhà thơ Giang Nam đã ghi nhận kí ức tuổi thơ khi nhớ về quê hương:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng như chim hót trên cao.
Ngày nay, có rất nhiều máy móc hiện đại đã xuất hiện khắp nơi trên cánh đồng làng quê Việt Nam những con trâu vẫn là con vật gắn bó thân thiết với người nông dân. Trâu luôn là con vật không thể thiếu ở làng quê Việt Nam – con vật linh thiêng trong sâu thẳm tâm hồn người dân Việt Nam. Con vật thiêng ấy sẽ mãi mãi in đậm trang kí ức của người dân Việt, nhất là những người xa xứ.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 4
Con trâu là hình ảnh gắn liền với làng quê Việt Nam, với những khóm tre, với đồng ruộng và với người nông dân chân lấm tay bùn. Từ bao đời nay, khi nhắc đến hình ảnh con trâu chúng ta lại nghĩ đến vai trò to lớn của nó đối với nông nghiệp Việt Nam, đó là biểu tượng của sự cần cù, chăm chỉ, chất phác của con người Việt Nam.
Cha ông ta vẫn truyền tai nhau rằng “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đối với những người nông dân quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời thì con trâu chính là gia tài đáng giá hơn cả.
Về nguồn gốc xuất xứ của trâu tại Việt Nam có rất nhiều tài liệu, tuy nhiên chưa có một tài liệu nào chính xác nói đến sự ra đời của trâu là như thế nào. Tùy vào điều kiện thiên nhiên địa lí mà trâu ở mỗi vùng miền lại có những đặc tính sinh trưởng khác nhau. Ở Việt Nam khí hậu nhiệt đới gió mùa nên trâu có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, hay còn gọi là trâu đầm lầy.
Trâu có hai loại: trâu đực và trâu cái. Chúng có đặc tính giống nhau nhưng về hình dáng, kích thước thì khác nhau một chút, tuy nhiên không đáng kể. Trâu đực thường to và cao hơn trâu cái, sừng to và dày hơn, đôi chân chắc nịch, lúc chạy rất nhanh. Đầu của trâu đực nó hơn trâu cái một chút.
Mỗi con trâu trưởng thành có khối lượng từ 200kg đến 500kg. Một đặc điểm rất dễ nhận dạng của trâu chính là không có hàm răng trên. Trâu thuộc động vật nhai lại, sức nhai của trâu rất bền.
Sừng của một con trâu khá dài và có hình dáng giống như lưỡi liềm, rất chắc chắn nhưng cấu tạo bên trong đều rỗng tuếch. Chân của trâu rất chắc và ngắn, lúc bước đi thường chệnh choạng ra hai bên. Da của chúng cũng rất dày. Lông của trâu thường có màu đen, nhưng có một số con trâu có màu vàng nhạt, đó là do giống lai.
Trâu là người bạn thân thiết của nhà nông, từ công việc cày bừa, kéo lúa, kéo ngô, chở hoa màu… đều đến “lượt” của nó. Sức trâu rất dẻo dai, nó có thể làm quần quật cả ngày không biết mệt. Thời tiết thay đổi có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của trâu. Nên đến mùa hè người nông dân thường cho trâu ra ao tắm, vào mùa đông thì giữ ấm cho trâu bằng việc lót rơm rạ ở chuồng cho trâu nằm. Trâu là động vật sinh con và nuôi con bằng sữa, mỗi năm nó sẽ sinh ra một con nghé con.
Đối với người nông dân thì con trâu chính là cơ ngơi quan trọng. Bên cạnh đó trâu còn là con vật linh thiêng trong các lễ hội chọi trâu lớn. Thịt trâu cũng là một món đặc sản rất nổi tiếng. Sừng trâu, da trâu còn dùng để làm các trang sức, quần áo cho con người. Đặc biệt sự xuất hiện của trâu trong SEA Games 22 tại Việt Nam thực sự là biểu tượng, là niềm tự hào của nhân dân việt nam. Nó mang ý nghĩa biểu trưng cho sự cần cù, chăm chỉ, cần mẫn, hiền lành của người nông dân. Một hình đáng đáng trân trọng.
Trâu cũng gắn liền với nhiều kỉ niệm tuổi thơ của trẻ em nông thôn, theo các em lớn lên từng ngày.
Thật vậy, mặc dù hiện nay xuất hiện nhiều loại máy móc, phương tiện hiện đại nhưng trâu vẫn luôn là hình ảnh không thể thay thế được của người nông dân. Nó luôn là người bạn đáng tin cậy và hiền lành nhất. Hơn hết nó chính là nét đẹp của con người Việt Nam.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 5
Bao đời nay, hình ảnh con trâu lầm lũi kéo cày trên đồng ruộng là hình ảnh rất quen thuộc, gần gũi đối với người nông dân Việt Nam. Vì thế, đôi khi con trâu đã trở thành người bạn tâm tình của người nông dân:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công…
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Trâu rừng là tổ tiên của các loài trâu nhà, sinh ở vùng Đông Nam Á nhiệt đới gió mùa thấp ẩm, hiện còn tồn tại ở miền Trung nước ta. Khoảng 5 – 6 ngàn năm trước, trâu đã thuần hóa cùng với sự ra đời nền văn minh lúa nước. Người Việt cổ đã biết săn bắt trâu, thần hóa chúng để giúp con người trong việc cày cấy.
Trâu là động vật thuộc lớp thú, màu da thường là màu đen với lớp lông mao bao phủ toàn thân. Da trâu rất dày, có lông tơ như chiếc áo choàng. Thấp thoáng trong bộ áo đẹp đẽ là một làn da căng bóng mỡ. Trâu có một cái đuôi dài, thường xuyên phe phẩy như cái quạt của con người để đuổi ruồi và muỗi. Hai tai dài giúp nó nghe ngóng được những tiếng động xung quanh. Người nông dân có thể nhận biết sự lành, dữ ở loài trâu một phần nhờ đôi sừng trên đầu. Trâu có đôi sừng dài, uốn cong hình lưỡi liềm, giúp trâu làm dáng và tự vệ chống lại kẻ thù. Trâu có một đặc điểm rất nổi bật là không có hàm răng trên, có thể vì vậy mà trâu phải nhai lại thức ăn. Không như các động vật khác, nó có một kiểu ngủ rất đặc biệt. Hai chân trước gập vào trong, đầu ghé lên đó để ngủ.
Mỗi năm chúng chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con. Trâu nuôi con bằng sữa tiết ra từ tuyến vũ. Trâu con gọi là nghé, nghé sơ sinh nặng khoảng 22 – 25kg. Khi mới sinh ra khoảng vài giờ đến một ngày, nghé có thể đứng thẳng, vài hôm sau có thể mở mắt, đi lại theo mẹ. Nghé lớn rất nhanh và chưa có sừng, lớn lên sừng mới nhú dần ra nhưng các bộ phận bên ngoài.
Trâu là một động vật rất có ích, là người bạn của nông dân: “Con trâu đi trước, cái cày đi sau”. Ngày xưa không có máy cày, trâu phải làm việc nặng nhọc, Trên con đường làng sáng tinh mơ hay giữa trưa hè nắng lửa, trâu vẫn cần cù nhẫn nại, mải miết làm việc cùng với người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo. Trâu không chỉ kéo cày giúp con người trồng lúa, trồng hoa màu, mà còn là gia sản của người nông dân. Chẳng phải các cụ ta đã nói : “Con trâu là đầu cơ nghiệp” đó sao? Thật vậy, trâu có tầm quan trọng không nhỏ trong đời sống người nông dân. Điều đó cũng đã đi vào văn học dân gian với những câu ca dao quen thuộc:
Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Trâu cũng có thể cung cấp sữa cho con người. Mỗi con trâu có thể cho 400 – 500 lít sữa trong một chu kỳ vắt. Da trâu tuy không tham gia vào việc làm ra những sản phẩm độc đáo như giày dép, túi xách như một số loại da khác vì đặc điểm da trâu cứng nhưng có thể làm mặt trống. Những chiếc trống gắn bó thân thiết với học sinh, với nhà trường và các lễ hội. Sừng trâu cũng có thể làm tù và, đồ thủ công mỹ nghệ. Phân trâu là phân bón rất tốt.
Không chỉ gắn bó với người nông dân, trâu còn góp phần tạo nên những kỉ niệm đẹp tuổi thơ ở khắp mọi vùng quê đất Việt. Trâu là người bạn thân thiết với trẻ em nông thôn một buổi đi học, một buổi đi chăn trâu. Nhà thơ Giang Nam trong bài “Quê hương” đã là người trong cuộc để nói với lũ trẻ chăn trâu:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường,
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ.
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.
Trong lúc các chú trâu thong thả gặm cỏ hay đầm mình trong dòng mương mát rượi, thì lũ trẻ bày trò chơi trận giả. Cũng có lúc ta gặp cảnh thật yên bình, yên ả: các cậu bé, cô bé chăn trâu nằm nghỉ ngơi trên lưng trâu ngắm cảnh diều sáo vi vu trên bầu trời. Hình ảnh tuyệt vời của trẻ thơ chăn trâu được các nghệ nhân đưa vào tranh Đông Hồ. Nhìn tranh, ta lại nhớ câu thơ của nhà vua Trần Nhân Tông trong “Thiên trường vãn vọng”: “Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết”. Và cũng có thể, trên cánh đồng lúa, ta còn bắt gặp những em bé nông thôn vừa chăn trâu, vừa học bài. Thời thơ ấu ở làng quê thật đẹp biết bao!
Ngày nay, khi nông thôn đổi mới, máy móc nhiều cũng là lúc trâu được nghỉ ngơi. Còn nhớ những ngày người nông dân phải kéo cày thay trâu thì mới thấy cái giá trị khi có trâu. Đặc biệt, trâu còn trở thành biểu tượng của SEA Games 22 được tổ chức tại Việt Nam. Biểu tượng “trâu vàng” mặc quần áo cầu thủ đón các vận động viên là sự tôn vinh trâu Việt Nam, tôn vinh người nông dân lao động.
Biết bao thế kỉ đã trôi qua, có lẽ từ khi nền văn minh lúa nước của người Việt khởi nguồn thì loài trâu cũng đã trở thành báu vật của người nông dân. Trên nền bức tranh thiên nhiên của làng quê Việt, bên những cánh đồng xanh tốt, thẳng cánh cò bay, dưới lũy tre làng luôn có hình ảnh quen thuộc của con trâu hiện diện. Chúng ta chăm sóc và bảo vệ trâu chính là ta đã giữ gìn một biểu tượng văn hóa truyền thống của người Việt.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 6
Con trâu là đầu cơ nghiệp. Đó là những suy nghĩ và tình cảm của người nông dân dành cho con trâu yêu quý của mình. Con trâu là cánh tay phải của người nông dân. Từ bao đời nay, con trâu đã trở thành quen thuộc và gần gũi với xóm làng, đồng ruộng. Trâu là bạn nhà nông, được người nông dân nâng niu, chăm sóc.
Trâu thuộc lớp thú có vú, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn. Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa. Lông tơ màu sẫm hoặc đen, thỉnh thoảng có một số ít con màu trắng. Bộ lông tơ ấy dù mọc dày đến đâu chăng nữa thì vẫn bị thưa dần bởi ánh nắng và cái ách cày trên đồng ruộng, để rồi thấp thoáng trong lớp lông ấy là lớp da căng bóng, nhẵn lì. Thân hình trâu vạm vỡ, chân to và ngắn, bụng to, mông dốc, đầu vú nhỏ, đuôi tựa cái chổi luôn ngoe nguẩy, mắt to và lồi, sừng trâu cong hình lưỡi liềm, cũng có con sừng dài và cong vút. Người ta thường phân biệt trâu lành hay trâu dữ nhờ đôi sừng và cặp mắt. Sừng dài và cong cùng cặp mắt đỏ ngầu ở khóe thì thường là trâu dữ, cần phải có biện pháp thuần phục. Trâu cái thường nặng từ 350 – 400 kg, trâu đực thường nặng từ 400 – 450 kg, có con lên đến 600 – 700 kg.
Trâu ba tuổi đã có thể đẻ lứa đầu, có con đến bốn tuổi mới đẻ được. Trâu đẻ có mùa vụ. Tỷ lệ đẻ hằng năm ở vùng núi là 40 – 45%, ở đồng bằng là 20 – 25%. Một đời trâu cái thường cho 5 – 6 nghé, nghé sơ sinh nặng 20 – 25kg. Đôi răng cửa giữa cố định bắt đầu mọc lúc 3 tuổi, trâu kết thúc sinh trưởng khi hết 6 tuổi. Lúc đó, trâu đã có 8 răng cửa. Đặc điểm nổi bật ở trâu là chỉ có một hàm răng, vì vậy trâu phải nhai lại thức ăn.
Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày. Lực kéo trung bình trên ruộng từ 70 – 75kg, bằng 0,36 – 0,40 mã lực. Trâu loại A mỗi ngày cày 3 – 4 sào ruộng, trâu loại B mỗi ngày cày 2 – 3 sào, trâu loại c mỗi ngày cày độ 1,5 – 2 sào.
Trâu không những giúp người nông dân kéo cày, kéo xe mà trâu còn cho thịt, cho sữa và cho phân. Trâu có thể cho 400 – 500kg sữa trong một chu kỳ vắt. Trong 24 giờ, trâu 2 răng cửa thải ra 10kg phân, trâu 4 răng cửa thải 12 – 15kg và trâu trưởng thành thải ra 20 – 25kg. Phân trâu là chất dinh dưỡng chủ yếu cho cây trồng.
Trâu thật có ích nên người nông dân luôn coi trâu là gia sản của mình. Chẳng phải nhà nông nói:
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Hết mùa vụ trâu được nghỉ ngơi, được con người chăn dắt, được hưởng phút thanh nhàn sau những ngày lam lũ. Người tắm mát cho trâu, máng rơm, máng nước luôn chực sẵn mỗi ngày. Chuồng trại của trâu ngày nay cũng được khang trang, rộng rãi. Không những thế, trâu được người đưa đi dự hội hè, dự hội chọi trâu trong dịp tết đến xuân về.
Trâu là biểu tượng của SEA Games 22 được tổ chức tại Việt Nam. Biểu tượng “trâu vàng” mặc quần áo cầu thủ đón các vận động viên của các nước bạn đến Việt Nam là sự tôn vinh trâu Việt Nam, tôn vinh người nông dân Việt Nam. Trâu Việt Nam thật có ích, thật đáng yêu. Trâu còn là đề tài của thơ ca, nhạc họa:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có đường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Trần Nhân Tông)
Ngày nay, đất nước ta đang phát triển ngành trồng lúa, dẫu cho máy cày hay máy kéo hiện đại xuất hiện nhưng con trâu vẫn là con vật thiêng liêng trong sâu thẳm tâm hồn người nông dân Việt Nam.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 7
Từ bao đời nay, nước ta có truyền thống làm nông và nền văn minh lúa nước phát triển. Để làm được điều này chúng ta phải lao động cật lực và nặng nhọc. Con trâu – người bạn thân thiết cùng chia ngọt sẻ bùi với người nông dân, cùng người nông dân đi khắp cánh đồng để xới đất đai, cùng chung vui niềm vui ngày được mùa. Con vật này đã trở thành thân thuộc và không thể thiếu ở làng quê Việt Nam.
Không ai biết chính xác nguồn gốc của loài trâu ngày nay. Người ta chỉ biết trâu xuất hiện nhiều ở những nước châu Á như Pa-xki-tan, Băng-la-đét, Nê-pa, Thái Lan… Và đặc biệt ở Việt Nam người ta tìm thấy di tích hóa thạch của trâu cách đây vài chục triệu năm ở các hang động miền Bắc nước ta. Trâu theo khoa học thuộc lớp Mammalia, ngành Chordata, họ bò, bộ nhai lại, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn. Đa số trâu Việt Nam hiện nay có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
Trâu được phân loại theo giống đực và giống cái. Con đực tầm vóc lớn, dài đòn, trước cao, sau thấp. Con cái tầm vóc từ vừa đến to, linh hoạt. Đặc tính chung của trâu là hiền lành, thân thiện nên chúng được nuôi phổ biến ở khắp các tỉnh thành trong cả nước. Trung bình một con trâu trưởng thành có thể nặng từ 250 – 500kg. Cân nặng của trâu tùy thuộc vào giới tính và sức khỏe. Các bộ phận của trâu được chia thành các phần: đầu, cổ, thân, chân, đuôi và da. Đầu trâu đực dài, to vừa phải, trâu cái đầu thanh, dài. Trán rộng, phẳng, hơi gồ. Da mặt rất khô, nổi rõ mạch máu. Mắt to tròn, tròng đen láy lanh lẹ, mí mắt mỏng; mũi kín, bóng, ướt. Miệng trâu rộng, răng đều khít, không sứt mẻ. Điểm đặc biệt của trâu là hàm trên không có răng mà chỉ có một miếng đệm rất dai, dẻo phù hợp với đặc tính nhai lại, ăn thực vật. Hai tai trâu nhỏ vừa có thể cử động, phủ một lớp lông mềm bảo vệ tai khỏi côn trùng chui vào. Sừng trâu thanh, đen, cân đối, ngấn sừng đều, rỗng ruột. Phần cổ và thân trâu có những đặc điểm sau: cổ dài vừa phải; ức rộng, sâu, lưng dài từ 1 – 1,5m hơi cong; xương sườn to, tròn, cong đều; bụng tròn lẳn; mông nở rộng, to. Chân trâu rất khỏe, vững chắc để đỡ cả thân người, bốn chân thẳng to, gân guốc. Hai chân trước cách xa nhau, thẳng. Bàn chân thẳng, ngắn, vừa phải. Hai đùi sau to dài, bàn chân sau xuôi, ngắn. Bốn móng rất cứng, khít tròn, đen bóng và chắc chắn. Đuôi trâu to, dài, phần đuôi có túm lông lúc nào cũng phe phẩy để đuổi ruồi, muỗi. Da trâu hơi mỏng nhưng bóng láng, màu xám đen. Lông đen, cứng, sát vào da giúp điều hòa nhiệt độ trong những trưa hè oi bức ở vùng nhiệt đới. Nhìn chung, trâu có thân hình khỏe khoắn, thích hợp với công việc đồng áng cực nhọc.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 8
Từ bao đời nay, nước ta có truyền thống làm nông và nền văn minh lúa nước phát triển. Để làm được điều này chúng ta phải lao động cật lực và nặng nhọc. Khi đó, con trâu chính là trợ thủ đắc lực của người nông dân.
Nhắc đến con trâu chúng ta nghĩ ngay đến con vật to khỏe nhưng hiền lành chăm chỉ. Trâu là động vật nhai lai thuộc họ bò, phân bộ nhai lại, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn, lớp thú có vú.
Trâu cái nặng trung bình từ 350 – 400 kg có tầm vóc từ vừa đến to, linh hoạt và hiền lành. Còn trâu đực nặng từ 400 – 450kg có tầm vóc lớn, cân đối, dài đòn trước cao sau thấp, tính khí hăng hái nhưng hiền lành.
Trâu là một động vật rất có ích, là người bạn của nông dân: “Con trâu đi trước, cái cày đi sau”. Ngày xưa không có máy cày, trâu phải làm việc nặng nhọc, Trên con đường làng sáng tinh mơ hay giữa trưa hè nắng lửa, trâu vẫn cần cù nhẫn nại, mải miết làm việc cùng với người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo. Trâu không chỉ kéo cày giúp con người trồng lúa, trồng hoa màu, mà còn là gia sản của người nông dân. Chẳng phải các cụ ta đã nói : “Con trâu là đầu cơ nghiệp” đó sao? Thật vậy, trâu có tầm quan trọng không nhỏ trong đời sống người nông dân. Điều đó cũng đã đi vào văn học dân gian với những câu ca dao quen thuộc:
Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Con trâu cũng có một vị trí to lớn trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Chăn trâu thả diều là một trong những trò chơi của trẻ em nông thôn, một thú vui đầy lý thú. Trên lưng trâu còn có bao nhiêu là trò như đọc sách, thổi sáo… Những đứa trẻ đó lớn dần lên, mỗi người mỗi khác nhưng sẽ ko bao giờ quên được những ngày thơ ấu:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta,
Cái cày nối nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Ngoài ra trâu con trâu gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu, đâm trâu. Chúng cũng là một biểu tượng của người nông dân Việt Nam.
Như vậy, trâu chính là loài động vật có ích trong cuộc sống của con người.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 9
Trâu ơi ta bảo trâu này:
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày giữ nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Hình ảnh con trâu vốn không còn xa lạ gì nữa với mỗi người dân Việt Nam.
Trâu (miền Trung gọi là tru) là một loài động vật thuộc họ Trâu bò, phân bộ Nhai lại, nhóm Sừng rỗng, bộ Guốc chẵn, lớp thú có vú. Chúng thường sống hoang dã ở Nam Á, Đông Nam Á và miền bắc nước Úc. Còn ở Việt Nam, chúng thường được nuôi với số lượng rất lớn.
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Bộ lông của chúng có màu xám hoặc xám đen. Thân hình to khỏe và vạm vỡ. Bụng to, mông dóc, đuôi dài thường xuyên phe phẩy. Bầu vú nhỏ và đặc biệt là đôi sừng hình lưỡi liềm cứng và nhọn có thể trở thành một loại vũ khí tự vệ cho chúng khi gặp phải kẻ thù.
Chúng gồm hai loại phổ biến là trâu trắng và trâu đen. Việc phân loại này được dựa theo màu sắc của lông. Trâu trắng là loại trâu có lông màu trắng ngà. Người ta cho rằng trâu trắng thường mang lại may mắn. Nhưng loài trâu này rất hiếm gặp. Còn trâu đen thì có bộ lông màu đen xám, chiếm số lượng áp đảo hơn cả.
Về tập tính của loài trâu, có một điểm vô cùng nổi bật như: Trâu có tập tính nhai lại khi ăn, thức ăn được đưa vào dạ cỏ và dạ tổ ong, phần thức ăn không tan được đưa lại khoang miệng để trâu nhai lại, phần tan vào các dạ lá sách, dạ túi khế để tiêu hóa. Điều này thật thú vị! Chúng sẽ phải mất rất nhiều thời gian để tiêu hóa thức ăn nhưng lại không bao giờ cảm thấy đói. Ngoài ra, trâu là loài sống theo bầy đàn. Chúng thường sống thành một gia đình lớn tại các vùng đầm lầy, thung lũng.
Về sinh sản, hằng năm trâu đẻ hai lứa. Mỗi lứa chỉ cho ra đời một con con. Trâu con mới chào đời được gọi là nghé. Chúng chưa có sừng và thường nặng từ 22 – 25 kg. Một con nghé trưởng thành khá nhanh. Khoảng hai tuần thì biết đi và từ hai đến ba tháng thì có thể phát triển thành một con trâu trưởng thành. Các bộ phận khác cũng dần hoàn thiện trong quá trình phát triển.
Về đặc điểm, trâu có thân hình chắc nịch, khỏe khoắn, bộ lông có hai loại màu trắng ngà hoặc xám đen với các sợi lông ngắn tũn. Da của chúng rất dày và cứng cáp. Có lẽ, khi mùa đông đến, loài trâu không sợ lạnh cũng chính vì bộ da của chúng. Trâu có bốn chân ngắn với bộ guốc chẵn. Đuôi dài, linh hoạt và thường ve vẩy để đuổi ruồi, muỗi chứ không chịu nằm yên một chỗ. Phần đầu trâu có hai cặp sừng dài. Ở một con trâu trưởng thành, cặp sừng này có thể rất dài. Đôi mắt của chúng to và trông lúc nào cũng lờ đờ như thiếu ngủ. Trong khoang miệng không có hàm trên. Hầu hết trâu đực có phần minh to hơn trâu cái, sức kéo cùng thịt trâu dai và chắc hơn trâu cái. Trâu cái có thể tiết sữa nhưng sữa trâu không có nhiều dinh dưỡng như sữa bò.
Về giá trị vật chất, loài trâu gắn với người nông dân từ bao đời nay. Ông cha ta có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Chúng chủ yếu cung cấp sức kéo cho con người: giúp kéo xe, kéo cày cho người nông dân khi ngoài đồng. Ngoài ra, ngày nay, thịt trâu cũng trở thành một món đặc sản khá nổi tiếng. Da trâu cũng có thể được dùng làm da các loại túi, ví, thời trang. Về giá trị tinh thần, con trâu chính là người bạn đồng hành với người nông dân trong công việc lao động vất vả. Một số nơi, còn tổ chức lễ hội mà con trâu chính là nhân vật chính như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Con trâu cũng chính là một biểu tượng văn hóa của người nông dân Việt Nam.
Cho dù xã hội ngày càng hiện đại nhưng đối với những người nông dân Việt Nam, con trâu mãi là một người bạn gắn bó trong công việc lao động của họ.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 10
Loài trâu chúng tôi quanh năm làm lụng vất vả cực nhọc cùng với người nông dân ngoài đồng ruộng. Hình ảnh của chúng tôi có lẽ đã không còn xa lạ gì với người dân Việt Nam. Nhưng không phải ai cũng có thể hiểu hết toàn bộ những đặc điểm và tập tính của chúng tôi. Chính vì vậy, tôi sẽ giới thiệu cho các bạn toàn bộ về loài trâu chúng tôi.
Loài Trâu là một loài động vật thuộc họ Trâu bò, phân bộ Nhai lại, nhóm Sừng rỗng, bộ Guốc chẵn, lớp Thú có vú. Đối với nguồn gốc, xuất xứ của loài trâu ở Việt Nam có rất nhiều tài liệu ghi chép. Tuy nhiên chưa có một tài liệu nghiên cứu nào cho biết chúng tôi ra đời chính xác vào thời điểm nào. Có lẽ, chúng tôi phải có mặt trên trái đất từ rất lâu rồi. Tùy vào điều kiện thiên nhiên địa lí mà trâu ở mỗi vùng miền lại có những đặc tính sinh trưởng khác nhau. Còn ở Việt Nam do tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa nên trâu có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, hay còn gọi là trâu đầm lầy. Chúng tôi cũng giống như các loài vật khác đều có giống đực và giống cái. Cả hai đều có những điểm chung về tập tính nhưng lẽ dĩ nhiên sẽ khác nhau về ngoại hình. Một con trâu đực như tôi sẽ có phần minh to hơn trâu cái, sức kéo cùng thớ thịt sẽ dai và chắc hơn trâu cái. Trâu cái có thể tiết sữa nhưng sữa trâu không có nhiều dinh dưỡng như sữa bò. Hằng năm, những con trâu cái sẽ đẻ hai lứa. Mỗi lứa chỉ cho ra đời một con con. Những con trâu mới chào đời sẽ được gọi với một cái tên rất đáng yêu là nghé. Chúng chưa có sừng và thường nặng từ 22 – 25 kg. Một con nghé trưởng thành khá nhanh. Khoảng hai tuần thì biết đi và từ hai đến ba tháng thì có thể phát triển thành một con trâu trưởng thành. Các bộ phận khác cũng dần hoàn thiện trong quá trình phát triển.
Còn về tập tính sinh sống của chúng tôi, chắc hẳn sẽ gây ngạc nhiên cho con người. Chúng tôi có tập tính nhai lại. Vậy nhai lại là gì? Hiểu đơn giản quá trình nhai lại gồm hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất chúng tôi ăn thức ăn thô và nuốt vào dạ dày. Giai đoạn thứ hai, chúng ợ thức ăn đã phân hủy một phần trong dạ dày trở lại miệng để nhai lại. Điều này giúp cho chúng tôi không bao giờ cảm thấy đói cả. Thật thú vị phải không?
Mỗi loài vật đều có những đặc điểm ngoại hình riêng, và chúng tôi cũng vậy. Mỗi con trâu có thân hình chắc nịch, khỏe khoắn, bộ lông có hai loại màu trắng ngà hoặc xám đen với các sợi lông ngắn tũn. Da của chúng tôi rất dày và cứng cáp. Chính vì vậy mà khi mùa đông đến chúng tôi chẳng cảm thấy lạnh. Loài trâu có bốn chân ngắn với bộ guốc chẵn. Đuôi dài, linh hoạt và thường ve vẩy để đuổi ruồi, muỗi chứ không chịu nằm yên một chỗ. Phần đầu trâu có hai cặp sừng. Ở một con trâu trưởng thành, cặp sừng này có thể rất dài. Đôi mắt của chúng tôi thì to nhưng trông lúc nào cũng lờ đờ như thiếu ngủ. Trong khoang miệng không có hàm trên. Tuy vậy mà chúng tôi vẫn ăn rất khỏe. Nhưng thức ăn chủ yếu chỉ là rơm hoặc cỏ.
Đối với những người nông dân, loài trâu chính là trợ thủ đắc lực của họ. Lực kéo trung bình của một con trâu trên đồng ruộng là 70 – 75kg, tương đương 0,36 – 0,1 mã lực. Chúng tôi được phân loại như sau: Trâu loại A một ngày cày được 3 – 4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 – 3 sào và loại C khoảng 1,5 – 2 sào. Không chỉ trong công việc cày bừa, loài trâu còn được dùng để kéo đồ, chở hàng. Trên đường xấu, trâu có thể kéo với tải trọng là 400 – 500 kg, đường tốt là 700 – 800kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5 – 1m khối gỗ trên quãng đường 3 – 5km.
Ngoài đời sống vật chất, loài trâu cũng vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Chúng tôi được họ đưa vào 12 con giáp – đơn vị để tính năm hay tính tuổi tác. Loài trâu còn được coi là biểu tượng cho nền nông nghiệp lúa nước. Cũng như gắn với cơ nghiệp của người nông dân. Con trâu cũng được con người đưa vào rất nhiều bài ca dao, câu hát và bức tranh nữa:
Chú Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi chơi cầu vồng
*
Hỡi cô cắt cỏ bên đồng
Nuôi trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bảy chia ba
Thân em là gái được là bao nhiêu?
Thế mới thấy được tầm quan trọng của chúng tôi đối với con người. Trên đây là những đặc điểm quan trọng nhất về loài trâu chúng tôi. Chắc hẳn sẽ giúp mỗi người đọc hiểu rõ hơn về loài trâu.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 11
“Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay”
Từ xưa đến nay, loài trâu đã gắn với bó với người nông dân Việt Nam trong lao động và trong cuộc sống.
Trâu thuộc thuộc họ Trâu bò, phân bộ Nhai lại, nhóm Sừng rỗng, bộ Guốc chẵn, lớp thú có vú. Chúng thường sống hoang dã ở Nam Á, Đông Nam Á và miền bắc nước Úc. Ở Việt Nam, chúng thường được nuôi với số lượng rất lớn.
Trâu ở Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Bộ lông của chúng có màu xám hoặc xám đen. Thân hình của chúng to khỏe và vạm vỡ. Đặc điểm bên ngoài của chúng: Bụng to, mông dóc, đuôi dài thường xuyên phe phẩy. Bầu vú nhỏ và đặc biệt là đôi sừng hình lưỡi liềm cứng và nhọn có thể trở thành một loại vũ khí tự vệ cho chúng khi gặp phải kẻ thù.
Nếu phân loại theo màu sắc lông, chúng gồm hai loại: trâu đen và trâu trắng. Trâu trắng là loại trâu có lông màu trắng ngà. Đối với nhiều người, trâu trắng mang lại may mắn cho gia chủ. Nhưng loại trâu này khá hiếm ở Việt Nam, mà chủ yếu là trâu đen. Trâu đen thì có bộ lông màu đen xám, chiếm số lượng áp đảo hơn cả.
Trâu có tập tính vô cùng nổi bật. Chúng sống theo bầy đàn. Và tập tính nhai lại khi ăn, thức ăn được đưa vào dạ cỏ và dạ tổ ong, phần thức ăn không tan được đưa lại khoang miệng để trâu nhai lại, phần tan vào các dạ lá sách, dạ túi khế để tiêu hóa. Điều này tuy mất nhiều thời gian, nhưng đó là lý do vì sao chúng không bị cảm thấy nhanh đói.
Trâu hằng năm đều để từ hai đến ba lứa. Con trâu chào đời được gọi là nghé. Chúng chưa có sừng và thường nặng từ 22 – 25 kg. Một con nghé trưởng thành khá nhanh. Khoảng hai tuần thì biết đi và từ hai đến ba tháng thì có thể phát triển thành một con trâu trưởng thành. Các bộ phận khác cũng dần hoàn thiện trong quá trình phát triển thành một con trâu trưởng thành.
Loài nào cũng có những đặc điểm riêng, loài râu cũng vậy. Mỗi con trâu có thân hình chắc nịch, khỏe khoắn, bộ lông có hai loại màu trắng ngà hoặc xám đen với các sợi lông ngắn tũn. Da của chúng rất dày và cứng cáp. Mùa đông chúng không cảm thấy lạnh giá. Loài trâu có bốn chân ngắn với bộ guốc chẵn. Đuôi dài, linh hoạt và thường ve vẩy để đuổi ruồi, muỗi chứ không chịu nằm yên một chỗ. Phần đầu trâu có hai cặp sừng. Cặp sừng này của một con trâu trưởng thành có thể rất dài. Thức ăn chủ yếu của chúng là rơm hoặc cỏ.
Đối với người nông dân, chúng tôi là những trợ thủ đắc lực. Trâu cung cấp sức kéo, giúp họ nhiều công việc vào mỗi ngày trên những cánh đồng rộng lớn. Trong đời sống tinh thần của con người. Trâu thuộc một trong 12 con giáp – đơn vị để tính năm hay tính tuổi tác. trâu cũng là biểu tượng cho nền nông nghiệp lúa nước. Cũng như gắn với cơ nghiệp của người nông dân. Vì vậy mới bảo tậu trâu là một việc thật khó khăn và quan trọng.
Tóm lại, đối với con người Việt Nam, trâu là một loài vô cùng quan trọng trong đời sống vật chất cũng như tinh thần.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 12
Gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước Việt Nam, không thể không nói đến hình ảnh con trâu cùng người nông dân cày cấy ngoài đồng buổi trưa hè. Có thể nói trâu là loài động vật lành tính, mang lại nhiều giá trị cho nhà nông.
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng được thuần hóa sau hàng ngàn năm, thuộc nhóm trâu đầm lầy, phân bộ Nhai Lại, bộ Guốc Chẵn, họ Bò. Trong những câu truyện dân gian, nguồn gốc trâu được kể lại mang màu sắc kỳ ảo, rằng trâu từng là một vị thần trên trời có tính lười biếng , hậu đậu, khi được phái xuống trời gieo hạt giống vô tình gieo cỏ dại khiến chúng phát triển, các cây giống bị hút mất dinh dưỡng từ đất gây ra nạn đói cho nhân gian, vì thế vị thần đấy chịu phạt biến thành trâu để mang lại mùa màng cho người dân.
Tại Việt Nam, loài trâu phổ biến với hai loại chính: trâu trắng và trâu đen, được phân loại dựa trên màu sắc của lông. Trâu trắng là loại trâu có lông màu trắng ngà, thường những con trâu trắng được gọi là động vật mang lại may mắn. Trâu đen có số lượng áp đảo hơn cả so với trâu trắng, phân bố rộng suốt dải đất hình chữ S.
Đi sâu về tập tính và đặc điểm của trâu, trâu có tập tính nhai lại khi ăn, thức ăn được đưa vào dạ cỏ và dạ tổ ong, phần thức ăn không tan được đưa lại khoang miệng để trâu nhai lại, phần tan vào các dạ lá sách, dạ túi khế để tiêu hóa. Không chỉ vậy, trâu có tập tính sống bầy đàn cao, chúng thích sống tại các vùng đầm lầy, bùn lầy. Mỗi năm trâu đẻ hai lứa, mỗi lứa một con, trâu mới sinh được gọi là nghé, chưa có sừng, nghé trưởng thành khá nhanh khi khoảng hai tuần biết đi, khoảng 2 – 3 tháng thì trở thành trâu trưởng thành và dần hoàn thiện các bộ phận khác.
Về đặc điểm, trâu có thân hình chắc nịch, khỏe khoắn, bộ lông có hai loại màu trắng ngà hoặc xám đen với các sợi lông ngắn tũn, da trâu dày và cứng cáp, mùa đông ấm áp. Trâu có 4 chân ngắn với bộ guốc chẵn nhưng với những con trâu chọi sở hữu tốc độ khá nhanh. Đuôi trâu dài, linh hoạt, ve vẩy đuổi ruồi, muỗi. Phần đầu trâu, hai cặp sừng dài phát triển, đầu sừng khá nhọn, hai đôi mắt tròn như hai viên pha lê đen, trong khoang miệng không có hàm trên. Hầu hết trâu đực có phần minh to hơn trâu cái, sức kéo cùng thịt trâu dai và chắc hơn trâu cái. Trâu cái có thể tiết sữa nhưng sữa trâu chứa rất ít dinh dưỡng.
Sở hữu những ưu điểm như vậy, trâu mang lại nhiều giá trị to lớn cho người nông dân nói chung và nền nông nghiệp lúa nước Việt Nam nói riêng. Đối với giá trị sử dụng, trâu cung cấp sức kéo, kéo xe, kéo cày cho người nông dân ngoài đồng. Thịt trâu còn là một loại đặc sản mang lại nguồn lợi kinh tế cho người nuôi thịt. Da trâu còn dùng làm da các loại túi, ví, thời trang. Với giá trị tinh thần, trâu là người bạn đồng hành, gần gũi, thân thuộc với người nông dân, cùng họ trải qua khó khăn vất vả suốt bao mùa màng, vụ lúa. Một số nơi không chỉ Việt Nam tổ chức các lễ chọi trâu như lễ chọi trâu Đồ Sơn Thanh Hóa được coi là một nét văn hóa không thể thiếu của người dân bản địa, những con trâu chọi thắng được thịt và bán lấy may mắn cho năm mới. Đặc biệt, trâu từng là linh vật trong đại hội thể thao Đông Nam Á tổ chức tại Việt Nam.
Có thể thấy, trâu quả thực là người bạn của nhà nông, mang lại nhiều giá trị, nguồn lợi to lớn cho người nông dân và đóng góp lớn cho nền nông nghiệp lúa nước Việt Nam. Mặc dù xã hội ngày càng hiện đại hóa, ưu tiên phát triển công nghiệp và dịch vụ nhưng hình ảnh trâu cày kéo luôn là biểu tượng đặc trưng khi nhắc đến nền công nghiệp lúa nước Việt Nam.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 13
Đến với mỗi làng quê Việt Nam là ta không thể không nhắc đến hình ảnh con trâu là biểu tượng rất gần gũi, thân thiết. Trâu là biểu tượng cho sự cần cù, chăm chỉ, chất phác của con người Việt.
Trâu là động vật nhai lại, thuộc họ bò, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn thuộc lớp thú có vú, loại động vật này được dùng phổ biến. Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần chủng thuộc nhóm trâu đầm lầy, lông màu đen, thân hình vạm vỡ, bụng to khỏe. Con trâu có cân nặng rất nặng. Nếu trâu cái trung bình từ 350- 450 kg thì linh hoạt và hiền lành thì trâu đực nặng từ 400-450kg có tầm vóc lớn, cân đối, dài đòn trước cao sau thấp. Trâu đực đầu dài và to, trâu cái đầu thanh và dài, da mặt trâu khô, nổi rõ các mạch máu, trán rộng phẳng hoặc hơi gồ. Mắt trâu to, tròn, lông mi dài, mí mắt mỏng, mũi trâu to, màu đen lúc nào cũng bóng ướt, lỗ mũi to, có thể xỏ dây thừng qua để dắt đi dắt lại cho thuận tiện. Mồm trâu rộng, có răng đều, khít, không sứt mẻ, tai trâu to và phía trong có nhiều lông.
Sừng trâu cưng cứng, có những con nghé con thì sừng nhỏ hơn và không cứng bằng trâu mẹ. Cổ trâu dài, ức sâu rộng. Lưng trâu dài, thẳng nhưng lúc nào cũng có con hơi cong. Các xương sườn to, tròn, cong đều. Mông trâu to, mông đốc, rộng, tròn, chắc. Trâu có bốn chân thẳng, to gân guốc, vững chãi. Bàn chân thẳng, tròn trịa, vừa ngắn vừa to, các móng khít, tròn, đen bóng, chắc chắn. Chân đi không chạm khoeo, không quẹt móng, hai chân sau đi đúng dấu bàn chân trước nhưng hơi chồm về phía trước. Đầu trâu thon, dài chừng 60- 70cm, phần cuối đuôi có lông dài lúc nào cũng ngoe nguẩy như để đuổi ruồi muỗi. Da trâu mỏng và bóng loáng, lông đen mướt thưa cứng và xát vào da. Trâu 3 tuổi có thể đẻ lứa đầu. Một đời trâu có thể đẻ từ 5-6 nghé. Nghé sơ sinh nặng khoảng 20- 25 kg. Đôi răng cửa giữa cố định bắt đầu mọc lúc ba tuổi và trâu kết thúc sinh trưởng khi 6 tuổi và có 8 răng cửa. Ở Việt Nam có hai loại trâu chính là trâu rừng và trâu nhà. Trâu rừng là loại mãnh thú, dữ vì nó chưa được thuần hóa. Con trâu nhà qua sự chăm sóc và thuần phục nên nó trở nên rất hiền lành và gắn bó thân thiết với con người. Trâu có ưu điểm hơn bò là khi trời nắng thì con trâu có thể đằm xuống nước để cho mát và đỡ nắng còn bò thì không.
Trâu rất khỏe, siêng năng, cần cù kéo cày giúp người nông dân từ sáng sớm đến tối khuya. Trâu chẳng bề hà trước . Chính vì thế mà người nông dân xưa coi con trâu là đầu cơ nghiệp. Bên cạnh đó, thịt trâu được dùng để chế biến các món ăn rất ngon: thịt trâu xào rau muống, thịt trâu gác bếp. Con trâu có vị trí to lớn trong đời sống tinh thần của con người Việt. Người nông dân xưa coi con trâu như là người bạn thân thiết:
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công”.
Hình ảnh con trâu đi trước, cái cày đi sau đã trở thành hình ảnh gần gũi. Chăn trâu thả diều cũng là thú vui của những chú bé mục đồng. Trâu cũng có khi rời đồng ruộng đi dự lễ hội, hay tục đâm trâu ở Tây Nguyên được tổ chức hàng năm để biểu dương cho sức mạnh của giống vật nuôi này. Con trâu được xem như là con vật linh thiêng bởi nó nằm trong 12 con giáp mà người phương Đông dùng để tính tuổi hay trâu còn gắn bó với kí ức tuổi thơ.
Để trâu có sức khỏe tốt cần có cách nuôi và chăm sóc khoa học. Trâu dễ nuôi, hay ăn chóng lớn. Hằng ngày cho trâu ăn đủ ba bữa, uống nước sạch đầy đủ. Sau Khi đi làm về cho trâu nghỉ ngơi, tắm rửa khoảng 30 phút sau cho trâu uống nước muối rồi mới cho ăn. Trong thời gian làm việc nếu thấy trâu có dấu hiệu mệt, sức khỏe giảm sút thì nên cho trâu nghỉ từ 4-5 ngày, bồi dưỡng bằng cỏ tươi, cám, cháo.Ngày nay có nhiều thiết bị, máy móc hiện đại ra đời, dần thay thế trâu. Nhưng con trâu vẫn mãi là biểu tượng cho người dân và vẫn xuất hiện trong các lễ hội đầu năm. Nhiều người đi xa nhớ về quê hương là nhớ về hình ảnh con trâu.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 14
Tuổi thơ tôi được lớn lên trong tiếng hát à ơi của bà, của mẹ. Những câu hát ru ngọt ngào ấy chứa tất cả hình ảnh thân thuộc của quê hương, đó là những cánh cò bay lả, những ruộng đồng bao la hay những con trâu chăm chỉ đều được kết thành lời hát ngọt ngào, đầy yêu thương. Nhưng để lại trong tôi nhiều cảm xúc nhất có lẽ là hình ảnh về con trâu – hình ảnh thân thuộc của mỗi làng quê Việt Nam.
Trâu không phải là loài động vật xa lạ với mỗi người nông dân. Trâu có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc giống trâu đầm lầy. Khoảng 5000 – 6000 năm trước, trâu được thuần hóa cùng với sự ra đời của nền văn minh lúa nước. Ông cha ta từ xa xưa đã biết săn bắt trâu và thuần hóa chúng để phục vụ cho công việc cày cấy cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Con trâu là động vật ở nhóm Thú có vú vì nó nuôi con bằng sữa mẹ. Và đây là loài động vật thuộc nhóm nhai lại, sức nhai của trâu rất bền. Khi có thời gian ăn, trâu thường ăn rất nhanh, qua loa để tích trữ được nhiều cho những khi phải làm việc liên miên. Vì vậy, trâu có thể làm việc cả ngày mà không cần nghỉ ngơi.
Những chú trâu đều sở hữu một thân hình vô cùng vạm vỡ. Trâu thuộc lớp thú có vú nên được sẽ có hai loại là trâu đực và trâu cái. Trâu đực thường to và cao hơn trâu cái, sừng to và dày hơn, đôi chân chắc nịch và chạy rất nhanh. Cân nặng trung bình của mỗi con trâu đực từ 400- 450 kg và trâu cái là từ 350- 400 kg. Da trâu có màu đen, dày, dai và bóng loáng, phía bên ngoài sẽ được phủ lên một lớp lông mao màu đen nên có cảm giác rất mượt. Hai cái tai trâu to như hai cái quạt mo lúc nào cũng ve vẩy để đuổi ruồi. Trai trâu rất thính, giúp nó nghe rõ mọi hoạt động xung quanh. Miệng nó rất rộng, mũi to và thường ẩm ướt để người nông dân luồn dây qua mũi kéo đi cho dễ dàng, mắt to tròn như hai hòn bi ve.
Vì trâu thuộc nhóm động vật nhai lại nên miệng nó chỉ có hàm răng dưới mà không có hàm răng trên. Và việc trâu chỉ có một hàm cũng được dân gian lý giải qua câu chuyện hài “ Trí khôn của ta đây”. Trâu có cặp sừng dài và cong hình lưỡi liềm trông rất chắc chắn giúp nó tự vệ khi gặp kẻ thù. Trâu có 4 chân rất chắc, ngắn, to. Hai chân trước cách xa nhau, thẳng còn hai đùi sau to dài. Đuôi trâu ngắn và có một túm lông ở cuối đuôi. Đôi lúc nhìn con trâu rất nặng nề bởi nó phải mang một cái bụng rất to được chống đỡ bởi bốn chân. Chắc bởi vậy nên chân nó phải rất khỏe mới đỡ được cả thân hình vạm vỡ ấy. Mỗi năm trâu chỉ đẻ từ 1-2 lứa, mỗi lứa một con. Trâu con mới sinh ra sẽ được gọi là nghé.
Xuất phát từ nền văn minh lúa nước nên hình ảnh con trâu gắn liền với người nông dân lam lũ trên cánh đồng không quản ngại nắng mưa. Công việc đồng áng vất vả, nặng nhọc nhưng người nông dân luôn có một “ người bạn cần mẫn” bên cạnh giúp đỡ, chăm chỉ cùng làm việc. Dù mưa hay nắng, ngày hay đêm thì những chú trâu vẫn cày cấy cùng người nông dân đem lại sự ấm no cho cuộc sống của người dân. Bên cạnh công việc cày cấy thì người ta còn dùng trâu làm sức kéo để kéo gỗ, chở đồ. Trâu còn được dùng là thực phẩm hàng ngày phục vụ nhu cầu ẩm thực của mọi người. Thịt trâu dai, thơm và có hàm lượng đạm trong thịt cao.
Trâu là người bạn cũng là tài sản đem lại thu nhập cao cho người dân. Ông cha ta có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp” điều đó chứng tỏ được vai trò to lớn của trâu, ngày xưa hầu như mỗi gia đình đều sở hữu một con trâu. Không chỉ bắt gặp hình ảnh những con trâu chăm chỉ bên người nông dân mà chúng ta còn biết trâu còn gắn liền với tuổi thơ của những đứa trẻ nông thôn. Những buổi chiều chăn trâu thả diều hay ngồi vắt vẻo trên lưng trâu nằm đọc sách, thổi sáo sẽ luôn là kỉ niệm in sâu trong kí ức của tuổi thơ. Ngoài ra, trâu còn xuất hiện ở trong các lễ hội truyền thống như hội chọi trâu Hải Phòng, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn với những ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Qua lễ hội người ta muốn tưởng nhớ đến công ơn các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã và cầu nguyện cho một năm ấm no, bình yên, hạnh phúc.
Ngày nay, tuy có nhiều máy móc, công cụ hiện đại ra đời làm việc công suất hơn nhưng không thể thay thế được hình ảnh của những con trâu vạm vỡ trong lòng người dân Việt Nam. Trâu không chỉ mang lại giá trị vật chất mà còn là đời sống tinh thần của người nông dân. Đồng thời, hình ảnh của con trâu còn là biểu tượng cho những đức tính cao đẹp của con người Việt Nam: cần cù, chịu khó, hiền lành, chất phác. Chúng ta chăm sóc và bảo vệ trâu chính là giữ gìn biểu tượng văn hóa truyền thống cao đẹp của người Việt.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 15
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”
Nước ta vốn là quốc gia có nền văn minh lúa nước lâu đời. Chính vì thế, từ rất lâu trước kia, con trâu đã trở thành người bạn thân thiết, quen thuộc trong cuộc sống của nhân dân ta.
Trâu có nguồn gốc từ trâu rừng, nhiều thế kỉ sau được thuần hóa, trở nên hiền lành hơn. Trâu nước ta thuộc nhóm trâu đầm lầy, phân bố rộng rãi khắp cả nước. Trâu gắn liền với sự ra đời của nền văn minh lúa nước. Người Việt cổ không những biết săn trâu mà còn thuần hóa nó, sử dụng sức khỏe của chúng trong việc đồng áng.
Trâu thuộc lớp thú có vú, chia thành trâu đực và trâu cái. Chúng sở hữu một thân hình vô cùng vạm vỡ. Cân nặng trung bình của trâu cái là từ 350-400 kg thì trâu đực nặng từ 400-450kg. Da nó màu đen, dày, bóng loáng và được phủ bởi một lớp lông mềm bên ngoài gọi là lông mao nên có cảm giác rất mượt mà. Hai cái tai trâu to như hai cái lá đa, lúc nào cũng ve vẩy đuổi ruồi. Tai trâu rất thính, giúp nó nghe rõ mọi động tĩnh xung quanh. Mũi trâu to, miệng trâu rộng, sừng có hình lưỡi liềm. Mắt trâu to tròn như hai hòn bi ve. Giống như bò, trâu thuộc nhóm động vật nhai lại, miệng chỉ có hàm răng dưới. Đuôi trâu ngắn, có một túm lông ở cuối lúc nào cũng phe phẩy. Cái bụng nó rất to chống đỡ bởi bốn chân. Hai chân trước cách xa nhau, thẳng. Bàn chân ngắn, vừa phải. Hai đùi sau to dài, bàn chân sau xuôi, ngắn. Bốn móng rất cứng, khít tròn, đen bóng và chắc chắn. Mỗi năm trâu chỉ đẻ từ 1 đến 2 lứa, mỗi lứa một con, Trâu con mới sinh ra gọi là nghé.
Trâu trong đời sống con người có giá trị rất lớn. Trâu là người bạn thân thiết của nhà nông, quanh năm suốt tháng trâu vất vả quần quật cùng con người, kéo cày, kéo bừa,… “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, khi khoa học còn chưa phát triển, trâu chính là cơ nghiệp của mỗi nhà nông. Người nông dân khi ấy nếu thiếu đi con trâu thì sẽ không thể cấy cày, trồng lúa. Dù ngày nắng hay ngày mưa, chỉ cần người cần đến, trâu sẵn sàng cùng con người cày cấy thửa ruộng, đem lại sự no ấm cho cả gia đình.
Đồng thời, trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu cung cấp chất đạm, chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu có thể làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và,..
Trong đời sống tinh thần, trâu là một trong 12 con giáp, gọi là “sửu”. Con trâu trở thành con vật gắn liền với tuổi tác của con người. Người mang tuổi trâu thường chăm chỉ cần cù. Trâu là con vật thiêng liêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ cơm mới, lễ xuống đồng. Trâu đi vào ca dao, tục ngữ, trở thành hình tượng trong thơ ca, phản ánh lịch sử phát triển của nền văn minh lúa nước quê hương.
Chọi trâu là một trong những lễ hội nổi tiếng ở nước ta mỗi dịp xuân về, đặc biệt là lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Trong những năm gần đây, chú trâu đã vượt ra khỏi lũy tre làng, tham gia vào các hoạt động văn hóa thể thao. Hình ảnh “trâu vàng” trong SEA GAMES 22 chính là niềm tự hào của đất nước ta trước bạn bè thế giới. Con trâu đã trở thành biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Hình ảnh những chú bé vắt vẻo trên lưng trâu đã trở thành một biểu tượng của làng quê Việt Nam. Trâu trở thành một phần tuổi thơ của biết bao người cùng tiếng sáo diều du dương.
Năm tháng qua đi, dù trong cuộc sống hiện đại ngày nay, rất nhiều loại máy móc đã xuất hiện thay thế vai trò của trâu trong lao động nhưng con trâu mãi là loài vật gắn bó với con người Việt Nam. Trâu trở thành một nét đẹp văn hóa, mang bản sắc dân tộc, là niềm tự hào của nhân dân ta. Để rồi bao năm trôi đi chăng nữa, người ta mãi ngân nga:
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.”
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 16
Từ xưa đến nay, ai ai cũng quen với hình ảnh của con trâu, đặc biệt là với những người ở nông thôn Việt Nam. Nó gắn bó rất sâu sắc từ thế hệ trước rồi đến thế hệ sau. Nó là người bạn của nhà nông, người bạn của những đứa trẻ, là con vật thân thuộc của mọi gia đình ở nông thôn Việt Nam.
Trâu ơi ta bảo trâu này!
Trâu ra đồng ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Trâu đây, ta đấy, ai mà quản công.
Hình ảnh của con trâu đã được đưa vào cả ca dao. Để khắc hoạ hình ảnh con trâu rất gần gũi thân thuộc với chúng ta, với lời lẽ thiết tha, ân cần con người đã gọi trâu như một người bạn chứ không còn coi trâu như là loài vật nữa. Khoảng cách giữa người và loài vật bây giờ rất gần vì trâu là bạn của nhà nông chúng ta. Nó đã dùng sức lực của mình để giúp con người làm ra lúa gạo nuôi sống con người. Từ xa xưa khi không có công cụ để cày ruộng thì trâu đã giúp con người đó là làm công cụ để cày, để gieo hạt trồng cây. Ca dao nói Con trâu là đầu cơ nghiệp chứng tỏ tầm quan trọng của nó với con người. Trong thời kì khó khăn nông thôn Việt Nam đã có lệ là nhìn thấy nhà nào có bao nhiêu trâu thì sẽ biết được nhà ấy khá giả hay nghèo nàn.
Trong truyện ngắn Lão Am, trâu không những có một vị trí quan trọng trong công việc mà còn có một vị trí quan trọng trong lòng lão. Lão cưỡi trâu như người bạn đời của lão; lão chăm sóc, tắm rửa, bắt rận cho nó, tâm sự với nó khi con lão bảo bán thì lão rất đau khổ, cảm thấy lòng trĩu nặng, buồn bã. Như vậy hình ảnh của con trâu còn có vị trí quan trọng trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Có thể nói bây giờ và mãi mãi sau này người nông dân của chúng ta sẽ nhớ tới công sức của trâu với con người. Bên cạnh đó, trâu còn cho ta những đồ vật quý giá như hàng tiêu dùng, thủ công mĩ nghệ… Vậy nên trâu không chỉ là một phần quan trọng của nhà nông mà còn là một phần quan trọng trong đời sống của tất cả mọi người.
Trâu đã gắn bó với người dân để giúp cày ruộng nhưng nó còn gắn bó với cả những đứa trẻ chăn trâu thời tuổi thơ của chúng. Tuy cuộc sống của tôi ở thành phố nhưng đến dịp hè vào năm tôi lên bảy, bố đã cho tôi về thăm quê nội. Khi đó, hình ảnh mọi thứ trong tôi vẫn còn mờ nhạt nhưng chỉ hình ảnh của chú trâu là làm tôi nhớ mãi. Đó là, chiều chiều khi đã tắt nắng, những đứa trẻ trong làng lần lượt dắt trâu ra bãi cỏ cuối làng để cho chúng ăn. Những con trâu to lớn từng hàng từng hàng thong thả gặm cỏ. Trông chúng ăn thật ngon lành; những bãi cỏ xanh mượt được dành cho riêng mình, chúng có vẻ rất khoái chí. Còn bọn trẻ chăn trâu thì ngồi trên lưng chúng thổi sáo, sáo véo von như làm bản nhạc để trâu gặm cỏ. Thật là hay! Những bờ đê, bãi cỏ đã in dấu chân của bọn trẻ cũng như dấu chân của những chú trâu. Mỗi khi chiều về tôi thường ra bờ đê để chơi cùng chúng.
Có khi chúng tôi còn đánh trận giả, trâu tuy là một con vật nhưng nó luôn sát cánh trong những buổi chơi của bọn chăn trâu. Khi thấy trâu luôn là người bạn thân thiết của bọn trẻ con chúng tôi thì tôi chợt ao ước giá như trâu mãi mãi được ở bên cạnh tôi. Rồi có những buổi, khi trời đã tắt nắng lũ trẻ chúng tôi đã nhảy xuống sông tắm cùng trâu. Những lúc ấy người bạn trâu của chúng tôi tỏ vẻ rất thích thú, vẫy vùng cả một đoạn sông; ánh mắt của trâu lúc ấy như muốn nói lời cảm ơn với chúng tôi vậy. Kết thúc ngày hè, khi về tới nhà, tôi đã ghi lại những ngày vui vẻ với những tiếng cười giòn giã ấy vào trang nhật kí của tôi.
Qua tìm hiểu, tôi được biết trâu không những thân thiết với tuổi thơ chúng tôi mà còn có trong những phong tục tập quán, những lễ hội của người Việt. Khi có những ngày hội cha ông ta đã giết trâu để ăn mừng hoặc tạ ơn thần linh đã ban cho vụ mùa bội thu. Vào những ngày hè đẹp trời, ở làng tôi còn tổ chức hội chọi trâu. Không khí tưng bừng của hội thi đã giúp cho con người sảng khoái sau những ngày mùa vất vả. Tuy không được sống và gắn bó với trâu nhiều nhưng tôi vẫn cảm thấy trâu rất có ý nghĩa và thân thiết với tôi và với mọi nhà. Trâu là một người bạn đem lại cho con người biết bao nhiêu niềm vui, bổ ích, những tiếng cười sảng khoái trong tuổi thơ êm đềm của tôi. Qua đây tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới trâu ở làng quê Việt Nam.
Tôi đã có những ngày được vui chơi cùng với trâu. Tôi nhận nó đã mang cho con người biết bao điều bổ ích về cả đời sống vật chất và tinh thần, bởi vậy mỗi chúng ta cần biết yêu thương và chăm sóc nó một cách trân trọng nhất.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 17
Khắp các làng quê Việt Nam trong mỗi vụ mùa chúng ta lại thấy bóng dáng của những chú trâu chăm chỉ làm việc trên những cánh đồng. Những con trâu đã giúp cho công việc cấy cày ở mỗi vụ mùa của các bác nông dân được dễ dàng hơn. Trâu không chỉ gánh vác một phần không nhỏ vào việc đồng áng mà trâu còn đem lại rất nhiều lợi ích về mặt vật chất và tinh thần cho người nông dân ở các làng quê Việt Nam.
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hoá thuộc nhóm trâu đầm lầy. Lông màu xám đen, thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn, bụng to, bầu vú nhỏ, sừng hình lưỡi liềm. Có hai đai màu trắng dưới cổ và chỗ đầu xương ức. Trâu cái nặng trung bình 350 – 400 kg (300 – 600kg) trâu đực: 400 – 450kg (350 – 700kg)…. Vậy vị trí và vai trò của con trâu đã được coi là thứ hàng đầu của cơ nghiệp, hồi đó người ta chỉ cần xem nhà nào có nhiều trâu hay ít trâu là đủ để biết được gia cảnh của họ như thế nào. Đến tận bây giờ con trâu cũng vẫn được coi là thứ quý giá của người nông dân. Nó đem lại nhiều lợi ích về mặt vật chất.
Chúng sinh trưởng rất nhanh, trâu 3 tuổi có thể đẻ lứa đầu. Trong đàn trâu cái, trâu 4 tuổi đẻ lứa đầu chiếm 45 – 47%. Trâu đẻ có mùa vụ. Tỉ lệ đẻ hằng năm ở vùng núi là 40 – 45%, ở đồng bằng là 20 – 25%. Một đời trâu cái thường cho 5-6 nghé, nghé sơ sinh nặng 22 – 25kg. Đôi răng cửa giữa cố định bắt đầu mọc lúc 3 tuổi và trâu kết thúc sinh trưởng khi hết 6 tuổi (8 răng cửa). Do trâu sinh trưởng nhanh và nhiều nên đem lại một phần lợi về kinh tế không nhỏ cho người nông dân. Một con trâu trưởng thành khoảng 4-5 triệu đồng.
Trâu không chỉ để bán mà nó còn được nuôi để kéo cày: lực kéo trung bình trên ruộng 70 – 75 kg bằng 0,36 – 0,40 mã lực. Trâu loại A một ngày cày 3-4 sào; loại B: 2 – 3 sào và loại C: 1,5 – 2 sào bắc bộ, kéo xe ở đường xấu tải trọng 400 – 500kg, đường đồi núi thường một trâu kéo 0,5 – l,3m3 với đoạn đường 3 – 5km. Bởi trâu có sức mạnh và rất chăm chỉ nên dùng trâu để chở hàng và chở gỗ cùng đem lại rất nhiều nguồn lợi về kinh tế. Trâu còn có khả năng cho thịt rất cao: trâu cái có tỉ lệ xẻ thịt là 42%. Trâu thiến là 45% và trâu đực 2 tuổi là 48%. Khả năng cho sữa 400 – 500 lít sữa trong một chu kỳ vắt. Mỡ sữa 9 – 10%. Đem bán thịt trâu cũng giúp cho người nông dân một khoản thu lớn. Người nông dân thường trồng xen cả những cây ăn quả, thức bón tốt nhất cho cây là phân ủ xanh. Trâu có khả năng cho phân cao: trong 24 giờ trâu 2 răng thải ra 10kg phân, trâu 4 răng 12kg và trâu trưởng thành 20 – 25kg. Chính vì khả năng cho phân cao như vậy nên người nông dân không phải mua phân bón và tiết kiệm được một số tiền không nhỏ. Trâu còn dùng cung cấp nguyên liệu làm đồ mĩ nghệ, thuộc da làm trống…
Con trâu gắn bó với đời sống tinh thần của người nông dân như thế nào? Ai đã từng sống ở nông thôn đều đã từng gắn bó một phần tuổi thơ của mình với những cánh đồng lộng gió, với những cánh diều cao vút và đặc biệt là với những con trâu. Tôi tuy là người sống ở thị xã nhưng mỗi khi về quê vừa đến đầu làng đi ngang qua cánh đồng tôi đã thấy những tiếng cười đùa vui vẻ của những đứa trẻ trong làng. Chúng tụ tập thành một hội cùng cưỡi trâu thả diều, những cánh diều bay lên tận trời cao. Tuy cuộc sống của bọn trẻ có khó khăn nhưng nhờ những con trâu cánh đồng và những con diều cũng đủ làm chúng rất đỗi vui vẻ. Tuy cuộc sống của tôi có ổn định hơn những bạn trẻ ở làng quê nhưng hiếm khi tôi có được những giây phút vui vẻ đến như vậy. Cả tuổi thơ của trẻ em nông thôn gắn liền với những tình cảm yêu quý, gắn bó với những con trâu.
Không chỉ có gắn bó với tuổi thơ của trẻ em mà chúng còn không thể thiếu trong các lễ hội như lễ hội chọi trâu Đồ Sơn… Các làng quê vẫn còn những phong tục tập quán gắn với con trâu, ở các dân tộc miền núi vẫn còn phong tục đua trâu. Người và trâu chiến thắng sẽ được chức vô địch. Trâu rất vinh dự được làm biểu tượng cho SEA GAMES 22 tổ chức tại Việt Nam là ngày hội thể thao lớn của khu vực.
Con trâu gắn bó với người nông dân Việt Nam với các làng quê. Bấy nhiêu đã đủ để mọi người hiểu được tầm quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân Việt Nam của con trâu. Nó xứng đáng là biểu tượng tượng trưng cho làng quê Việt Nam và là niềm tự hào của một Việt Nam cường tráng.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 18
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”
Câu ca dao đã trở thành một lời ru quen thuộc, đi vào tiềm thức mỗi chúng ta từ ngày tấm bé. Hình ảnh gắn bó giữa người và trâu cũng từ đó mà mặc định không biến đổi. Đối với truyền thống nền văn minh lúa nước của nước ta, hình ảnh con trâu sớm đã trở thành biểu tượng của người nông dân Việt Nam.
Trâu có hai loại: trâu đực và trâu cái và là động vật nhai lại. Một đặc điểm khá dễ nhận ra của trâu, đó là nó không có hàm răng trên. Tấm thân của trâu rất chắc chắn, thân hình vạm vỡ nhưng thấp. Bụng to. Da của nó màu đen, rất dai nhưng được phủ bởi một lớp lông mềm bên ngoài nên có cảm giác rất mượt mà. Mũi trâu lớn, miệng trâu rộng, sừng có hình lưỡi liềm. Cân nặng trung bình của trâu cái là từ 350-400 kg thì trâu đực nặng từ 400-450kg. Bước đi của trâu chậm chạp nhưng chắc chắn. Cái đuôi luôn phe phẩy mọi lúc như để đánh động những chú ruồi không mời mà tới. Vì thưởng làm việc liên tục trên ruộng nên trâu có thói quen ợ lên nhai lại. Khi chúng có thời gian ăn cỏ, trâu thường nhai qua loa để tích trữ nhiều thức ăn càng tốt cho những khi phải làm việc liên miên. Đó là lí do trâu có thể làm cả ngày mà không cần dừng lại nghỉ.
Với một ngoại hình như vậy, trâu là loài động vật rất khỏe và chịu khó. Xuất phát từ nền văn minh lúa nước, mảnh ruộng cày đã gắn chặt với đời sống bao nhiêu năm lao động của người dân Việt Nam. Công việc đồng áng vất vả kia tuy nặng nhọc, một nắng hai sương, vất vả vô cùng nhưng những người nông dân luôn có “người bạn cần mẫn” của mình là chú trâu luôn bên cạnh giúp đỡ, chăm chỉ cùng làm lụng. Dù ngày nắng hay ngày mưa, dù có gian lao vất vả, chỉ cần người cần đến, trâu sẵn sàng không quản ngại gian lao để cùng con người cày cấy thửa ruộng, đem lại sự no ấm, yên tâm cho cả gia đình. Nên nông dân ta vẫn luôn có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Con trâu thì có cần gì ngoài được con người cho ít ngọn cỏ ngoài đồng cùng một nơi để trú ngụ qua đêm. Đó là những ngày bận rộn với công việc đồng áng, còn những ngày nông nhàn, trâu lại làm bạn với tiếng sáo, với cánh diều mộng mơ của trẻ mục đồng trên những bãi cỏ rộng ngập nắng và gió. Những chú bé vắt vẻo trên lưng trâu đùa nghịch mà tạo nên những kỉ niệm tuổi thơ với cuộc sống làng quê khó quên đến tận những năm tháng về sau.
Là một loài động vật có sức lao động và trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm, chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và, … Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Những chú trâu đã được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo từ lâu để chuẩn bị cho ngày hội hôm ấy. Con nào con nấy cũng vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ rất hùng dũng oai phong chỉ chờ vào sân đấu.
Trong tiếng trống giục giã, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Chắc hẳn mọi người vẫn còn nhớ rõ hình ảnh “trâu vàng” trong SEA GAMES 22, trâu không chỉ là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu đã trở thành biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy marathon, trâu đội nón… rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ hội cơm mới, lễ hội xuống đồng. Tất cả đều chứng tỏ từ xa xưa đến nay, trâu vẫn gắn liền với đời sống của dân tộc trong mọi mặt kể từ cuộc sống đời thường đến lao động, văn hóa, phong tục, đã trở thành một phần không thể thiếu trong bản sắc dân tộc.
Mang những giá trị to lớn về mọi mặt của đời sống nhân dân, con trâu đã trở thành một “nhân vật” không thể thiếu và xứng đáng để con người có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và quý trọng chúng.Cho dù trong cuộc sống hiện đại ngày nay, rất nhiều loại máy móc xuất hiện thay thế vai trò của trâu trong lao động, sản xuất nhưng hình ảnh và ý nghĩa của con trâu luôn là một phần nếp sống tinh thần không thể thiếu của mỗi người nông dân đất Việt.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 19
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Bao đời nay, hình ảnh con trâu đã trở nên gắn bó với người nông dân Việt Nam. Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Thân hình vạm vỡ nhưng thấp và ngắn. Bụng to. Da dày có màu xám đen nhưng vẫn tạo cảm giác mượt mà bởi bên ngoài được phủ một lớp lông mềm. Điều đặc biệt ở trâu mà không thể không nhắc đến đó là trâu thuộc họ nhai lại.
Quanh năm suốt tháng, trâu cùng người chăm lo việc đồng áng vì vậy người nông dân coi trâu như người bạn thân thiết nhất của mình. Trâu to khỏe, vạm vỡ lại chăm chỉ cần cù chịu thương chịu khó nên thường gánh vác những công việc nặng nhọc của nhà nông. Từ sáng sớm tinh mơ. khi mặt trời còn ngái ngủ, trâu đã cùng người ở “trên đồng cạn” rồi lại xuống “dưới đồng sâu”, cho đến khi ông mặt trời mệt mỏi sau một ngày làm việc, chuẩn bị đi ngủ trâu vẫn miệt mài bên luống cày.
Trâu là nguồn cung cấp sức kéo quan trọng. Lực kéo trung bình của trâu trên đồng ruộng là 70 – 75kg, tương đương 0,36 – 0,1 mã lực. Trâu loại A một ngày cày được 3 – 4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 – 3 sào và loại C 1,5 – 2 sào. Trâu còn được dùng để kéo đồ, chở hàng; trên đường xấu tải trọng là 400 – 500kg, đường tốt là 700 – 800kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5m khối gỗ trên quãng đường 3 – 5km. Khỏe như vậy nhưng bữa ăn của trâu rất giản dị, chỉ là rơm hoặc cỏ.
Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mỹ nghệ như lược, tù…
Không chỉ góp phần quan trọng trong đời sống vật chất của người dân, trâu còn có mặt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, trâu hay còn gọi là ngưu, sửu – có mặt trong 12 con giáp. Con trâu trở thành con vật gắn liền với tuổi tác của con người. Người mang tuổi trâu thường là những người chăm chỉ cần cù, thậm chí vất vả. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ hội cơm mới, lễ hội xuống đồng.
Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Những chú trâu được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo. Con nào con nấy vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ chỉ chờ vào sân đấu. Trong tiếng trống giục giã, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Ngoài ra, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu. Đây là phong tục tập quán của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Con trâu bị giết được đem xẻ thịt chia đều cho các gia đình trong buôn làng cùng liên hoan mừng một vụ mùa bội thu.
Hình ảnh con trâu còn in đậm trong kí ức của những đứa trẻ vùng quê. Chắc không ai quên Đinh Bộ Lĩnh, người làm nên kỳ tích thống lĩnh mười hai sứ quân, đã có một tuổi thơ gắn bó với chú trâu trong trò đánh trận giả hay trò đua trâu đầy kịch tính. Chắc mỗi chúng ta đều có lần bắt gặp những hình ảnh rất đặc trưng, rất nên thơ của làng quê Việt Nam, đó là hình ảnh chú bé mục đồng ngồi vắt vẻo trên lưng trâu đọc sách hay hình ảnh chú cũng đang ngồi trên lưng trâu nghiêng nghiêng cái đầu trái đào với cây sáo trúc… Những hình ảnh tuyệt vời đó đã trở thành nguồn cảm hứng cho những nghệ nhân làng tranh Đông Hồ và cũng là nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Trong những năm gần đây, chú trâu đã vượt ra khỏi lũy tre làng, tham gia vào các hoạt động văn hóa thể thao. Với hình ảnh “trâu vàng” trong SEA Games 22. Trâu không còn là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu là biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy marathon, trâu đội nón… rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Ngày nay, nhiều loại máy móc hiện đại đã xuất hiện trên cánh đồng làng Việt Nam nhưng con trâu vẫn là con vật không thể thiếu đối với người nông dân. Hình ảnh con trâu cần cù, chung thủy mãi mãi in sâu trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
Thuyết minh về con Trâu ở làng quê Việt Nam – Mẫu 20
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà kể công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”
Từ xa xưa, trâu đã là người bạn thân thiết, gắn bó với người nông dân. Ông cha ta thường nói: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, đủ hiểu trâu có vị trí như thế nào trong cuộc sống của con người.
Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy, phân bố rộng rãi khắp Việt Nam. Từ hàng ngàn năm trước, trâu đã gắn bó với con người cùng với sự ra đời của nền văn minh lúa nước. Người Việt cổ không những biết săn trâu mà còn thuần hóa trâu, lợi dụng sức khỏe của trâu để phụ giúp trong việc đồng áng.
Trâu là động vật thuộc lớp thú có vú. Thân hình của trâu trông vô cùng vạm vỡ. Lông trâu là lông mao, thường có màu đen. Da trâu rất dày và bóng loáng. Hai cái tai như hai cái lá đa, lúc nào cũng ve vẩy để đuổi ruồi, ngoài ra, tai trâu cũng rất thính, giúp trâu nghe ngóng được những tiếng động xung quanh. Mũi trâu ươn ướt, người ta thường luồn sợi dây vào mũi trâu để kéo đi cho dễ. Mắt trâu to tròn như hai hòn bi ve. Trâu cũng giống như bò, thuộc nhóm động vật nhai lại và chỉ có một hàm răng. Việc trâu chỉ có một hàm răng được người xưa lí giải qua câu chuyện “Trí khôn của ta đây”: vì trâu mải cười con hổ bị người nông dân lừa buộc vào gốc cây nên ngã lăn xuống đất, răng đập vào đã, gãy mất một hàm. Đuôi trâu ngắn, có một túm lông ở cuối. Hai cái sừng trên đầu uốn cong hình lưỡi liềm, giúp trâu tự vệ chống lại sự tấn công của kẻ thù. Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ 1-2 lứa, mỗi lứa một con. Trâu con mới sinh ra gọi là nghé.
Trâu có vị trí quan trọng trong cuộc sống của con người. Ngày trước chưa có máy cày, trâu thường phải làm việc nặng nhọc: “Con trâu đi trước, cái cày theo sau”. Trâu thức dậy từ sáng sớm tinh mơ khi chú gà trống báo thức, cùng người nông dân ra đồng làm việc. Trâu chăm chỉ, cần mẫn cày hết thửa ruộng này đến thửa ruộng khác, bất kể là sáng hay tối, nóng nực hay giá rét. Nhờ có trâu, người nông dân mới có thể thu được một mùa màng bội thu. Đến ngày gặt, trâu lại chở lúa từ ruộng về nhà. Tuy công việc vất cả là vậy nhưng thức ăn của trâu rất giản dị, chỉ là cỏ hoặc rơm. Trâu thường được nuôi để lấy sức kéo, ở miền núi, ngoài công việc đồng ruộng, trâu còn chở hàng hoặc kéo xe, giúp con người vượt qua những con đường trắc trở, những ngọn núi xa xôi. Vì thế, trâu chở thành một gia sản quan trọng của người nông dân. Chẳng phải ca dao đã từng nói: “ Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy, thật khó lắm thay”. Thịt trâu cũng là một loại thức ăn giàu dinh dưỡng vì có hàm lượng đạm khá cao, chất béo thấp. Sừng trâu dùng làm đồ mĩ nghệ, da trâu làm mặt trống, giày. Không chỉ trong đời sống vật chất, trâu còn gắn bó trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Trâu trở thành hình ảnh tượng trưng cho người nông dân hiền lành, chăm chỉ, chịu khó. Ở nước ta hàng năm thường tổ chức lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn. Những chú trâu tham dự cuộc thi thường là những chú trâu to nhất, khỏe nhất, được chủ chăm sóc hết sức kĩ càng. Mỗi chú trâu phải chiến đấu với biết bao với đối thủ khác để đem lại vinh quang cho bản thân cũng như vinh dự cho chủ trâu. Ngoài chọi trâu ở Đồ Sơn, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên. Tuổi thơ của mỗi người cũng đâu thể thiếu hình ảnh con trâu dưới lũy tre làng – những chú trâu góp phần làm nên nét bình yên của làng quê. Nhà thơ Giang Nam từng viết trong bài thơ “Quê hương”:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường,
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ.
Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.”
Nhớ làm sao những buổi chăn trâu trên cánh đồng, cánh diều no gió vút cao trên trời xanh. Nhớ những ngày hè nóng nực, người và trâu cùng hòa mình trong dòng nước mát. Nhớ tiếng thổi sáo của cậu bé mục đồng khi dắt trâu về nhà lúc chiều tối. Trâu không chỉ đi vào ca dao, văn thơ mà còn là biểu tượng của SEAGAMES 22 được tổ chức tại Việt Nam, là hình ảnh tượng trưng cho con người Việt Nam chất phác, hiền lành, đôn hậu.
Để chú trâu được khỏe mạnh, người nông dân cần chú ý làm chuồng cho trâu, ấm vào mùa đông, mát về mùa hè, thường xuyên vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, tiêm vắc-xin phòng ngừa các loại bệnh cho trâu.
Ngày nay, cuộc sống đổi mới, nhiều máy móc hiện đại thay thế cho sức kéo của trâu. Tuy vậy, trâu vẫn là một báu vật quý giá với người nông dân. Mỗi khi nhìn thấy hình ảnh chú trâu trên cánh đồng bao la bát ngát, chúng ta sẽ bất giác nghĩ tới quê hương đầy thanh bình, yêu dấu.
Thuyết minh con trâu Việt Nam có yếu tố miêu tả và biểu cảm
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Câu tục ngữ đã nhấn mạnh vai trò vị trí của con trâu trong đời sống sinh hoạt của người nông dân Việt Nam.
Ở làng quê Việt Nam, thấp thoáng dưới bóng tre xanh là những mái nhà trai với chuồng trâu bên cạnh. Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy, có màu xám đen, thân hình vạm vỡ, sừng to, công như hình lưỡi kiếm.
Con trâu gắn liền với người nông dân như bóng với hình. Trâu cùng người nông dân ra đồng để kéo cày, bừa đất, chở lúa … Dù dưới cái nắng gay gắt chói chang hoặc dưới những cơn mưa tầm tã, trâu vẫn gồng mình kéo chiếc cày cắm sâu xuống đất bùn, để cày xới đất.
Mỗi ngày trâu có thể cày từ hai đến ba sào ruộng. Tiếp công việc cày ruộng là công việc bừa đất. Với chiếc trục bừa dài trên hai mét có gắn những bánh xe răng cưa, trâu sục bùn, xào đất, vùi cỏ tạo cho đất tơi xốp.
Ngoài cày ruộng, bừa đất, sức mạnh của trâu được dùng vào công việc kéo xe, chở lúa vào mùa thu hoạch. Trên đường làng gập ghềnh trâu lầm lùi, chậm chạp kéo xe đẩy lúa về sân phơi.
Ngoài việc tận dụng sức kéo, ở một số nơi hiện nay trâu được nuôi để lấy sữa và lấy thịt. Sữa và thịt trâu là những thực phẩm giàu chất dinh dưỡng. Trâu có thể cho 45% thịt và 400 đến 500 kg sữa trong một chu kỳ vắt. Ngoài thịt và sữa, da trâu, sừng trâu là mặt hàng mà các nhà thủ công mỹ nghệ rất ưa chuộng. Phân trâu giúp bón xanh đồng ruộng, cải tạo đất trồng.
Trâu với người vất vả trên đồng ruộng nên trong các lễ hội ở đình làng cũng không thiếu bóng dáng của con trâu. Ở Hải Phòng có lễ hội chọi trâu. Ngay từ đầu năm, các làng xã phải kén chọn trâu tốt với tiêu chuẩn rất gắt gao: cổ dài, đầu nhỏ, xoáy tròn, lưng nhô, sùng cùng, mắc tròn,…Trước khi thi đấu phải làm lễ trình trâu với đức tôn thần. Lễ chọi trâu ở Hải Phòng được tổ chức hàng năm vào ngày mồng 10 tháng tám âm lịch. Người ta thường nhắc nhau qua câu:
Dù ai buôn đâu bán đâu
Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về
Trâu với người chẳng những gắn bó với nhau trong công việc đồng áng mà còn cả trong cuộc sống từ lúc tuổi còn thơ. Trẻ chăn trâu thường cởi trần trùng trục, da rám nắng, ngồi ngất ngưởng trên lưng trâu trong bộ áo bà ba giản dị trên đồng cỏ xanh là hình ảnh của cuộc sống thanh bình, yên ả ở làng quê Việt Nam từ bao đời nay.
Ở làng quê trâu với người gắn bó với nhau từ tuổi ấu thơ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Trâu mang lại nhiều lợi ích cho con người và thực sự trở thành bạn thân của người nông dân. Hình ảnh con trâu trong đời sống con người có ý nghĩa vừa gần gũi, vừa thiêng liêng, in đậm trong văn hóa và lối sống của con người Việt Nam.
Thuyết minh về hình ảnh con trâu làng quê Việt Nam
“Làm ruộng không trâu, làm giàu không thóc”. Nhân dân ta sử dụng cách nói ấy để đề cao vai trò của trâu trong cuộc sống. Hơn nữa, trâu còn là con vật bình dị, thủy chung, cần cù như người bản tính của con người Việt Nam. Vậy nên, nhắc đến ruộng đồng nước Việt, người ta không thể nhắc đến hình ảnh con trâu làng quê.
Các giống trâu nhà hiện nay đều xuất phát từ trâu hoang dã. Trâu nhà được thuần hóa đầu tiên ở Ấn Độ và Pakistan cách đây 5.000 năm và chúng cũng được thuần hóa tại Trung Quốc khoảng 4000 năm. Người Việt cổ đã sớm thuần hóa trâu, bắt đầu từ hậu thời kỳ đồ đá mới cách đây khoảng 4,5 ngàn năm để giúp nghề trồng lúa nước.
Trâu là một loài động vật thuộc họ Trâu bò (Bovidae), bộ nhai lại, guốc chẵn, nằm trong lớp thú có vú nhóm sừng rỗng. Trâu Việt Nam đa số là trâu rừng thuần hóa, màu xám đen. Ở một số vùng cũng có trâu xám cũng gọi là trâu bạn nhưng không nhiều. Trâu cao trung bình 1,2m; nặng 400-700kg.
Bao phủ cả thân mình trâu là bộ da trơn láng, thường nhơn nhớt bùn đất để giữ cho da luôn ẩm ướt. Sừng trâu rỗng, cong hình lưỡi liềm, màu trắng ngà. Tuy chỉ có tám răng cửa nhưng trâu không gặp khó khăn trong việc tiêu hóa. Bởi trâu được bù đắp thiếu sót bằng một cái dạ cỏ. Đó là dạ dày gồm bốn túi, giúp chứa rất nhiều thức ăn chưa nghiền nát. Khi nằm nghỉ ngơi, trâu có thể ợ lên nhai lại rồi mới tiêu hóa hẳn.
Trâu cái ba tuổi trẻ lứa đầu. Mỗi con trâu trong đời đẻ năm đến sáu lứa. Trâu con gọi là nghé. Nghé sơ sinh nặng 22-25gk. Sau 2-3 năm, trâu nghé trưởng thành và có thể giúp người nông dân kéo cày.
Con trâu là biểu tượng của làng quê Việt Nam. Hình ảnh “con trâu đi trước cái cày theo sau” luôn hiện hữu trong tâm trí người dân Việt Nam ta. Bởi với truyền thống nông nghiệp, con trâu – cái cày đối với con người là vô cùng quan trọng. Trâu là sức kéo không thể thiếu trong việc đồng áng. Lực kéo của trâu là 0,34-0,4 mã lực. Tức là một ngày trâu cày khoảng hai sào ruộng và kéo khoảng 700kg hàng hóa.
Trâu rất gần gũi với người Việt. Ngoài việc nuôi trâu để lấy sức kéo, người ta còn nuôi trâu để lấy thịt, sữa và phân bón. Sữa trâu tuy không thông dụng lắm nhưng cũng góp phần vào bữa ăn của người nông dân và còn dùng để chế biến thành những món đặc sản nữa. Phân trâu thì được sử dụng để bón cho cây, vừa tiện lại vừa rẻ. Một con trâu thải ra 15kg phân mỗi ngày. Ngoài ra, người ta còn lấy sừng trâu để làm đồ mĩ nghệ. Da trâu lấy làm mặt trống hay các mặt hàng gia thuộc. Nhìn chung, trâu ta rất nhiều giá trị về thực phẩm cũng như hàng hóa. Vì vậy dân ta có câu: “muốn giàu nuôi trâu cái, muốn lụn bại thì nuôi bồ câu”.
Con trâu sớm hôm gắn bó với người nông dân. Từ khi trời vừa hửng sáng, trâu đi theo bác nông dân ra đồng:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây, trâu đấy ai mà quảng công
Có thể nói, trong các loài gia súc, con trâu vẫn là khổ cực nhất. Vết hằn sâu trên da thịt nó, nơi dưới đặc chiếc ách cày qua bao năm tháng có thể chứng minh được điều đó. Chẳng phải người ta có câu “làm thân trâu ngựa” để chỉ những việc cực nhọc, vất vả tột cùng đó sao? Thế mà trâu vẫn chăm chỉ làm lụng, không hề so đo, tính toán gì. Bởi bản tính của con trâu là hiền lành, chăm chỉ.
Qua giai đoạn cày bừa, trâu tuy đỡ khổ hơn một chút nhưng trâu lại phải kéo những núi hàng hoặc cả xe đầy người. Câu tục ngữ “Lạc đường nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu” cho ta thấy trâu là phương tiện giao thông rất phổ biến ở các vùng nông thôn.
Trâu gắn liền với mùa màng nên cũng dễ hiểu thôi nếu người ta cho trâu là biểu tượng của sự sung túc. Đồng bào Chăm, Hơ-mông, có lễ hội đâm trâu vào tháng 3,4 âm lịch. Ngày thứ nhất con trâu được cột ở giữa sân. Kế bên là một cây nêu. Mọi người ca hát, nhảy múa chung quanh. Ngày thứ hai, thanh niên trai tráng sẽ mổ trâu trong tiếng chiêng, tiếng trống thập thùng. Sau khi đâm trâu, thịt trâu được sẽ ra cho từng nhà. Còn phần to nhất sẽ mang lên nhà rông cùng ăn. Danh vọng, sự giàu có của gia đình bản làng thể hiện qua sự béo tốt của chú trâu.
Truyền thuyết dân tộc Chăm kể lại rằng có một người mẹ sinh ra một đứa bé kháu khỉnh. Thế nhưng thần Sư tử – vị thần bảo hộ của dân tộc lại muốn ăn thịt đứa bé ấy. Để cứu đứa bé thoát khỏi số mệnh, mọi người bàn nhau dùng một con trâu trắng thay thế. Từ đó, để tỏ lòng biết ơn đối với sự hi sinh của trâu, cứ bảy năm một lần đến tháng bảy âm lịch Chăm, người ta lại tổ chức lễ hội tế thần sư tử với con trâu linh thiêng để cầu bình an, mưa thuận gió hòa.
Bên cạnh đó, con trâu được dùng làm sính lễ của đàng trai khi hỏi cưới. Đối với dân tộc Kinh, ở vùng Đồ Sơn có lễ hội chọi trâu. Những con trâu vạm vỡ, khỏe mạnh nhất của làng được chọn ra, thi thố với nhau. Trâu bên nào thắng, tức là hút bị thương đối thủ là làng đó sung túc giàu mạnh hơn.
Trâu Việt Nam xuất hiện nhiều trong thơ ca và tranh vẽ. Nhất là cùng với những chú mục đồng miệng thổi sáo du dương. Ở nông thôn công việc thường nhất của các em bé là chăn trâu nên trâu có ấn tượng rất sâu sắc đối với tuổi thơ. Con trâu là cái hồn của làng quê Việt Nam. Không ồn ào, hăng sức, trâu cứ lững thững tiến vào tâm thức người dân Việt.
Trâu, bò làm việc mỗi ngày cho ăn ba lần: sáng, trưa, chiều. Vào những ngày làm việc ban đêm người ta còn cho ăn một số thức ăn bổ sung như cám, thức ăn hỗn hợp, cháo, có thể uống thêm nước đường… Sau các giờ làm việc, chúng ta cần xoa bóp vai cày trong vài phút, bắt ve, cạy đất trong móng chân, đất bùn bám trên mình trâu bò. khi trâu bị thương, cần vệ sinh sạch sẽ các vết thương, bôi thuốc sát trùng cẩn thận vào chỗ vết thương.
Mùa hè, cho trâu đầm tắm hằng ngày, nhất là đối với trâu vốn chịu nóng kém, thích bóng râm. Cho trâu làm việc ngoài nắng 1-2h nên cho chúng nghỉ giải lao, gặm cỏ, uống nước. Chuồng trại cần thoáng mát, tránh mưa tạt, gió lùa. Đặc biệt là mùa đông, chuồng trại không che chắn khi gặp trời gió rét đột ngột, gió lùa có thể làm cho trâu bò bị cảm lạnh, viêm phổi và chết.
Mỗi con trâu cần 4-6m² diện tích nền chuồng. Chuồng phải khô ráo, dễ làm vệ sinh, không bị ứ đọng nước. Nền chuồng nên xây bằng xi măng và nên có mùng để che muỗi. Có một số nơi không có truồng thường cho trâu bò đầm dưới sình để tránh ruồi muỗi nhưng dễ bị kí sinh trùng và bệnh ngoài da.
Trâu thường ăn một lượng cỏ tương bằng 1/10 trọng lượng cơ thể và có thể uống 30-40 lít nước mỗi ngày. Nên định kì tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm cho trâu như: tụ huyết trùng, lở mồm long móng. Muốn cho trâu bò làm việc tốt, dai sức ta phải cho trâu bò nghỉ ngơi, hợp lí, tránh cho trâu bò làm việc quá sức. Đối với trâu bò làm việc nhiều, sức khỏe giảm sút, gầy gò cần phải quan tâm đến việc bồi dưỡng bằng các loại cỏ tươi, thức ăn tinh bột hay bổ sung các khối bánh u-rê mật đường giúp trâu bò mau lấy lại sức…
Ngày nay, khi máy móc đã thay sức kéo của trâu bò, hình ảnh con trâu làng quê lui về một vị trí khiêm nhường trong đời sống và lao động của con người Việt Nam. Thế nhưng, số lượng trâu bò nuôi trên cả nước vẫn còn rất lớn. Trâu tiếp tục sống gần gũi, thân thiện và gắn kết với người nông dân Việt Nam.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Thuyết minh về con trâu Việt Nam 3 Dàn ý & 22 bài thuyết minh về con trâu hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.