Bạn đang xem bài viết ✅ Văn mẫu lớp 9: Phân tích tác phẩm Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới 3 Dàn ý & 9 bài văn hay lớp 9 ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Phân tích tác phẩm Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới tuyển chọn 9 mẫu ngắn gọn, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 nhìn nhận rõ những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam và hành trang cần chuẩn bị để bước vào thế kỉ mới.

Phân tích tác phẩm Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới

Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới của phó thủ tướng Vũ Khoan đã đặt ra những vấn đề quan trọng cho con người khi bước vào thế kỉ của sự phát triển, hội nhập. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Wikihoc.com để ngày càng học tốt môn Văn 9:

Dàn ý Phân tích bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới

Dàn ý 1

I. Mở bài:

Vũ Khoan là nhà hoạt động chính trị, nhiều năm là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Thương mại, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ. “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” ra đời năm 2001, đất nước đang phát triển trong xu thế hội nhập, nền kinh tế có xu hướng toàn cầu. Bài viết trình bày rõ điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam và những hành trang cần chuẩn bị để bước vào thế kỉ mới.

II. Thân bài:

1. Xác định vai trò của con người:

  • Con người là động lực phát triển của lịch sử.
  • Trong thời kì nền kinh tế tri thức phát triển mạnh, con người giữ vai trò chủ lực.

2. Bối cảnh của thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của đất nước trong thời kì hội nhập:

– Bối cảnh của thế giới hiện nay: khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại, sự giao thoa, hội nhập ngày càng sâu rộng giữa các nền kinh tế.

– Mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước:

  • Thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp.
  • Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
  • Tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức.

3. Những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam cần được nhìn nhận rõ khi bước vào thế kỉ mới:

  • Thông minh, nhạy bén với cái mới nhưng thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành → chưa kịp thích ứng với nền kinh tế mới.
  • Cần cù, sáng tạo nhưng thiếu tính tỉ mỉ, không coi trọng tính nghiêm ngặt của quy trình công nghệ, chưa quen với cường độ khẩn trương → Ảnh hưởng nặng nề của phương thức sản xuất nhỏ và thôn dã, là vật cản ghê gớm.
  • Có truyền thống đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, nhất là trong chiến đấu chống ngoại xâm nhưng lại thường đố kị nhau trong làm ăn và cuộc sống hằng ngày → Ảnh hưởng tới đạo đức, giảm đi sức mạnh và tính liên kết.
  • Bản tính thích ứng nhanh dễ hội nhập nhưng có tính kì thị trong kinh doanh, khôn lỏi, khôn vặt, mưu mẹo → Cản trở kinh doanh và hội nhập.

4. Nhiệm vụ cấp thiết của thế hệ trẻ ngày nay:

  • Nhiệm vụ: nhìn nhận những hạn chế cần khắc phục để không bị tụt hậu và bắt kịp bước đi của thời đại. Đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận nền kinh tế tri thức.
  • Sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất vì máy móc và các yếu tố khác có tân tiến hiện đại đến bao nhiêu cũng là do con người sản xuất, sáng tạo ra, không thể thay thế được con người, đặc biệt trong nền kinh tế tri thức.

5. Đánh giá:

  • Với lập luận chặt chẽ, ngôn ngữ giản dị đầy thuyết phục, bài viết chỉ rõ điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam. Đồng thời, tác giả xác định và nhấn mạnh nhiệm vụ của giới trẻ hiện nay, để bước vào thế kỷ mới, không có sự chuẩn bị nào quan trọng hơn là sự chuẩn bi về con người.
  • Để đưa đất nước đi lên, chúng ta cần phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu, hình thành những thói quen tốt ngay từ những việc nhỏ nhất.

III. Kết bài:

Bài viết đặt ra vấn đề nóng hổi, cấp thiết với cách nhìn nhận khách quan kết hợp với lí lẽ lập luận giản dị, chặt chẽ và thái độ tôn trọng đối tượng, tinh thần trách nhiệm của tác giả. Việc sử dụng ngôn ngữ báo chí gắn với ngôn ngữ sinh hoạt đời thường, cách nói giản dị, dễ hiểu, sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ sinh động, cụ thể và hàm súc cũng là những nét tiêu biểu về nghệ thuật của tác phẩm.

Dàn ý 2

I. Mở bài:

  • Giới thiệu khái quát về tác giả Vũ Khoan: Một nhà chính trị, ngoại giao xuất sắc, một vị thủ tướng có đóng góp quan trọng vào con đường phát triển của đất nước.
  • “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” ra đời đúng thời điểm như một kim chỉ nam để mỗi người Việt Nam tự nhìn nhận lại những điểm mạnh, điểm yếu của mình nhằm sẵn sàng vươn tới một kỉ nguyên mới.

II. Thân bài:

1. Sự chuẩn bị bản thân con người là sự chuẩn bị quan trọng nhất trong hành trang bước vào thế kỉ mới

– Khẳng định trong thời khắc chuyển giao giữa hai thế kỷ, cần chuẩn bị tốt hành trang để bước sang một thế kỉ mới thành công.

– Nhấn mạnh sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất vì:

  • Con người lúc nào cũng là động lực phát triển của lịch sử.
  • Con người giữ vai trò nổi trội trong nền kinh tế tri thức mà nền kinh tế này sẽ phát triển nổi trội vào thế kỉ mới.

⇒ Cách đặt vấn đề trực tiếp, ngắn gọn, thuyết phục.

2. Tình hình thế giới và những nhiệm vụ của đất nước

– Tình hình thế giới:

  • Khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại.
  • Sự giao thoa sâu rộng giữa các nền kinh tế.

– Nhiệm vụ của đất nước:

  • Thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp.
  • Đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
  • Tiếp cận với nền kinh tế tri thức.

⇒ Cách trình bày luận điểm logic chặt chẽ.

3. Những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam và nhiệm vụ của con người khi bước vào thế kỉ mới

– Điểm mạnh của con người Việt Nam:

  • Thông minh, nhạy bén với cái mới.
  • Cần cù, sáng tạo.
  • Có tinh thần đoàn kết, đùm bọc, nhất là trong kháng chiến chống ngoại xâm.
  • Bản tính thích ứng nhanh.

– Điểm yếu của con người Việt Nam:

  • Thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành.
  • Thiếu đức tính tỉ mỉ, hành động theo phương châm “nước đến chân mới nhảy”, chưa có được thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương.
  • Thường ích kỉ, đố kị nhau trong đời sống thường ngày.
  • Thái độ kì thị với sự kinh doanh, thói quen ảnh hưởng sự bao cấp, nếp nghĩ sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức.

⇒ Lập luận song hành: đi liền với điểm mạnh là điểm yếu => cái nhìn trực diện, thông suốt, thấu đáo, không né tránh => Người Việt Nam nhận rõ về những điểm mạnh, điểm yếu của mình.

– Từ điểm mạnh, điểm yếu, đề ra nhiệm vụ khi bước vào thế kỉ mới:

  • Lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh: Phát huy điểm mạnh.
  • Vứt bỏ điểm yếu.
  • Làm cho lớp trẻ nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu, làm quen với những thói quen tốt đẹp.

⇒ Lập luận chặt chẽ, logic, chắc chắn, giàu sức thuyết phục => Tài năng của một người tài năng luôn lo lắng cho vận mệnh đất nước.

III. Kết bài:

  • Khái quát lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
  • Trình bày giá trị thời đại của bài viết tới thời điểm hôm nay, liên hệ bản thân về việc phát huy những điểm mạnh, điểm yếu bản thân để phát triển đất nước trong tương lai.

Dàn ý 3

1. Mở bài

  • Văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới là những lời tâm huyết, chân thành của Phó thủ tướng Vũ Khoan.
  • Chỉ ra cho nhân dân ta, đặc biệt là thế hệ thanh niên, những con người tương lai sẽ chèo lái đất nước những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam, bằng thái độ thẳng thắn, thực tế.

2. Thân bài

* Sơ lược tác giả, tác phẩm:

  • Vũ Khoan là một nhà hoạt động chính trị, nhiều năm làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, từng là Bộ trưởng Bộ Thương mại, Phó Thủ tướng Chính phủ nước ta.
  • Văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới được viết vào năm 2000, in trong tạp chí Tia sáng (2001), trong tập Một góc nhìn tri thức (2002).

* Vai trò của con người trong hành trang vào thế kỷ mới:

  • Có vai trò quan trọng nhất.
  • Lý lẽ: Là động lực thúc đẩy lịch sử phát triển, nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển mạnh khiến vai trò của con người ngày càng nổi trội.

* Hoàn cảnh thế giới và nhiệm vụ của đất nước:

  • Thế giới khoa học công nghệ ngày càng phát triển, giao thoa hội nhập ngày càng sâu sắc.
  • Nhiệm vụ của đất nước ta: Hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiến đến nền kinh tế tri thức, thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu.

* Điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam.

  • Trí tuệ: Thông minh, nhạy bén với mới, nhưng kiến thức có nhiều lỗ hổng, nặng lý thuyết, học vẹt, khó thích ứng,
  • Đức tính: Cần cù, sáng tạo nhưng thiếu tỉ mỉ, làm việc không có kế hoạch, nước đến chân mới nhảy.
  • Tình cảm: Đùm bọc, đoàn kết nhưng trong làm ăn hay có tư tưởng “tiểu nông”, đố kỵ.
  • Thói quen: Thích ứng nhanh nhưng lại sính ngoại, bài ngoại quá đáng, không giữ chữ tín, khôn vặt.

* Lời kêu gọi:

  • Phát huy cái tốt bài trừ cái xấu.
  • Phải thay đổi trước hết là từ lớp trẻ, từ những thói quen nhỏ nhặt.

3. Kết bài

Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới là một văn bản nghị luận thực tế, Vũ Khoan đã không ngần ngại thẳng thắn nhìn vào những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam. Từ đó đưa ra lời kêu gọi, lời khuyên có sức cổ vũ lớn, không khiến người đọc phải tự ái, mà thay vào đó giúp mỗi người nhận thức được và xem xét để thay đổi bản thân ngày một tốt hơn, tương lai tham gia vào kiến thiết đất nước.

Phân tích bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Mẫu 1

Bước vào thế kỉ mới với nhiều thách thức đòi hỏi một đất nước phải có một hành trang vững vàng để hội nhập nhưng không hòa tan, tiên tiến nhưng đậm đà bản sắc dân tộc. Đất nước khi bắt đầu bước vào thế kỉ mới cũng vậy, tác giả Vũ Khoan với bài luận Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới đã chỉ ra được sự cấp thiết trong việc chuẩn bị hành trang cho đất nước bước vào thế kỉ mới và đặc biệt tác giả cũng phân tích tình hình cũng như điểm yếu điểm mạnh của dân tộc ta để có thể bước vào thế kỉ mới một cách chủ động và vững vàng nhất.

Mở đầu vấn đề, Vũ Khoan đã đặt vấn đề rằng những lớp thanh niên trẻ tuổi của Việt Nam cần phải nhận ra điểm mạnh điểm yếu của con người nước mình để rèn luyện thói quen tốt để bước vào một nền kinh tế mới. Hành trang để bước vào thế kỉ mới chính là con người. Từ cổ chí kim bao giờ con người cũng là động lực để phát triển lịch sử. Vì thế mà trong nền kinh tế mới – nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ thì yếu tố con người lại càng quan trọng.

Tiếp đó tác giả phân tích bối cảnh thế giới và trong nước để đặt ra nhiệm vụ cho con người Việt Nam bước vào thời kì kinh tế mới. Thế giới có sự giao thoa và hội nhập sâu rộng khoa học công nghệ phát triển mạnh. Điều đó đặt ra cho nước ta những nhiệm vụ cụ thể là thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. đẩy nhanh công nghiệp hóa hiện đại hóa, tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức.

Không những thế Vũ Khoan còn phân tích những điểm mạnh điểm yếu của con người Việt Nam để từ đó giúp cho chúng ta nhận định được những khả năng và hạn chế của mình. Điểm mạnh của con người Việt Nam ta là thông minh nhạy bén với cái mới, cần cù sáng tạo, đùm bọc đoàn kết trong chiến đấu và thích ứng nhanh.

Thế nhưng bên cạnh đó cũng có rất nhiều điểm yếu như thiếu kiến thức cơ bản và khả năng thực hành kém, không tỉ mỉ, tiến độ làm việc còn chậm, đố kị trong công việc, kì thị trong kinh doanh không giữ chữ tín. Nguyên nhân là do học theo những môn học thời thượng, chế độ phong kiến, bao cấp và phương thức sản xuất nơi thôn dã.

Những điểm yếu đó gây cản trở cho quá trình hội nhập và không phù hợp với nền kinh tế tri thức.Qua tác phẩm này có thể thấy rõ được những yêu cầu bức thiết cho dân tộc mình trước khi bước vào một công cuộc đổi mới hội nhập. Những điểm yếu vẫn còn rất nhiều vì thế cho nên muốn hội nhập tốt thì chúng ta cần phải khắc phục những điểm yếu đó.

Phân tích bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Mẫu 2

“Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” được biết đến là bài báo của Vũ Khoan, lần đầu được giới thiệu trên báo Tia sáng năm 2001. Vũ Khoan là một trong những gương mặt mới nằm trong bộ phận lãnh đạo của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Với bài báo này tác giả như đã giúp ta một cái nhìn sáng suốt về nhân dân ta, về bản thân mỗi chúng ta. Có thể nói thế kỉ mới là thế kỉ hi vọng và bừng sáng đối với đất nước cũng như con người Việt Nam.

Trong bài Chuẩn Bị Hành Trang Vào Thế Kỷ Mới thì đối tượng đối thoại của tác giả chính là lớp trẻ Việt Nam – họ là những chủ nhân của đất nước ta trong thế kỉ XXI. Thế hệ trẻ cũng chính là thế hệ như cũng đã nối bước ông cha, đồng thời cũng đã lại gánh trên đôi vai của mình sứ mệnh lịch sử vô cùng nặng nề là xây dựng lên đất nước Việt Nam trở nên giàu mạnh cường thịnh biết bao nhiêu. Chúng ta cũng có thể xem câu văn đầu bài luận đã nêu lên được biết bao nhiêu ý tưởng chủ đạo của bài luận văn. Quan niệm “Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới”. Thông qua đây thì tác giả như cũng đã đặt vấn đề và khẳng định như để chuẩn bị bản thân con người đó chính luôn luôn quan trọng nhất trong những hành trang mà đất nước ta cũng luôn luôn cần phải có. Lý do chính là khi có sự chuẩn bị thì nó sẽ là động lực để phát triển và khiến cho vai trò của con người trở nên mạnh mẽ hơn trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Mỗi chúng ta cũng phải chuẩn bị những cái cần thiết trong hành trang mang vào thế kỉ mới khi mà có thể nhận thấy được chính sự phát triển như huyền thoại của khoa học và công nghệ…. Đặc biệt khi mà đứng dưới những tác động của những tiến bộ về khoa học và công nghệ có cả sự giao thoa, hội nhập giữa các nền kinh tế chắc chắn sẽ sâu rộng hơn nhiều. Nói về vấn đề thời cơ và thách thức được tác giả Vũ Khoan nêu lên và giải thích một cách khúc chiết, sáng tỏ.

Tham khảo thêm:   Hợp đồng liên kết đào tạo

Phần tiếp theo, tác giả Vũ Khoan dường như đã nêu lên 3 nhiệm vụ rõ ràng. Nhiệm vụ một là phải thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp. Nhiệm vụ thứ hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn thứ ba là phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức. Vũ Khoan chỉ rõ ra cho mọi người biết được cũng cần phải “Làm nên sự nghiệp ấy đương nhiên là những con người Việt Nam với những điểm mạnh và điểm yếu của nó”. Thông qua tác phẩm này ta nhận thấy được chính chí tự lực tự cường, tinh thần đổi mới hội nhập, đồng thời chính cái nhìn tỉnh táo là tư tưởng bao trùm phần đầu bản luận văn này.

Tiếp đến là phần thứ hai, tác giả Vũ Khoan cũng thật khéo léo lần lượt nêu lên, giải thích và bình luận những điểm mạnh, bình luận những điểm yếu của con người Việt Nam. Tác phẩm cũng đã chỉ ra cái mạnh của con người Việt Nam đó chính là một sự thông minh sáng tạo, với bản chất tốt đẹp ấy thực sự cũng có ích trong xã hội mới nhất là khi sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu trong thế kỷ mới. Chính trong cái mạnh đó, dân trí của ta lại có biết bao những lỗ hổng kiến thức cơ bản đã vậy thì khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế. Thông qua đây ta nhận thấy được nguyên nhân là do việc thiên hướng chạy theo những môn học thời thượng và cả do những lối học chay học vẹt nặng nề. Bản thân của chúng ta nếu như không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này đồng thời khắc phục những điểm yếu này thì cũng thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có của bản thân. Đồng thời cũng lại không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri thức cơ bản và biến đổi không ngừng được.

Tiếp theo có thể nói rằng cũng chính giữa cái mạnh nữa của dân ta thì cũng chính là một sự cần cù sáng tạo. Thế nhưng cũng chính trong cái mạnh ấy ta lại cảm nhận được một sự ẩn chứa những khuyết tật của chính con người sản xuất nhỏ. Những người sản xuất nhỏ lại thiếu đi đức tính tỉ mỉ và có các suy nghĩ ỷ lại như nước đến chân mới nhảy, luôn bị động cho nên với các công việc luôn cần độ khẩn trương thì lại loay hoay, yếu kém. Nhân dân ta có truyền thống lâu đời luôn luôn biết yêu thương và đùm bọc cũng như đoàn kết với nhau để có thể tạo lên được sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ đất nước. Thế nhưng có một thực tế không thể phủ nhận được là do ảnh hưởng của nền sản xuất nhỏ đã vậy lại còn mang nhiều yếu tố cố hữu như tính tùy tiện, đố kị khiến cho kinh tế khó phát triển đồng bộ.

Trên thực tế thì con người Việt Nam lại luôn luôn còn có nhiều điểm yếu khác nữa như có thể thấy được chính thái độ kì thị đối với sự kinh doanh. Đồng thời là những thói quen ảnh hưởng sự bao cấp, những nếp nghĩ sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức. Chúng ta nhận thấy được không ít người chúng ta lại luôn có thói quen không tốt đó là “khôn vặt” hay các thói quen “bóc ngắn cắn dài” dường như họ lại không coi trọng chữ “tín”. Tất cả những cái yếu ấy, những thói quen xấu ấy, theo tác giả Vũ Khoan như cũng sẽ gây tác hại khôn lường trong quá trình kinh doanh và hội nhập hiện nay.

Tiếp đến là phần cuối của tác phẩm thì tác giả Vũ Khoan nêu lên 2 điều kiện khi đất nước ta cũng như những người dân ta bước vào thế kỉ mới, để luôn mong muốn “sánh vai cùng các cường quốc năm châu “thì phải lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu. Thêm vào đó nữa đó chinh là hãy làm cho lớp trẻ – những người làm chủ thực sự của đất nước phải nhận ra được điều đó, để họ dường như cũng đã quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất.

Tóm lại bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới được coi là một văn bản độc đáo, đặc sắc. Tác giả Vũ Khoan đã dũng cảm chỉ ra những cái yếu của con người Việt Nam khi bước vào thế kỉ mới, nhất là khi đứng trước vận hội mới, thách thức mới. Với giọng văn sắc sảo, nhiệt thành luôn luôn tâm huyết thì đã giúp ta một cái nhìn sáng suốt về nhân dân ta, cái nhìn sáng suốt về bản thân mỗi chúng ta.

Phân tích bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Mẫu 3

Mỗi người Việt Nam – nhất là thế hệ trẻ chúng ta – đã được sống những giây phút thiêng liêng của cái Tết năm 2001. Đó là thời điểm chuyển tiếp từ thế kỉ XX vào thế kỉ XXI. Bước vào thế kỉ mới, đất trời như đổi khác hơn, con người cũng bồi hồi, xao động mong muốn được đổi khác, lớn lên, tiến bộ hơn để sống hạnh phúc hơn. Vậy chúng ta phải suy nghĩ thế nào, phải làm việc, học tập, ứng xử ra sao ? Biết bao băn khoăn, day dứt, bao câu hỏi đặt ra, đòi ta phải trả lời. Một trong những ý kiến giúp chúng ta giải bài toán đặc biệt, trước hết là bài toán về nhận thức tư tưởng, bài toán về cách sống ấy, nằm trong một văn bản nghị luận ngắn gọn mà sâu sắc: Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới của ông Vũ Khoan.

Mở đầu bài viết, tác giả đã đặt vấn đề trực tiếp, rõ ràng: “Cái mạnh, cái yếu” của người Việt Nam mà tác giả nói tới là những ưu điểm, những hạn chế trong phẩm chất, nhân cách bản thân mỗi con người. Đây là khởi nguồn của mọi thành công, hay thất bại trong cuộc sống. Khi bước vào thế kỉ mới, thiên niên kỷ mới, mỗi người phải chuẩn bị cho mình biết bao việc, trong đó hàng đầu, có tính quyết định chính là nhận ra ưu điểm, nhược điểm của chính mình. Vấn đề mà ông Vũ Khoan đặt ra và nhắc nhở tuổi trẻ chúng ta thật thẳng thắn và cần thiết.

Trước hết, tác giả giải thích lí do và ý nghĩa việc chuẩn bị hành trang – nhận ra ưu điểm và nhược điểm – trong nhân cách bản thân mỗi người: “Chúng ta đã chứng kiến sự phát triển như huyền thoại của khoa học và công nghệ… dưới tác động của những tiến bộ về khoa học và công nghệ, sự giao thoa, hội nhập giữa các nền kinh tế chắc chắn sẽ sâu rộng hơn nhiều”. Như vậy, việc bồi đắp trí tuệ, trau dồi đạo đức, nhân cách của mỗi người tuổi trẻ chúng ta là một đòi hỏi khách quan có tính thời đại, tính lịch sử. Nó không đơn thuần là những khái niệm tinh thần chủ quan, trừu tượng mà là sự đòi hỏi khách quan, cụ thể của cuộc sống cả đất nước và mỗi con người. Tại sao? Ông Vũ Khoan chỉ rõ: nước ta phải cùng một lúc giải quyết ba nhiệm vụ: thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tiếp cận ngay với kinh tế tri thức. Trong ba nhiệm vụ đó, có lẽ nhiệm vụ “tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức” là một đòi hỏi bức bách, một sứ mệnh thiêng liêng, vẻ vang nhất đối với tuổi trẻ chúng ta.

Tiếp sau – phần chính của bài viết – tác giả thẳng thắn chỉ ra những “điểm mạnh và điểm yếu”, những ưu điểm và hạn chế, thiếu sót trong phẩm chất con người Việt Nam chúng ta.

Thứ nhất: Chúng ta thông minh, nhạy bén với cái mới, nhưng kiến thức cơ bản không vững chắc, khả năng thực hành bị hạn chế.

Thứ hai: Chúng ta cần cù sáng tạo, nhưng trong cần cù, chúng ta thiếu đức tính tỉ mỉ, nhất là chưa có thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương. Chúng ta có khả năng sáng tạo, nhưng chỉ loay hoay “cải tiến”, làm tắt, chứ không coi trọng quy trình công nghệ.

Thứ ba: Nhân dân ta có truyền thống đùm bọc, đoàn kết với nhau trong công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Nhưng trong công việc làm ăn, trong kinh tế thì lại phạm vào thói xấu “trâu buộc ghét trâu ăn”, kèn cựa, ganh tị với nhau.

Thứ tư: Bản tính thích ứng – một tính tốt nữa của chúng ta – sẽ giúp nhân dân ta mau chóng hội nhập với thế giới. Nhưng trong “hội nhập” đã xuất hiện vài thói xấu như “thái độ kì thị”, “sùng ngoại”, “khôn vặt”,… không giữ chữ “tín”, gây tác hại khôn lường…

Chắc rằng, vị cán bộ cao cấp, nhà ngoại giao, người hoạt động giàu kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực của đất nước ta – ông Vũ Khoan – còn muốn nêu lên nhiều nữa “cái mạnh”, “cái yếu” của người Việt Nam. Nhưng bốn cặp đối lập như trên, cũng đủ giúp chúng ta hiểu ra biết bao điều bổ ích. Điều bổ ích nhất là tác giả đã phân tích những điểm mạnh, điểm yếu trong tính cách, thói quen ấy một cách cụ thể, sâu sắc. Mỗi ưu điểm cũng như thiếu sót đều có nguyên nhân, đều có tác dụng, hoặc hạn chế khi đất nước và dân tộc bước vào thế kỉ mới, hội nhập với nền kinh tế tri thức. Chúng có quan hệ biện chứng, thúc đẩy, hoặc hạn chế công cuộc xây dựng đất nước trong thời đại ngày nay.

Qua lịch sử, qua nhiều tác phẩm văn chương và thực tế cuộc sống, chúng ta nhận thấy những phát hiện, những lời khẳng định và phê phán của ông Vũ Khoan là hoàn toàn chính xác. Khi viết, ông đã dẫn chứng nhiều ví dụ sinh động, vận dụng nhiều ca dao, tục ngữ, thành ngữ quen thuộc, dễ hiểu, dễ nhớ: “nước đến chân mới nhảy”, “liệu cơm gắp mắm”, “nhiễu điều phủ lấy giá gương”, “trâu buộc ghét trâu ăn”, “bóc ngắn cắn dài”,… những cụm từ ấy điểm xuyết trong bài văn không chỉ giúp cho lí lẽ được mềm mại, mà còn đánh thức người đọc những tri thức cơ bản về lịch sử, về văn chương, đầy tính thuyết phục. Với học sinh chúng ta, sự phát hiện của ông Vũ Khoan về những lỗ hổng trong kiến thức cơ bản do chạy theo những môn học “thời thượng”, bệnh “học chay, học vẹt” là những lời phê phán, nhắc nhở thiết thực. Còn các phát hiện khác qua những cặp đối lập “cái mạnh”, “cái yếu” của nhân cách Việt Nam biểu hiện trong lối sống, trong khoa học và các hoạt động kinh tế, chính trị, ngoại giao,… cũng đều là những lời nhắn gửi cần thiết đối với học sinh. Bởi vì, đó là những hành trang để chúng ta chuẩn bị vào đời, chuẩn bị làm một công dân Việt Nam bước vào thế kỉ mới.

Phần cuối bài viết, ông Vũ Khoan nhấn mạnh thêm lý do và ý nghĩa việc nhận ra điểm mạnh, điểm yếu trong mỗi con người. Nghĩa là phải biết “lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu”. Tác giả dùng cụm từ muốn “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” như có ý nhắc chúng ta nhớ lại lời Hồ Chí Minh trong bức thư gửi học sinh nhân năm học mở đầu khi đất nước được độc lập, dân tộc được tự do. Người cho rằng: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Lời Hồ Chí Minh nói cách đây nửa thế kỷ, nay lại đồng vọng trong tâm hồn chúng ta, được ông Vũ Khoan nhấn mạnh để hướng chúng ta vào nhiệm vụ cụ thể: hãy học tập tốt, hãy phát huy những ưu điểm, vứt bỏ những khuyết điểm trong tính cách, thói quen, nếp sống, công việc để vươn tới phía trước. Mỗi người chuẩn bị thật tốt những hành trang trí tuệ, tâm hồn, năng lực như thế chắc chắn đất nước ta, dân tộc ta sẽ “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu” trong thế kỉ mới, thiên niên kỷ mới.

Tóm lại, qua văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới, chúng ta hiểu rằng: Để chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới, thế hệ trẻ Việt Nam cần nhìn rõ cái mạnh và cái yếu của con người Việt Nam để rèn cho mình những đức tính và thói quen tốt. Thế mạnh của người Việt Nam là thông minh, nhạy bén với cái mới, cần cù sáng tạo, đoàn kết, đùm bọc nhau trong thời kì chống ngoại xâm. Bên cạnh đó cũng có nhiều điểm yếu cần khắc phục: thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành, thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, thiếu tính cộng đồng trong làm ăn. Bước vào thế kỉ mới, để đưa nước ta tiến lên, chúng ta cần phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu, hình thành những thói quen tốt ngay từ những việc nhỏ. Bài nghị luận chính trị xã hội được viết một cách giản dị, sâu sắc với những lí lẽ rành mạch, những dẫn chứng cụ thể, sinh động, ngôn từ vừa hiện đại, vừa đậm đà chất dân tộc, rất dễ hiểu, đầy tính thuyết phục. Ấy là những lời giải tường minh, khúc chiết cho một bài toán về trí tuệ, tâm hồn đối với chúng ta.

Phân tích bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Mẫu 4

Bài viết Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới của Phó Thủ tướng Vũ Khoan đăng trên tạp chí Tia sáng năm 2001 và in trong cuốn Một góc nhìn của trí thức (NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2002). Tác giả đã thẳng thắn đề cập tới một vấn đề “nhạy cảm” mà từ trước đến giờ ít người dám bàn tới. Đó là mặt mạnh, mặt yếu của con người Việt Nam và sự cấp thiết phải đổi mới bản thân con người để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời đại tri thức, khoa học kĩ thuật tiên tiến.

Lâu nay, khi nói tới phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta thường nhấn mạnh đến những đức tính tốt đẹp như lòng yêu nước, tinh thần cộng đồng, đức tính cần cù, dũng cảm, kiên trì, thông minh, sáng tạo… Những phẩm chất ấy đã được chứng minh trong thực tế lịch sử mấy ngàn năm, đặc biệt là qua các cuộc đấu tranh giữ nước.

Giống như các dân tộc khác trên thế giới, dân tộc Việt Nam bên cạnh những mặt mạnh cũng có không ít những mặt yếu. Nhận thức được những cái mạnh, đặc biệt là nhìn rõ những cái yếu của mình là điều hết sức cần thiết để một dân tộc, một đất nước tiến lên phía trước, vượt qua những trở ngại thách thức ở mỗi chặng đường lịch sử.

Hiện nay, dân tộc ta đang đứng trước những cơ hội mới để đưa đất nước tiến lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vượt qua tình trạng nghèo nàn, lạc hậu để trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào thời điểm 2020. Bước vào thế kỉ mới, với chúng ta cũng có nghĩa là bước vào cuộc hành trình với rất nhiều triển vọng tốt đẹp ở phía trước, nhưng cũng đầy khó khăn, thách thức, đòi hỏi các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ phải vươn lên mạnh mẽ, thực sự đổi mới để đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thời đại.

Bài viết Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới của Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã nêu ra chính xác và rất kịp thời những vấn đề trên, nhằm hướng tới thế hệ trẻ – bởi họ chính là lực lượng quyết định thành công sự nghiệp xây dựng đất nước trong thế kỉ mới.

Tham khảo thêm:   Đề thi học kì 2 môn Ngữ văn lớp 10 trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, Đồng Nai Năm học 2016 - 2017

Để chuẩn bị hành trang bước vào thế kỉ mới, thế hệ trẻ Việt Nam cần nhìn rõ điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam, từ đó rèn luyện cho mình những đức tính và thói quen tốt. Điểm mạnh của con người Việt Nam là thông minh, nhạy bén với cái mới, cần cù sáng tạo, đoàn kết đùm bọc lẫn nhau trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Bên cạnh đó cũng có nhiều điểm yếu cần phải khắc phục: thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành, thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, thiếu tính cộng đồng trong làm ăn. Để đưa đất nước đi lên, chúng ta cần phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu, cố gắng hình thành những thói quen tốt ngay từ những việc nhỏ.

Đây là một bài văn nghị luận xã hội, nội dung đề cập những vấn đề vừa có ý nghĩa thời sự cấp thiết, vừa có ý nghĩa lâu dài. Tác giả không dùng cách viết theo kiểu sách vở, uyên bác, mà bằng cách diễn đạt giản dị, thiết thực, dựa trên cơ sở thực tiễn, ai cũng có thể hiểu được, nhưng không phải vì thế mà bài viết thiếu sâu sắc. Giá trị và sức thuyết phục của nó nằm ở ngay vấn đề mà tác giả đặt ra; ở cách nhìn nhận khách quan, đúng đắn; ở những lời lẽ và cách lập luận giản dị mà chặt chẽ; cuối cùng là ở thái độ tôn trọng và tinh thần trách nhiệm cao của tác giả.

Tác giả đã thể hiện thái độ khách quan qua cách lập luận thấu lí đạt tình, qua cách sử dụng từ ngữ chọn lọc, chính xác, qua giọng điệu trầm tĩnh, chín chắn, giàu sức thuyết phục.

Thời điểm mà tác giả viết bài này là vào đầu năm 2001, khi đất nước ta cùng toàn thế giới bước vào năm đầu tiên của thế kỉ XXI. Thông thường sau một thời gian dài, chuẩn bị bước vào một chặng đường mới, người ta thường nhìn lại, kiểm điểm lại xem những gì được, những gì chưa được để rút kinh nghiệm và chuẩn bị hành trang bước tiếp.

Phân tích bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Mẫu 5

Sau khi đất nước hoàn toàn độc lập vào ngày 30/4/1975, đất nước ta phải mất rất nhiều năm để xây dựng và khôi phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh, đó là một hành trình nhiều gian nan và vất vả cần sự chung tay góp sức của cả dân tộc. Văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới là những lời tâm huyết, chân thành của Phó thủ tướng Vũ Khoan trước thềm một thế kỷ mới, một thiên niên kỷ mới bắt đầu, trước những sự thay đổi lớn trong tương lai của một đất nước đứng lên từ chiến tranh. Bài viết đã chỉ ra cho nhân dân ta, đặc biệt là thế hệ thanh niên, những con người tương lai sẽ chèo lái đất nước những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam, từ đó cố gắng rèn luyện cho mình được những thói quen tốt, chuẩn bị sẵn sàng nguồn nhân lực mạnh mẽ cho quá trình gây dựng đất nước, sánh ngang cùng với các cường quốc năm châu.

Vũ Khoan là một nhà hoạt động chính trị, nhiều năm làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, từng là Bộ trưởng Bộ Thương mại, Phó Thủ tướng Chính phủ nước ta. Văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới được viết vào năm 2000, in trong tạp chí Tia sáng (2001), trong tập Một góc nhìn tri thức (2002). Đây là thời điểm giao thoa giữa hai thế kỷ, sẵn sàng cho những thay đổi mới của đất nước, dân tộc.

Vũ Khoan đi vào đề cập đến vấn đề vai trò của con người trong hành trình bước thế kỷ mới, ông nhận định rằng “Trong những hành trang ấy có lẽ sự chuẩn bị con người là quan trọng nhất”, nhằm nhấn mạnh vai trò của con người trong công cuộc xây dựng đất nước. Sở dĩ nói như vậy bởi, từ cổ chí kim đến nay “con người là động lực phát triển lịch sử”, đặc biệt trong xã hội hiện đại khi mà nền kinh tế tri thức ngày càng có những phát triển vượt bậc thì vai trò của con người lại càng nổi trội. Bởi chính bộ óc, trí tuệ của con người sẽ gây dựng lên nền kinh tế ấy, chứ không phải bất cứ giống loài nào khác.

Tiếp theo tác giả đi vào phân tích hoàn cảnh của thế giới và đề ra những nhiệm vụ cho của đất nước trong thế kỷ mới. Chúng ta cũng biết rằng trên thế giới sự phát triển của khoa học và công nghệ đã có những bước tiến lớn trong vòng 100 năm trở lại đây, đặc biệt là ở các nước phương Tây. Thêm vào đó song song với sự phát triển thì chính sách mở cửa, hội nhập đã được thực hiện từ rất sớm, các nền kinh tế vì thế càng có sự giao thoa sâu sắc, học hỏi lẫn nhau và nhanh chóng phát triển. Trước tình hình cả thế giới với những bước chân lớn và nhiều như vậy đòi hỏi Việt Nam ta phải tự đặt ra những mục tiêu và nhiệm vụ và bằng mọi giá phải hoàn thành nó, để rút ngắn thời gian nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển. Những nhiệm vụ ở đây được Vũ Khoan đề ra bao gồm: Đẩy mạnh nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước tiếp cận và phát triển nền kinh tế tri thức, đồng thời nhanh chóng thoát khỏi nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Đó là những nhiệm vụ tối cần, cấp thiết mà quan trọng nhất trong giai đoạn chuyển giao giữa hai thế kỷ của nước ta.

Sau khi chỉ ra vai trò của con người và những nhiệm vụ tối cần để phát triển đất nước trong thế kỷ mới Vũ Khoan mới bắt đầu đi sâu vào phân tích đặc tính của con người Việt Nam, để từ đó rút ra bài học nhằm cải thiện nguồn nhân lực cho đất nước. Với mỗi một phẩm chất và đặc tính thì ông đều phân làm điểm mạnh và điểm yếu, dám nhìn nhận thẳng vào sự thật, công khai mở ra những nhận thức mới về dân tộc ta, mà xưa nay ít ai đề cập vì lòng tự ái dân tộc.

Trước hết là về trí tuệ, Vũ Khoan nhận định con người Việt Nam ta được cả thế giới thừa nhận là “thông minh, nhạy bén với cái mới”, điều này vô cùng có ý nghĩa với một xã hội đang phát triển và thay đổi từng ngày. Tuy nhiên chúng ta vẫn tồn tại nhiều điểm yếu, mà đa phần đến từ những lỗ hổng kiến thức, nặng lý thuyết, yếu thực hành, chính điều đó đã kiềm chế khả năng sáng tạo và thích ứng với môi trường xã hội năng động của chúng ta.

Về đức tính chúng ta nổi bật với hay đức tính chính là cần cù và sáng tạo, phù hợp với nền kinh tế cần nhiều sự kiên trì, kỷ luật, những máy móc hiện đại tinh vi, tuy nhiên chúng ta lại thiếu đi cái tính tỉ mỉ, không có sự tính toán, luôn mang tinh thần “nước đến chân mới nhảy”, đến đâu hay tới đó. Nếu nhanh nhạy, công việc trót lọt thì không sao, nhưng nếu làm không kịp thì để lại những hậu quả lớn, hơn thế nữa chúng ta lại cũng ưa “sáng tạo” ở những chỗ cần quy định nghiêm ngặt, còn bị ảnh hưởng bởi tư tưởng sản xuất nhỏ lẻ, thiếu bài bản.

Về tình cảm, người dân Việt Nam ta vốn có truyền thống lâu đời là đùm bọc, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, điều ấy thể hiện trong công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước ta từ hàng ngàn năm nay. Tuy nhiên có một điều đáng buồn rằng dường như những đức tính ấy lại không mấy sâu sắc trong việc làm ăn, bởi cái tư tưởng “tiểu nông”, nhỏ nhen, hay đố kỵ, có thể chung hoạn nạn nhưng chưa chắc ấm no đã cơm lành canh ngọt. Chính điều này đã làm chúng ta khó có thể liên kết với nhau trên thế giới mạng, vốn là một môi trường phát triển nhiều tiềm năng.

Cuối cùng Vũ Khoan đề cập đến thói quen của người Việt Nam, chúng ta có một điểm mạnh ấy là khả năng thích ứng nhanh, chính vì thế dễ dàng làm quen và hội nhập tốt, ứng phó với những tiến trình phát triển phức tạp của thế giới. Bên cạnh điểm mạnh đó, Vũ Khoan cũng chỉ ra rằng chúng ta cũng có những thói quen hết sức xấu, đó là thái độ bài ngoại hoặc sính ngoại quá mức, khôn vặt, bóc ngắn cắn dài và nghiêm trọng hơn cả là thói quen không biết giữ chữ tín. Đó điều là những điểm đại kỵ trong công việc hợp tác làm ăn, là hòn đá cản đường vô cùng lớn trong tiến trình hội nhập và phát triển của nước ta.

Sau khi đã chỉ ra những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam, Vũ Khoan đã đưa ra những lời khuyên, lời kêu gọi thay đổi nội hàm nguồn nhân lực để “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”. Ấy là chúng ta phải “lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu” và muốn có được điều này ông nhấn mạnh tầm quan trọng, có ý nghĩa quyết định của việc thay đổi và giáo dục tầng lớp thanh niên “hãy làm cho lớp trẻ-những người chủ thực sự của đất nước trong thế kỷ tới – nhận ra điều đó, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất”. Sở dĩ nói như vậy bởi tầng lớp thanh niên là nguồn nhân lực lớn và dồi dào nhất, có khả năng, sức khỏe, trí tuệ, cũng là tầng lớp dễ thay đổi, thích nghi, khả năng học tập sáng tạo cao. Khi thay đổi dần những thói quen nhỏ cho tốt thì ắt hẳn rằng với trình độ, trí tuệ và sự phấn đấu của con người Việt Nam chúng ta sẽ sớm sáng vai cùng với các cường quốc năm châu như lời kỳ vọng của Bác.

Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới là một văn bản nghị luận thực tế, Vũ Khoan đã không ngần ngại thẳng thắn nhìn vào những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam. Từ đó đưa ra lời kêu gọi, lời khuyên có sức cổ vũ lớn, không khiến người đọc phải tự ái, mà thay vào đó giúp mỗi người nhận thức được và xem xét để thay đổi bản thân ngày một tốt hơn, tương lai tham gia vào kiến thiết đất nước.

Phân tích bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Mẫu 6

Phó Thủ tướng Vũ Khoan rất quan tâm đến thế hệ trẻ Việt Nam vì ông hiểu rõ rằng chính thế hệ này quyết định tương lai của đất nước. Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ như hiện nay thì muốn đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội, con người cần phải có một khả năng tương đối toàn diện. Sau những nghiên cứu và khảo sát nghiêm túc, kĩ càng về con người Việt Nam, Phó Thủ tướng đã thẳng thắn và chân thành nhận xét trong bài viết Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới đăng trong tạp chí Tia sáng số Xuân 2001:

Cái mạnh của con người Việt Nam chúng ta là sự thông minh và nhạy bén với cái mới… Nhưng bên cạnh cái mạnh đó còn tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề…

Nhận xét trên rất chính xác. Sự thông minh, nhanh nhạy là mặt mạnh không thể phủ nhận trong tố chất của con người Việt Nam. Nhờ vậy, dân tộc ta mới có thể tồn tại và phát triển qua bốn ngàn năm lịch sử đầy thăng trầm, biến động bởi thù trong, giặc ngoài; mới vượt qua được bao thử thách nghiệt ngã, vận nước ngàn cân treo sợi tóc. Nhiều tấm gương thành đạt của người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài đã chứng minh hùng hồn điều đó. Nhưng cũng giống như các dân tộc khác trên thế giới, dân tộc Việt Nam bên cạnh những mặt mạnh còn có không ít mặt yếu. Nhận thức đúng đắn về mặt mạnh, đặc biệt là dám nhìn thẳng vào mặt yếu kém của mình là điều hết sức cần thiết để một dân tộc, một đất nước tiến lên phía trước.

Hiện nay, dân tộc ta đang đứng trước những cơ hội mới của xu thế hội nhập toàn cầu. Để đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng một đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh vào năm 2020 thì ngay từ bây giờ, chúng ta phải đặt yếu tố con người lên hàng đầu. Thế hệ trẻ Việt Nam phải dứt khoát từ bỏ những thói quen và tác phong học tập, làm việc cũ kỹ, lạc hậu; phải tiếp thu và rèn luyện cho mình những thói quen tốt, phù hợp với cuộc sống hiện đại.

Do chịu ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế tiểu nông và hậu quả của các cuộc chiến tranh chống xâm lược kéo dài nên phương pháp giáo dục ở nước ta còn nhiều hạn chế. Học sinh hiện nay thường học lệch, chú trọng nhiều về các môn tự nhiên mà không quan tâm học các môn xã hội như Văn, Sử, Địa. Việc học chay, học vẹt là phổ biến. Vì cơ sở vật chất thiếu thốn nên rất ít trường có được những phòng thí nghiệm đúng quy định. Các môn khoa học tự nhiên như Lý, Hóa, Sinh… phần lớn giáo viên chỉ dạy lý thuyết, có cho học sinh thực hành thì cũng chỉ dừng lại ở những thí nghiệm đơn giản mà thôi. Cho nên kĩ năng thực hành, kĩ năng nghiên cứu khoa học của học sinh hầu như rất yếu.

Một điều cần phải nhắc đến là việc tự học của học sinh hiện nay chưa đạt tới mức độ tự giác và thường xuyên. Nhiều người không hiểu rằng trong quá trình học tập thì số lượng kiến thức tiếp thu được từ nhà trường chỉ là sơ đẳng, ít ỏi; còn số lượng kiến thức tiếp thu từ việc tự học qua sách vở và cuộc sống mới là vô hạn. Cho nên họ chưa tạo cho mình thói quen đọc sách – một thói quen tốt vô cùng cần thiết và quan trọng. Chăm đọc sách, đọc sách có mục đích, có định hướng sẽ giúp chúng ta không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết, làm giàu kho tàng kiến thức, để từ đó có khả năng ứng xử và làm việc tốt hơn.

Phương pháp giáo dục khoa học và chất lượng cao của các nước tiên tiến trên thế giới cần phải được học tập và vận dụng từng bước vào nền giáo dục ở Việt Nam để rút ngắn dần khoảng cách giữa ta và họ. Người Việt Nam đã có ưu thế là tố chất thông minh, nhanh nhạy trước cái mới, cái tiến bộ thì vấn đề này chắc chắn sẽ làm được. Những chủ nhân tương lai hứa hẹn sẽ có đủ tài năng gánh vác trọng trách xây dựng đất nước giàu mạnh.

Muốn ngẩng cao đầu tự tin vững bước, mỗi chúng ta cần phải nhìn nhận và tự đánh giá bản thân một cách nghiêm túc để thấy rõ đâu là mặt yếu cần khắc phục, đâu là mặt mạnh cần phát huy. Tránh tư tưởng chạy theo cốc môn học có tính “thời thượng” như học Tiếng Anh, học vi tính nhưng không phù hợp với khả năng của mình, không theo học đến nơi đến chốn để rồi suốt đời ân hận vì đã bỏ phí thời gian cùng tiền bạc mà chẳng đem lại bao nhiêu lợi ích cho cá nhân và xã hội.

Phân tích bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Mẫu 7

“Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới”. Phó Thủ Tướng Vũ Khoan đã nhấn mạnh trong bài viết “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” của mình. Lần đầu được giới thiệu trên báo Tia sáng năm 2001.

Tham khảo thêm:   Văn mẫu lớp 12: Suy nghĩ về vấn đề giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc 3 đoạn văn mẫu lớp 12

Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất. Từ cổ chí kim bao giờ con người vẫn là động lực phát triển của lịch sử. Trong thế kỷ tới mà ai ai cũng thừa nhận rằng nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ thì vai trò của con người lại càng nổi trội.

Cần chuẩn bị những cái cần thiết trong hành trang mang vào thế kỷ mới, trong khi chúng ta đã chứng kiến sự phát triển như huyền thoại của khoa học và và công nghệ, làm cho tỷ trọng trí tuệ trong một sản phẩm ngày một lớn. Chắc rằng chiều hướng này sẽ ngày càng gia tăng. Một phần dưới tác động của những tiến bộ về khoa học và công nghệ, sự giao thoa, hội nhập giữa các nền kinh tế chắc chắn sẽ sâu rộng hơn nhiều.

Trong một thế giới như vậy, nước ta lại phải cùng một lúc giải quyết ba nhiệm vụ: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đồng thời lại phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức. Làm nên sự nghiệp ấy đương nhiên là những con người Việt Nam với những điểm mạnh và điểm yếu của nó.

Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả thế giới đều thừa nhận là sự thông minh, nhạy bén với cái mới. Bản chất trời phú ấy rất có ích trong xã hội ngày mai mà sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu. Nhưng bên cạnh cái mạnh đó cũng còn tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri thức cơ bản và biến đổi không ngừng.

Cái mạnh của người Việt Nam ta là sự cần cù, sáng tạo. Điều đó thật hữu ích trong một nền kinh tế đòi hỏi tinh thần kỷ luật rất cao và thái độ rất nghiêm túc đối với công cụ và quy trình lao động với những máy móc, thiết bị rất tinh vi. Tiếc rằng ngay trong mặt mạnh này của chúng ta cũng lại ẩn chứa những khuyết tật không tương tác chút nào với một nền kinh tế công nghiệp hoá chứ chưa nói tới nền kinh tế tri thức. Người Việt nam ta cần cù thì cần cù thật nhưng lại thiếu đức tính tỉ mỉ. Khác với người Nhật vốn cũng nổi tiếng cần cù lại thường rất cẩn trọng trong khâu chuẩn bị công việc, làm cái gì cũng tính toán chi ly từ đầu, người Việt Nam ta thường dựa vào tính tháo vát của mình, hành động theo phương châm “nước đến chân hãy nhảy”, “liệu cơm gắp mắm”. Do còn chịu ảnh hưởng nặng nề của phương thức sản xuất nhỏ và cách sống ở nơi thôn dã vốn thoải mái và thanh thản nên người Việt Nam chưa có được thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương. Ngay bản tính “sáng tạo’ một phần nào đó cũng có mặt trái ở chỗ ta hay loay hoay “cải tiến”, làm tắt, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ. Trong một xã hội công nghiệp và “hậu công nghiệp” những khuyết tật ấy sẽ là những vật cản ghê gớm.

Trong một “thế giới mạng”, ở đó hàng triệu người trên phạm vi toàn cầu gắn kết với nhau trong một mạng Internet thì tính cộng đồng là một đòi hỏi không thể thiếu được. Nhân dân ta có truyền thống lâu đời đùm bọc, đoàn kết với nhau theo phương châm “nhiễu điều phủ lấy giá gương”. Bản sắc này thể hiện mạnh mẽ nhất trong cảnh đất nước lâm nguy, ngoại bang đe doạ. Nhưng tiếc rằng phẩm chất cao quý ấy thường lại không đậm nét trong việc làm ăn, có thể do ảnh hưởng của phương thức sản xuất nhỏ, tính đố kỵ vốn có của lối sống theo thứ bậc không phải theo năng lực và lối nghĩ “trâu buộc ghét trâu ăn” đối với người hơn mình ở làng quê thời phong kiến. Ta có thể quan sát thấy điều đó ngay trong cả những việc nhỏ nhặt: ví dụ vào thăm bảo tàng thì người Nhật túm tụm vào với nhau chăm chú nghe thuyết minh, còn người Việt Nam ta lại lập tức tản ra xem những thứ mình thích; người Hoa ở nước ngoài thường cưu mang nhau, song người Việt lại thường đố kỵ nhau.

Bước vào thế kỷ mới, nước ta sẽ hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Bản tính thích ứng nhanh sẽ giúp dân ta tận dụng những cơ hội, ứng phó với thách thức do tiến trình hội nhập đem lại. Nhưng thái độ kỳ thị đối với sự kinh doanh, thói quen ảnh hưởng sự bao cấp, nếp nghĩ sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức đều sẽ cản trở sự phát triển của đất nước. Thói quen ở không ít người thích tỏ ra “khôn vặt”,”bóc ngắn cắn dài”, không coi trọng chữ “tín” sẽ gây tác hại khôn lường trong quá trình kinh doanh và hội nhập.

Bước vào thế kỷ mới, muốn “sánh vai các cường quốc năm châu” thì chúng ta sẽ phải lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu. Muốn vậy thì khâu đầu tiên, có ý nghĩa quyết định là hãy làm cho lớp trẻ – những người chủ thực sự của đất nước trong thế kỷ tới – nhận ra điều đó, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất.

Cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, mang tính tranh biện đầy sức thuyết phục. Những câu tục ngữ, câu ca dao được tác giả vận dụng tạo nên một lối nói dung dị, đậm đà, gợi cho người đọc bao liên tưởng thú vị. Bài văn của Vũ Khoan đã giúp ta một cái nhìn sáng suốt về nhân dân ta, về bản thân mỗi chúng ta. Thế kỉ mới là thế kỉ hi vọng và bừng sáng đối với đất nước và con người Việt Nam.

Phân tích bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Mẫu 8

“Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” là bài báo của Vũ Khoan, lần đầu được giới thiệu trên báo Tia sáng năm 2001. Tác giả là một trong những gương mặt mới của bộ phận lãnh đạo đất nước ta trong thời kì đổi mới, hội nhập. Đối tượng đối thoại của tác giả là “lớp trẻ Việt Nam”, những chủ nhân của đất nước ta trong thế kỉ XXI, thế hệ nối bước ông cha, gánh trên đôi vai mình sứ mệnh lịch sử vô cùng nặng nề là xây dựng Việt Nam trở nên giàu mạnh cường thịnh. Có thể xem câu văn đầu bài luận đã nêu lên ý tưởng chủ đạo của bài luận văn: “Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới”.

Tác giả đặt vấn đề và khẳng định: chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất trong những hành trang mà đất nước ta phải có và cần có. Bởi lẽ con người, từ cổ chí kim “vẫn là động lực phát triển của lịch sử”, “vai trò con người lại càng nổi trội” trong thế kỉ XXI khi nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ. Phải chuẩn bị những cái cần thiết trong hành trang mang vào thế kỉ mới khi mà “sự phát triển như huyền thoại của khoa học và công nghệ…”, khi mà “dưới tác động của những tiến bộ về khoa học và công nghệ, sự giao thoa, hội nhập giữa các nền kinh tế chắc chắn sẽ sâu rộng hơn nhiều!”. Vấn đề thời cơ và thách thức được Vũ Khoan nêu lên và giải thích một cách khúc chiết, sáng tỏ.

Tiếp theo, tác giả nêu lên 3 nhiệm vụ: một là, thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp; hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ba là phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức. Và Vũ Khoan chỉ rõ: “Làm nên sự nghiệp ấy đương nhiên là những con người Việt Nam với những điểm mạnh và điểm yếu của nó”. Có thể nói: Ý chí tự lực tự cường, tinh thần đổi mới hội nhập, và cái nhìn tỉnh táo là tư tưởng bao trùm phần đầu bản luận văn này. Phần thứ hai, tác giả lần lượt nêu lên, giải thích và bình luận những điểm mạnh, những điểm yếu của con người Việt Nam.

Cái mạnh của con người Việt Nam là “sự thông minh sáng tạo”, bản chất tốt đẹp ấy “rất có ích” trong xã hội mới, khi mà “sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu”. Trong cái mạnh đó, dân trí ta lại có “những lỗ hổng kiến thức cơ bản”, “khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế”. Nguyên nhân là do “thiên hướng chạy theo những môn học thời thượng”, “do lối học chay học vẹt nặng nề”. Nếu “không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này”, khắc phục những điểm yếu này “thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri thức cơ bản và biến đổi không ngừng”.

Cái mạnh nữa của dân ta là “sự cần cù sáng tạo” nhưng trong cái mạnh ấy, “lại ẩn chứa những khuyết tật” của con người sản xuất nhỏ như “thiếu đức tính tỉ mỉ”, hành động theo phương châm “nước đến chân mới nhảy ” (thiếu nhìn xa trông rông, còn bị động), “liệu cơm gắp mắm” (làm ăn kiểu cò con, dễ dãi); “chưa có được thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương”. Ngay như bản tính “sáng tạo” cũng chỉ “loay hoay “cải tiến”, làm tắt, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ.

Truyền thống lâu đời “đùm bọc, đoàn kết “của nhân dân ta, làm nên sức mạnh Việt Nam để chiến thắng ngoại xâm, để bảo vệ và xây dựng đất nước. Nhưng do ảnh hưởng của nền sản xuất nhỏ, dân ta lại mang nhiều cái yếu cố hữu như: tính đố kị, lối nghĩ “trâu buộc ghét trâu ăn “(ghen ghét tài năng), tự do tùy tiện, thường đố kị nhau. Con người Việt Nam còn có nhiều điểm yếu khác nữa như thái độ kì thị đối với sự kinh doanh, thói quen ảnh hưởng sự bao cấp, nếp nghĩ sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức. Không ít người lại có thói quen: “khôn vặt”, “bóc ngắn cắn dài”, không coi trọng chữ “tín”. Những cái yếu ấy, những thói quen xấu ấy, theo tác giả “sẽ gây tác hại khôn lường trong quá trình kinh doanh và hội nhập”.

Phần cuối bài báo, Vũ Khoan nêu lên hai điều kiện khi đất nước ta, nhân dân ta bước vào thế kỉ mới, muốn “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” thì phải:

– Một là, phải lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu.

– Hai là, hãy làm cho lớp trẻ – những người chủ thực sự của đất nước – nhận ra điều đó, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất.

Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới là một văn bản độc đáo, đặc sắc. Tác giả đã dũng cảm chỉ ra những cái yếu của con người Việt Nam khi bước vào thế kỉ mới, khi đứng trước vận hội mới, thách thức mới. Giọng văn sắc sảo, nhiệt thành, tâm huyết. Tác giả đứng trên tầm cao của thời đại mới, với ý chí tự cường để trao đổi với thế hệ trẻ những cái mạnh, những cái yếu của dân ta, động viên thanh thiếu nhi Việt Nam vươn lên gánh vác sứ mệnh lịch sử.

Cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, mang tính tranh biện đầy sức thuyết phục. Những câu tục ngữ, câu ca dao được tác giả vận dụng tạo nên một lối nói dung dị, đậm đà, gợi cho người đọc bao liên tưởng thú vị. Bài văn của Vũ Khoan đã giúp ta một cái nhìn sáng suốt về nhân dân ta, về bản thân mỗi chúng ta. Thế kỉ mới là thế kỉ hi vọng và bừng sáng đối với đất nước và con người Việt Nam.

Phân tích bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Mẫu 9

“Chuẩn bị hành trang vào thế kỳ mới” của tác giả Vũ Khoan là một bài viết hay sâu sắc. Nó đã nói thẳng lên vấn đề cốt lõi mà bấy lâu nay rất nhiều người chúng ta biết mà tránh né. Đó là việc phải đổi mới cách suy nghĩ, những tính xấu của người Việt để có thể đáp ứng kịp sự thay đổi của khoa học công nghệ trong thế kỷ mới.

Ngay từ phần đầu của bài viết tác giả Vũ Khoan đã vào thẳng luôn vấn đề rằng: Bấy lâu nay người dân chúng ta thường chỉ biết nhìn vào những ưu điểm của mình như dân ta có tinh thần cần cù, dũng cảm, đoàn kết, sáng tạo…nhưng chúng ta không bao giờ nói tới những đức tính xấu của người Việt mình. Chúng ta vẫn còn những đức tính, thói quen chưa tốt cần phải loại bỏ để chuẩn bị hành trang đưa đất nước vào thế kỷ mới. Tác giả chỉ rõ để đưa đất nước ta thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, tiến lên theo con đường hiện đại hóa, thì chúng ta phải nỗ lực rất nhiều bởi hiện nay đất nước ta đang phải đối đầu với rất nhiều khó khăn, thử thách. Trong đó thế hệ trẻ sẽ là lực lượng tiên phong là trụ cột quyết định sự nghiệp phát triển đất nước trong thế kỷ mới này.

Tác giả chỉ rõ chúng ta cần khắc phục những đức tính còn yếu kém như kém khả năng thực hành, thiếu tính tỉ mỉ, không coi trọng nguyên tắc làm để làm đúng quy trình công nghệ, nhiều khi không có tính tương trợ, tính đoàn kết cộng đồng trong làm ăn, kinh doanh. Để đưa đất nước đi lên chúng ta phải hình thành những thói quen tốt, từ những việc nhỏ nhất. Tác giả Vũ Khoan không dùng cách viết nghệ thuật, thường thấy trong văn chương, mà ông sử dụng những từ ngữ chân thành, đời thường, nhưng lại mạnh mẽ và có sức thuyết phục người đọc người nghe rất cao, bởi tác giả đã đi đúng vào vấn đề trọng tâm. Cách nhìn vấn đề của tác giả vô cùng khách quan không mang tính cá nhân mà tác giả chỉ muốn vì lợi ích chung của cả dân tộc để nói lên những điều còn yếu kém.

Trong mỗi câu viết của mình tác giả đều có thái độ tôn trọng độc giả, lập luận một cách thấu tình đạt lý, giọng văn trầm lặng, điềm tĩnh, sâu sắc giàu tính thuyết phục người đọc. Trong mỗi câu văn của mình tác giả đều phân tích rất chi tiết những cái mạnh và cái yếu của người dân Việt Nam. Chỉ rõ cho chúng ta thấy điều chúng ta đã làm được và điều chúng ta còn chưa có, yếu kém thì cần sửa chữa hoặc khắc phục. Ví dụ như người Việt Nam cần cù, nhiều sáng tạo nhưng chưa có tính khẩn trương…

Tác giả cũng chỉ rõ và so sánh một số đặc tính của người nước Nhật với người nước ta. Người dân nước Nhật cũng rất nổi tiếng bởi tính cần cù nhưng lại thận trọng trong khâu chuẩn bị, không hấp tấp làm gì họ cũng tính toán chi li từ đầu. Người chúng ta có tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết trong chiến tranh nhưng lại đố kỵ, ghen ghét nhau khi hòa bình. Người chúng ta có tính thích nghi cao nhưng lại có tính “khôn vặt” và ít khi biết trọng chữ “Tín”.

Trong phần kết của bài viết tác giả Vũ Khoan chỉ rõ “muốn sánh vai cùng các cường quốc năm châu” thì phải chuẩn bị thật nhiều những điểm tốt, làm nặng hành trang bằng những ưu điểm của mình, và vứt hết, xóa bỏ đi những điểm xấu, điểm còn yếu kém trong đức tính của người dân Việt Nam.

Bài viết này đã nói thẳng lên một vấn đề vô cùng tế nhị, “nhạy cảm” của người dân chúng ta. Bằng ngôn ngữ đời thường, dễ hiểu, tác giả đã chỉ rõ cho chúng ta thấy rõ những cái cần khắc phục, để xây dựng tập quán, thói quen tốt cho mỗi người dân Việt Nam. Qua đó chúng ta sẽ có đủ kinh nghiệm, trí tuệ để bước vào thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa trong kỷ nguyên mới.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích tác phẩm Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới 3 Dàn ý & 9 bài văn hay lớp 9 của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *