Bạn đang xem bài viết ✅ Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Sơ đồ tư duy) Dàn ý & 15 bài văn mẫu hay nhất lớp 9 ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

TOP 15 bài Cảm nhận Mùa xuân nho nhỏ SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp các em học sinh lớp 5 thấy rõ hơn những khát vọng, cùng ước nguyện được hiến dâng cho đời của nhà thơ Thanh Hải.

Mùa xuân nho nhỏ

Qua đó, cũng cho chúng ta thấy rõ tấm lòng yêu mến mùa xuân, cùng những khát khao cháy bỏng, mãnh liệt của nhà thơ Thanh Hải. Mời các em cùng tải 15 bài cảm nhận Mùa xuân nho nhỏ để có thêm nhiều vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 9.

Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

  • Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
  • Dàn ý cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
  • Cảm nhận Mùa xuân nho nhỏ
  • Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ hay nhất (11 mẫu)
  • Cảm nghĩ về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
  • Cảm nhận khi đọc bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
  • Cảm nhận và suy ngẫm của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Dàn ý cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Thanh Hải và bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.
  • Cảm nhận chung về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.

II. Thân bài

1. Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên

– Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong tưởng tượng của tác giả:

  • Các hình ảnh đặc trưng của mùa xuân: hoa tím, sông xanh, bầu trời cao rộng
  • Âm thanh tiếng chim chiền chiện.
  • Giọt long lanh: hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác độc đáo.

=> Tác giả say đắm trong mùa xuân của thiên nhiên đất trời với tâm thế đón nhận trân trọng

2. Cảm xúc trước mùa xuân của đất nước

  • Hình ảnh lộc xuân trên “nương mạ”: cuộc sống lao động xây dựng đất nước của lực lượng sản xuất.
  • Hình ảnh người cầm súng: niềm tin vào ngày mai hòa bình.
  • Từ láy “hối hả” và “xôn xao”: thể hiện nhịp sống lao động khẩn trương vội vã nhưng nhộn nhịp, vui vẻ kết hợp hài hòa với nhau.
  • Đất nước được so sánh với những hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ.
  • Nhắc nhở mọi người nhớ về những tháng ngày gian khổ trong chiến đấu, cách mạng
  • Phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước dù khó khăn gian khổ.

=> Sự lạc quan tin tưởng của nhà thơ ca ngợi sức sống, sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước, dân tộc cho dù trước mắt trải qua nhiều khó khăn, gian khổ

3. Mong ước được cống hiến của nhân vật trữ tình

  • Điệp ngữ “ta” kết hợp với các hình ảnh “con chim hót, một nhành hoa, nhập vào hòa ca”: hòa nhập giữa cái riêng và cái chung.
  • Hình ảnh ẩn dụ “mùa xuân nho nhỏ”: thể hiện khát vọng được cống hiến và sống ý nghĩa được thể hiện một cách thiết tha.
  • Điệp ngữ “dù” kết hợp với “tuổi hai mươi” – còn trẻ, “khi tóc bạc” – già dặn: khát vọng được cống hiện trọn đời.
  • Khát vọng sống với tình yêu quê hương, đất nước: xin được hát câu Nam ai, Nam bình để đón mùa xuân, ca ngợi mảnh đất Huế mộng mơ.

III. Kết bài

  • Đánh giá về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.

Cảm nhận Mùa xuân nho nhỏ

Mùa xuân là để tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:

“Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai”

Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:

“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.”
(Chế Lan Viên)

Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời.

Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”

“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”.

Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của Thanh Hải mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thướt tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ ” mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Trong bức tranh mùa xuân của Thanh Hải, không chỉ có hình ảnh, mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nha của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra vẻ đẹp lạ kì của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn?

Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ. Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.

Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đổng
Lộc trải dài nương mạ

Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…”

Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vã, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn năm lịch sử.

Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ hay nhất

Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1

Cuộc đời là giọt nắng ban mai, là hạt mưa vội vã, là cơn gió dịu mát. Nhà Thơ phải đưa tay hứng lấy những hồn, những sắc của cuộc sống và rót vào đoá hoa thi ca, để bông hoa vươn mình dâng lên cho đời mật ngọt quý giá,hương nhụy trong lành. Hẳn rằng, đã là người nghệ sĩ, có ai cất đi những rung động của trái tim vào chiếc rương khóa chặt, có ai giã từ bốn chữ “tận tâm tận tụy” mà mặc nhiên để “tâm nhãn” ngủ đông khi đứng trước những biến thiên của thế gian. Hiểu được một điều tất lẽ dĩ ngẫu ấy, Thanh Hải đã chắp bút viết nên hồn thơ “Mùa xuân nho nhỏ” khi nhịp thở dần yếu ớt, khi miền đất chết đã cận kề. “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng của người thi nhân đang hấp hối nhưng chớ lầm tưởng rằng tiếng lòng ấy sẽ bi quan, u uất. Thi phẩm là viên ngọc được kết tinh từ niềm ái mộ tha thiết của nhà thơ trước thiên nhiên, đất nước và cũng là nơi Thanh Hải gửi gắm niềm ước nguyện của mình.

Thanh Hải, một trong những thi nhân được nuôi dưỡng trong tiết trời của xứ Huế, gắn bó cả đời người bên người mẹ thứ hai mang tên “Huế”. Ông là một nhà thơ luôn hướng ngòi bút của mình vào lý tưởng sống và tình yêu để từ ấy góp sức vào sự nghiệp dựng xây nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác lúc ông đang ở trên giường bệnh vào những ngày cuối đời. Với giọng thơ hồ hởi, thiết tha đan xen những hình ảnh hồn xuân, sắc xuân, Thanh Hải đã dẫn bạn đọc đến với một mùa xuân tràn đầy tin yêu của mảnh đất Huế kinh kì hoa mộng, của đất nước Việt Nam. Ông còn gửi vào thi phẩm âm hưởng của niềm hi vọng về những vị lai đất nước sẽ tươi sáng hơn, thể hiện một niềm tự hào cùng khát khao tận hiến cho quê hương xứ sở.

Mở Đầu tác phẩm, ông đã trở thành người hoạ sĩ vẽ nên một bức tranh về một mùa xuân rất Huế với những gam màu thật ấm áp:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.”

“Mọc” là vươn lên để đón lấy những nắng gió cuộc đời, là sự trỗi dậy, sự thức tỉnh sau một giấc ngủ đông. Bằng việc vận dụng nghệ thuật đảo ngữ,từ “mọc” đặt ở đầu câu thơ càng tô đậm sức sống mãnh liệt đến bất ngờ của thiên nhiên, tạo vật khi khoác lên mình chiếc áo của sự khởi đầu và hứng lấy những tinh chất quý giá của ngày xuân. Cũng góp vào thi đàn hồn thơ nàng xuân, Chế Lan Viên đã viết “Xuân Về”, về trên màu xanh của tà áo chuối non, màu đỏ của những chùm pháo trước nhà và sắc hồng dịu dàng của hoa đào. Còn Thanh Hải, ông chọn cho mình những gam màu dịu dàng,nên thơ và rất đặc trưng của Huế. Đó là khúc sông uốn lượn tựa như tấm lụa đào thướt tha của dải đất miền Trung quanh co. Phải chăng đó chính là dòng Hương Giang êm đềm, hiền từ ? Dòng sông đó đã hoà nhập với bầu trời xanh thẳm bên trên để biến thân thành một “dòng sông xanh”. Chấm phá trên phông nền xanh xanh ấy là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”.Xuân miền Nam là hoa mai nhuộm màu vàng rạo rực của nắng. Xuân miền Bắc là cành đào e thẹn nép sau chiếc váy màu hồng nhạt. Còn mùa xuân của Huế, mùa xuân của Thanh Hải là một màu tím biếc. Chẳng biết tự bao giờ, mỗi lần nhắc đến tên gọi của vùng đất Cố đô thương nhớ, người tại mường tượng ra một sắc tím thủy chung ôm trọn cả bầu trời. Đến với hồn thơ của Thanh Hải, ta lại thấy sắc tím bình dị thấp thoáng giữa dòng Hương như một biểu tượng ngàn năm của xứ Huế trầm tư, cổ kính.

Cổ nhân từng nói: “Thi trung hữu nhạc” tức trong thơ trữ tình có nhịp điệu hòa quyện với nhạc, chứa đựng những thanh âm của nhà hát cuộc đời. Có lẽ vì vậy, Thanh Hải đã thả trọn những vang vọng của thiên nhiên đang độ xuân về vào vần thơ của mình:

“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.”

Có thứ âm hưởng thật ngọt ngào, dịu dàng trong “ngôn ngữ Huế”. Thanh Hải là một người gắn bó với xứ Huế bằng tình yêu tha thiết, chân thành nên trong giọng thơ trìu mến, thân thương của ông tồn tại hình bóng của từ “Ơi”mộc mạc, gần gũi và lời trách yêu “hót chi mà”. Trong bản trường ca mùa xuân, chàng nghệ sĩ chiền chiện đã cất cao tiếng hát trong veo, thánh thót và ngân nga. Hàng ngày ngồi bên cửa sổ phòng bệnh, màu tím biếc của hoa, sắc xanh của dòng nước và điệp khúc của tiếng chim cứ gợn trong mắt, âm vang bên tai nhà thơ. Đó đều là những hình ảnh, tín hiệu đặc trưng của mùa xuân cố đô. Ông đã nâng lên chén rượu kính đời và “say” trong niềm thổn thức trước thiên nhiên. Tâm trí của nhà thơ như con thuyền nhỏ đi từ bến cõi thực sang bến cõi mộng. Sóng xanh, hoa tím, tiếng chim… đều kết tinh thành giọt:

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.

“Giọt long lanh” – hình ảnh giàu sức gợi và ẩn chứa muôn trùng sắc thái. Đó Phải chăng là dư âm của trận mưa đọng lại trên phiến lá? Hay mùa gió xuân đã thổi những hạt phấn của nắng sớm phủ lên giọt sương mai nơi kẽ lá, như những viên pha lê xinh đẹp ? Có lẽ là tất cả và còn nhiều hơn nữa.Đó cũng là giọt hạnh phúc của tình đời đượm thắm cả đất trời, hòa quyện vào tâm hồn thi sĩ. Trong mối liên kết với câu thơ trước, tiếng chim hồn nhiên, trong trẻo mà da diết dưới vòm trời cao rộng đã kết đọng lại thành từng “giọt âm thanh” rơi xuống hồn người, chạm vào cõi sâu lặng, khuấy lên bao nỗi niềm của nhà thơ. Bằng tâm hồn tinh tế và điểm nhìn nghệ thuật độc đáo, ông đã hình tượng hóa tiếng chim như suối nguồn âm thanh tuôn chảy trong ánh sáng rạng rỡ. Tiếng chim từ chỗ được lắng nghe bằng thính giác chuyển sang thị giác rồi xúc giác. Đó chính là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được Thanh Hải sử dụng một cách tài tình. Thi nhân vội vàng đưa đôi bàn tay để “hứng” lấy thứ quà tặng của thiên nhiên xứ Huế với một sự đón nhận, nâng niu, trân quý như sợ rằng, nếu không làm như vậy thứ âm thanh ngọt lành kia sẽ chìm vào thinh vắng. Đại từ “tôi” được điệp hai lần đã gợi nên khát khao được ôm trọn vào lòng tất cả tinh hoa của cuộc sống, được tận hưởng, chiếm lĩnh và giao hòa với bản hoà tấu mùa xuân.Như vậy, chỉ với vài nét hoạ, đan xen một chút chất nhạc, Thanh Hải đã phác họa được một kiệt tác tuyệt sắc mang điệu hồn thơ mộng, trữ tình của mùa xuân đất Huế căng tràn sức sống. Từ đó, bộc lộ niềm say xưa, ngây ngất của tác giả trước thiên nhiên đất trời mùa xuân.

Vẻ đẹp của mùa xuân kinh thành Huế chính là một nét hoạ thần tình tô đậm cho vẻ đẹp của chốn thiên đường mang tên “mùa xuân con người, mùa xuân đất nước”:

“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”

Không phải ngẫu nhiên mà Thanh Hải sử dụng hình thức sóng đôi nhịp nhàng với hai hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”. Bởi lẽ họ là những người đại diện cho sức mạnh dân tộc. Đồng thời, biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta là chiến đấu ở tiền tuyến và lao động xây dựng hậu phương vững chắc. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “lộc”. Lộc biếc rũ bỏ quá khứ điêu tàn, cũ kĩ để vươn lên sau những cơn mưa xuân rét mướt, những ngày đông giá lạnh trong kén lá đang ngỡ ngàng nhìn vạn vật. Lộc giắt đầy trên lưng “người cầm súng”, phơi phới bước chân ra trận gợi liên tưởng đến cành lá ngụy trang của người chiến sĩ. Lộc mà người chiến sĩ mang đến cho chúng ta là mồ hôi, là giọt lệ, là xương máu mà các anh đổ xuống vì toàn dân, là thành quả của những năm tháng dốc toàn sức toàn lực bảo vệ mùa xuân thanh bình của tổ quốc, là phong bì đỏ của niềm hạnh phúc, an lành gửi đến mọi nhà. Lộc trải dài vô tận trên nương mạ do những đôi tay chai sạn của”người ra đồng” gieo trồng. Những người nghệ nhân ấy đã tô điểm thêm cánh diều xanh của niềm tin, hi vọng đang tung bay trong mùa gió xuân. Lộc mà người nông dân dành tặng cho người, cho đời là dãy bắp, bãi dâu, là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt. Người cầm súng mang theo sức xuân vào trận đánh, người ra đồng gieo mùa xuân trên từng thửa ruộng. Họ đã mang cả hương vị mùa xuân ra trận địa của mình để gặt hái mùa xuân về cho đất nước. Tất cả “như hối hả”, “như xôn xao” mà hoà quyện trong sự phồn thực của mùa xuân. Điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả, xôn xao” làm cho nhịp thơ trở nên sôi động, lời thơ chan chứa niềm hân hoan, rung động. Tác giả đã mang đến âm hưởng của nét sống rộn ràng, nhộn nhịp, khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.

Tham khảo thêm:   Đề thi học sinh giỏi tỉnh Nghệ An năm 2010 - 2011 môn Địa lý lớp 9 Bảng B Sở GD&ĐT Nghệ An

Cung bậc cảm xúc của thi nhân bất giác gói gọn trong nỗi chạnh lòng khi thước phim bốn ngàn năm lịch sử của quê hương, đất nước chợt sống dậy trong nhịp thơ trầm tư, sâu lắng:

“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên “Lịch sử”, mốc thời gian “bốn ngàn năm” đã đi vào tâm thức của biết bao thế hệ. Một lời tổng kết về lịch sử đất nước “bốn ngàn năm” với bao “vất vả”, “gian lao”, với muôn vàn những thăng trầm, gian truân,biến động. Cái nghèo cái đói chẳng buông tha, bão giông, nắng lửa chẳng nương tay, những cơn thủy triều của sự đau thương, mất mát cứ xé nát tâm can. Song, Thanh Hải đã sử dụng hình ảnh so sánh “Đất nước như vì sao” để khẳng định sức mạnh lớn lao, ý chí bất khuất và bản lĩnh can trường của tổ quốc Việt Nam. Vì sao ấy luôn luôn tỏa ra vầng hào quang rạng ngời, sáng tỏa, vững vàng bay lên từng nấc thang của bầu trời rộng lớn để ngày càng văn minh, hạnh phúc. Điệp từ “đất nước” cộng với cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm, đất nước như vì sao” diễn tả nhịp vận động đi lên của lịch sử và khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước. Dằng dặc bốn ngàn năm, ta vẫn là ta, là một quốc gia nhỏ bé trên bản đồ thế giới nhưng lại khiến toàn nhân loại thán phục với những chiến công hiển hách. Đó là ba lần thắng lợi trước đoàn quân Mông -Nguyên hung hãn. Là Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử – mồ chôn của bao đế chế ngông cuồng. Là những năm tháng đấu tranh ngoan cường khiến Mĩ và Pháp phải thua cuộc. Hình ảnh một quốc gia dẫu trải qua bao nhiêu khó khăn, dẫu phải đứng trước những kẻ thù to lớn vẫn không bao giờ cam tâm quỳ xuống đã đi vào hồn thơ của Hạ Văn Thịnh:

“Định mệnh nhắc ta rằng Đất Việt gian truân
Nhưng chữ S chẳng thể nào gục gãy
Người trước ngã, người sau đứng dậy”

Từ “cứ” vang lên như một nốt thăng với khí thế hào sảng. Tiếng thơ là một lời khẳng định hùng hồ và chan chứa niềm tin, niềm tự hào bất diệt của Thanh Hải vào sức sống của dân tộc, vào sự phát triển không ngừng trong tương lai của đất nước.

Tận sâu nơi cõi lòng của nhà thơ dâng trào một nỗi khao khát, một nguyện vọng hiến dâng cho đời tựa như một tia sáng vụt lên khỏi vực thẳm tăm tối nhuốm bệnh hiểm nghèo, như một dòng suối ấm nóng len lỏi đến mọi ngõ ngách của trái tim người thi nhân và người thưởng văn:

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”.

Thanh Hải đã đặt bàn tay xám ngắt của mình lên chiếc vĩ cầm “thơ ca” để tấu lên giai điệu ngọt ngào, du dương, êm ái rót vào tâm hồn, nhẹ nhàng xoa dịu trái tim. Giai điệu ấy hiện lên trong những thanh bằng liên tiếp,những luyến láy, điệp ngữ “ta làm…ta làm…ta nhập”. Tiếng thơ như một lời thủ thỉ tâm tình về niềm ước nguyện của nhà thơ. Thi nhân muốn hoá thân đến tột độ, hóa thân đến trọn vẹn hồn cốt – một sự hoá thân diệu kì. Đó hẳn là nguyên do mà ông sử dụng các động từ “làm” , “nhập”. Cái “ta” ở đây không phải là của riêng tác giả hay một cá thể đơn thân nào khác.”Ta” giờ đây là là một quần thể, một dân tộc. “Ta” đã đồng thanh, đồng điệu với mọi người, chân trời riêng đã hoà quyện với chân trời chung. Những hình ảnh”con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm” dẫu nhỏ bé, đơn sơ nhưng lạ phúng dụ lẽ sống cao đẹp của Thanh Hải. Ông muốn làm một “con chim”trong muôn vàn loài chim, góp vào đời tiếng hót tươi vui, tha thiết làm đắm say lòng người. Ông chỉ xin được làm “một cành hoa” trong xứ sở hoa với đủ đầy những gam màu từ rạng rỡ đến âm trầm. Và người thi sĩ ấy chỉ ước mong được làm “một nốt trầm” lặng lẽ, âm thầm cứ mãi du dương để lại dư âm bồi hồi, xao xuyến trong lòng người. Bản giao hưởng cuộc đời không thể thiếu những nốt trầm ấy. Thanh Hải – “nốt trầm” trong bản hoà ca muôn điệu của đất nước đã để lại trong lòng người đọc hình ảnh một thi sĩ sống với điều tâm niệm thật chân thành, giản dị và tha thiết. Khát vọng được cống hiến của tác giả cũng gặp được nét đồng điệu với nhạc sĩ Trương Quốc Khánh:

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Là người, tôi sẽ chết cho quê hương”

Khát vọng cống hiến sức nhỏ, cống hiến những gì tinh túy nhất của đời người cho đất nước đã làm sáng lên hồn thơ, làm ngân lên âm hưởng của một lẽ sống khiêm tốn, cao cả:

“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”

Mùa xuân là thước đo của thời gian, hạn định của không gian. Song, Thanh Hải đã sử dụng từ láy “nho nhỏ” đã định hình cho khái niệm trừu tượng, thể hiện ước vọng khiêm tốn, dung dị. Tính từ “lặng lẽ” cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn, lối sống và nhân cách không ồn ào, khoa trương. Ông tự nguyện cả cuộc đời cho đi một cách lặng lẽ mà không hề đòi hỏi người ta sẽ nhớ đến danh xưng, ghi tạc vào sử sách. Ví như người lao công lặng lẽ giữ sạch đường phố, người bác sĩ lặng lẽ cứu lấy những sinh mệnh đang hấp hối.Lặng lẽ thôi mà sao ý nghĩa, đẹp đẽ biết bao. Lặng lẽ thôi mà sao như dòng suối mát lành, như ngọn lửa ấm áp. Ngâm khẽ những vần thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, bức thư tự tình của tác giả khiến ta nhớ đến một Sapa lặng lẽ nhưng không tầm thường, những con người cứ lặng lẽ mà miệt mài cống hiến thanh xuân và sức trẻ cho đất nước. Hay trong Áo xanh của Quách Tỉnh Xuân Trường có đoạn:

“Đất nước hòa bình,tôi vẫn mải miết đi
Tiếp bước cha anh,đâu nghĩ gì danh lợi
Ở trong trái tim, cờ sao bay phấp phới
Lý tưởng trau dồi, mãi mãi một niềm tin
Cống hiến sức mình, chẳng cần đợi gọi tên”

“Điệp ngữ “dù là” cùng hình ảnh đánh dấu hai mốc son quan trọng của đời người “tuổi hai mươi” và “ khi tóc bạc” khiến cho lời thơ khẳng khái như một lời hứa, lời tự nhủ rằng sẽ trọn đời cống hiến của nhà thơ. Trên lưng đồi từ tuổi trẻ đến những ngày vãn niên, khát vọng hiến dâng, lí tưởng sống thầm lặng và cao đẹp đã trở thành một lời tuyên thề vững bền, một tâm nguyện thủy chung in sâu vào trái tim người thi sĩ ấy. Tuổi hai mươi với nguồn năng lượng dạt dào, căng tràn sức sống, ông đầy kiên nghị và sôi nổi, hết mình sống vì sự nghiệp xây dựng đất nước. Khi thời gian lưu lại dấu vết trên mái tóc bạc màu, ngọn lửa nhiệt huyết vẫn không bao giờ tắt lịm.Ngọn lửa ấy cứ bập bùng cháy mãi, mùa xuân ấy cứ nho nhỏ mà lại tận tâm tận tụy hoà nhịp cùng “Chín mươi triệu người lấy thân mình chở che Tổ quốc linh thiêng”. (Nguyễn Phan Quế Mai)

Sau những buồn vui, thành bại, quê hương vẫn là nơi đón nhận, là “phòng triển lãm” lưu giữ những gì còn lại của đời người. Khúc ca cuối cùng của Thanh Hải vẫn hướng về vẻ đẹp quê hương, vẫn là khúc ca dành cho Huế:

“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”

Khúc Nam ai là khúc nhạc buồn thương, da diết gợi nên thước phim quá khứ đầy hy sinh, khổ đau mà đất nước đã trải qua. Và trong tiết xuân hiền hoà, ấm áp của hiện tại ta thấy ngân vang khúc Nam Bình – khúc nhạc êm ái, trìu mến. Những âm điệu đặc trưng của Huế đã hoà vào dòng máu của nhà thơ, đã trở thành một phần của linh hồn và luôn thường trực trong “ốc đảo” trái tim. Bằng điệp ngữ “nước non ngàn dặm” kết hợp gieo vần bằng “bình, mình, tình” làm cho âm hưởng bài thơ ngọt ngào, dịu nhẹ như làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế. Bài thơ khép lại với “nhịp phách tiền” rộn ràng,xao động. Đó là điệu nhạc của cuộc sống mới, sức sống mới của dân tộc.Con đò xứ Huế trên dòng sông Hương chở theo những câu hò xao xuyến,bay bổng, điệu hò chậm rãi, miên man, tiếng hò bâng khuâng, da diết rót vào hồn người. Để mỗi khi nghe hò là người ta nhớ đến Huế:

“Tiếng hát đâu mà nghe nhớ
Mái nhì man mác nước sông Hương”.
(Tố Hữu)

Xuân Diệu quan niệm: “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác , hay cả bài”. Thơ hay là hay từ vẻ đẹp bên ngoài đến cốt cách bên trong. “…”chính là một thi phẩm không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn mang những nghệ thuật đặc sắc.Ta dễ dàng nhận thấy bài thơ có cấu tứ “lộ thiên”theo chiều không gian mở. Mạch thơ đi theo trình tự: Xuân thiên nhiên – Xuân con người – Xuân đất nước – Xuân thi sĩ và cuối cùng là Xuân đất Huế quê hương. Nhờ có những biện pháp ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ… đã góp phần làm nổi bật cấu tứ, hình ảnh, hình tượng và ngôn từ của tác phẩm. Mỗi câu thơ đều giàu sức gợi tình, gợi cảm. Đây quả là một bài thơ kết hợp hài hòa bốn yếu tố : ý – tình – hình – nhạc. “Bài thơ không chỉ hay về ý tứ mà còn hay về nhạc điệu. Câu thơ 5 tiếng ngắt nhịp 3/2 xen với 2/3 linh hoạt…Không chỉ ngắt nhịp linh hoạt, nhà thơ còn chú ý dùng vần trắc cuối năm khổ thơ, tạo một âm vang giòn giã như thể nhịp phách tiền…” (Trần Đình Sử, Đọc văn học văn). Thả hồn vào “Mùa xuân nho nhỏ”, ta có thể cảm nhận được chất thi vị trong hồn thơ Thanh Hải.

“Mùa xuân nho nhỏ” là ngọn lửa diệu kì ủ ấm đôi tay xám ngắt của thi nhân.Ngọn lửa ấy như có phép màu truyền hơi thở, truyền tình yêu vào mạch huyết, vào trái tim của nhà thơ. Thi phẩm là tiếng hát của thiên nhiên đất trời, là tiếng nói ngân vang của cõi lòng người con xứ Huế với tình yêu dạt dào dành cho quê hương, đất nước, với khát vọng dâng hiến trọn đời vì tổ quốc. Hồn thơ cứ nhẹ nhàng mà thấm thía, lặng lẽ mà chạm đến ngưỡng rung động vĩnh hằng của trái tim người đọc. Tác phẩm là một minh chứng cho “nghệ thuật vị nhân sinh” bởi lẽ nó đã tác động và khơi gợi được”những ngọn lửa” tư tưởng tích cực, tiến bộ neo đậu trong trái tim độc giả trẻ rằng ta phải sống ý nghĩa, cống hiến hết mình vì dân tộc. Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc trở thành ca khúc vượt thời gian để người đời hiểu thêm nhân cách một thi sĩ, một chiến sĩ.

Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2

Mùa xuân luôn là đề tài phong phú cho các thi nhân thử bút. Đã có không ít bài thơ hay viết về mùa xuân. Nhà thơ Thanh Hải cũng khá thành công khi viết bài thơ Mùa xuân nho nhỏ để nói lên ước nguyện khiêm tốn của mình, ước nguyện được dâng hiến mùa xuân bé nhỏ của mình vào mùa xuân chung của dân tộc, vào xuân bất tận của đất trời.

Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn, sinh ngày 4-11-1930, ở Thừa Thiên Huế. Ông hoạt động cách mạng từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thanh Hải là một trong những cây bút có công lớn trong việc xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Mùa xuân nho nhỏ là bài thơ cuối cùng của Thanh Hải, được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời (1980). Bài thơ thể hiện cái nhìn tươi tắn, lạc quan của tác giả đối với đất nước, với con người Việt Nam trong thời kì cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Mở đầu bài thơ, Thanh Hải dựng lên khung cảnh của một mùa xuân:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi, con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng

Không gian mùa xuân hiện lên trước hết từ một dòng sông xanh với một bông hoa tím biếc. Đây là những hình ảnh vốn rất riêng của quê hương xứ Huế – quê hương yêu dấu của tác giả. Sự hoà hợp giữa màu xanh của dòng sông và sắc tím của bông hoa đã tạo nên một cảm giác mát dịu. Khung cảnh mùa xuân còn gợi lên những âm thanh quen thuộc, vui tươi của con chim chiền chiện, loài chim thường xuất hiện vào mùa xuân, như một dấu hiệu của mùa xuân. Tiếng hót của con chim chiền chiện vang trời đã làm cho không khí mùa xuân trở nên náo nức lạ thường. Tiếng chim chiền chiện đã được cụ thể hoá, hình tượng hoá. “Từng giọt long lanh rơi / Tôi đưa tay tôi hứng” là một hình thức chuyển đổi cảm giác. Âm thanh vốn chỉ nghe thấy, nhưng được chuyển đổi nên có thể cảm nhận, nhìn thấy và có thể tiếp xúc được. Ngay trong đoạn mở đầu, chúng ta đã hình dung được tâm trạng say mê, đầy hào hứng của nhà thơ trước mùa xuân mới của đất trời.

Bài thơ được viết khi cả nước đang trong không khí xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong không khí chung đó, không thể thiếu hình ảnh của những người đã cầm súng bảo vệ Tổ quốc và những người làm ra hạt gạo nuôi sống bao thế hệ:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy bên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.

Những người đang ngày đêm cầm súng bảo vệ tổ quốc và những người góp phần xây dựng quê hương đã được tác giả nhắc đến đầu tiên trong bài thơ. Đó là những người đã chịu nhiều hi sinh trong kháng chiến cũng như trong thời bình. Mùa xuân hiện hữu trong tất cả các hoạt động, mùa xuân theo người chiến sĩ ra mặt trận, mùa xuân theo người nông dân ra đồng. Mùa xuân không còn là khái niệm thời gian mà đã trở thành người bạn của những người ngày đêm làm giàu và mang lại bình yên cho dân tộc. Xuân trong thơ Thanh Hải gần như đã có hồn và dường như thật hối hả trong nhịp sống chung của dân tộc. Nhắc đến hình ảnh người lính, tác giả không quên lịch sử hào hùng của dân tộc:

Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.

Bằng những câu thơ giản dị, tác giả đã khái quát một cách cô đọng lịch sử của dân tộc, Chặng đường dân tộc đã đi qua thật dài và nhiều chông gai. Nhưng không vì thế mà làm cho bước đi của dân tộc bị chậm lại. Đất nước vẫn như những vì sao tiến lên phía trước. Câu thơ chính là lòng tin và niềm tự hào của tác giả vào đất nước, vào Đảng, vào sự nghiệp cách mạng. Cảm động biết bao khi đó là lời của một người đang nằm trên giường bệnh và sắp từ biệt cõi đời. Phải là người có sức sống, niềm lạc quan và tin tưởng nồng nhiệt mới có được những vần thơ như thế.

Nhan đề Mùa xuân nho nhỏ mang nhiều ý nghĩa. Mùa xuân với khái niệm thời gian đã được tác giả chuyển thành khái niệm của một sự vật nhất định. Chủ đề của bài thơ bộc lộ rõ qua đoạn thơ:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập trong hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

Đến đây cái tôi đã được thay bằng cái ta và cảnh vật của thiên nhiên trong mắt quan sát của nhà thơ đều được thu nhỏ lại trong cái ta ấy. Mỗi một bông hoa, mỗi một tiếng chim, mỗi cảnh vật thiên nhiên đều góp phần tạo nên mùa xuân chung của đất nước. Và ta là tác giả cũng là một con người cụ thể, ta hãy như con chim chiền chiện, như bông hoa tím biếc trên dòng sông xanh, như một nốt trầm trong bản hoà ca xao xuyến của dân tộc. Cái ta chỉ khiêm tốn giữ vị trí của nốt trầm trong bản nhạc. Mỗi con người đều là một mùa xuân nho nhỏ, cống hiến sức lực và cuộc đời của mình để làm nên mùa xuân lớn của đất nước, của dân tộc.

Tham khảo thêm:   Đề thi học sinh giỏi khu vực Bắc Bộ năm học 2011 - 2012 môn tiếng Pháp lớp 10 Đề thi học sinh giỏi

Khổ thơ cuối cùng là lời tâm tình của tác giả, lời của một đứa con nói với quê hương:

Mùa xuân – ta xin hát Câu Nam ai
Nam bình Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.

Khổ thơ mang đậm làn điệu dân ca xứ Huế và là khổ thơ duy nhất trong bài có hình ảnh Huế – quê hương của tác giả. Không vì thế mà bài thơ không chứa trong đó tình cảm của tác giả đối với quê hương. Cái hay của câu thơ ở chỗ đã đúc kết được tất cả vẻ đẹp của mùa xuân, của xứ Huế thơ mộng và chất chứa trong đó là nỗi niềm của một người con đang sống những ngày cuối cùng của cuộc đời.

Bài thơ được viết khi tác giả phải nằm trên giường bệnh nhưng vẫn tràn đầy lòng yêu đời, yêu cuộc sống và hơn cả là tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm của nhà thơ đối với đất nước. Đó chính là thông điệp Thanh Hải gửi đến tất cả mọi người: “Hãy góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân chung của đất nước, của dân tộc”.

….

Cảm nghĩ về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Mùa xuân là mùa của những sự khởi đầu mới, mùa mà vạn vật như hồi sinh, mùa mà nhựa sống của thiên nhiên và con người dâng trào mãnh liệt nhất. Mùa xuân cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những thi sĩ yêu thiên nhiên. Và Thanh Hải cũng là một trong những người thi sĩ như thế! Bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết, tình yêu đất nước nồng nàn và khát vọng cao đẹp của mình, Thanh Hải đã sáng tác Mùa xuân nho nhỏ – bài thơ đẹp đẽ ghi dấu ấn cuộc đời của ông.

Nhắc đến những bài thơ về mùa xuân, người ta có thể ngay lập tức nhớ tới Vội vàng của Xuân Diệu – một bài thơ xuân ngọt ngào, thắm đượm:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân đã già”

Thế nhưng, người ta cũng không thể nào quên được hình ảnh của một mùa xuân thấm đẫm tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước và khát vọng được dâng hiến cháy bỏng của Thanh Hải trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được.

Nếu như Xuân Diệu bắt đầu bài thơ xuân của mình bằng một ước muốn rằng:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Thì Thanh Hải lại mở đầu bài thơ xuân của mình bằng cả một không gian rộng lớn bao la với chim chóc, hoa lá, với dòng sông, … trong trí tưởng tượng của mình:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Tại sao nói tất cả không gian rộng lớn kia, tất cả tạo vật đang hoan hỉ trong bức tranh kia là trong tưởng tượng của tác giả? Đó là bởi vì khi ông viết lên những dòng thơ đầu tiên của bài thơ này, ông đang nằm dưỡng bệnh tại quê nhà ở Huế của mình vào tháng mười một năm 1980. Ấy thế mà cả mùa xuân hiện lên thật rực rỡ, thật đậm sắc qua từng hình ảnh thơ của Thanh Hải. Ông đã khắc họa cái không gian rộng lớn, thoáng đãng khi mùa xuân ào đến, cùng với sắc hoa, cùng với chim chóc và dòng sông, tạo nên một bức tranh mùa xuân đẹp tuyệt vời.

Xuất hiện ngay ở dòng thơ đầu tiên là hình ảnh của một bông hoa nhỏ, mọc lên từ giữa dòng sông xanh biêng biếc. Chỉ có “một bông hoa tím biếc” như là một dấu hiệu báo cho con người và vạn vật rằng nàng xuân đã đến rồi. Bông hoa ấy chẳng phải màu đỏ rực, chẳng phải màu vàng phai, hồng thắm mà lại là màu “tím biếc”. Đây là màu sắc đặc trưng của quê hương ông – xứ Huế mộng mơ. Người ta biết đến Huế với những nhịp cầu Tràng Tiền nhịp nhàng với những tà áo dài Huế tím biêng biếc say mê, thế nên chẳng phải tự nhiên mà ông mang cái màu sắc đặc trưng ấy vào trong dòng thơ đầu tiên của Mùa xuân nho nhỏ. Đó phải chăng là một tình yêu thương thắm thiết với quê hương mà Thanh Hải muốn gửi gắm qua từng dòng thơ của mình?

Xứ Huế còn được đặc trưng bởi dòng sông “trăm thứ hương đổ về” – sông Hương. Và Thanh Hải đã đặt dòng sông ấy vào ngay trong câu thơ đầu tiên như để tri ân với quê hương. Một dòng sông Hương “xanh” biêng biếc đang lững lờ uốn lượn, trải dài trước mắt của chúng ta. Nó đang chở trên lưng mình một trong những dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân, đó là một bông hoa “tím biếc”. Bông hoa ấy “mọc” lên ở giữa dòng sông, đột ngột, bất ngờ như báo hiệu mùa xuân đến thật bất chợt. Động từ “mọc” được ông đảo lên ngay đầu câu thơ càng làm cho chúng ta thấy rõ sự xuất hiện quá đỗi bất ngờ của bông hoa ấy. Bông hoa ấy không phải màu hồng phai, màu đỏ rực, … mà lại mang một màu tím – sắc màu thân thương của xứ Huế. Bông hoa ấy nở giữa dòng sông, ánh lên trong ánh nắng mới lóng lánh.

Không gian mùa xuân trong trí tưởng tượng của Thanh Hải không chỉ có hoa xuân mà còn những chú chim nhỏ bé nữa. Những chú chim ấy cũng như bông hoa kia, cũng là một người đưa tin cho mùa xuân. Giữa không gian bao la của bầu trời cao rộng, chú chim rướn mình, cất lên tiếng hót lanh lảnh, gọi mùa xuân về. Loài chim mà Thanh Hải miêu tả ở đây là “chim chiền chiện” – một loài chim quen thuộc, gắn bó thân thiết với nhà nông. Chú chim ấy cất tiếng hót vang, và nhà thơ đã không ngần ngại mà cất tiếng gọi:

“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”

Đây có phải chăng là một tiếng trách cứ, hờn dỗi đáng yêu của nhà thơ với chú chim đáng yêu kia chăng? Ông cất tiếng gọi “ơi” với chú chim, tiếng gọi tha thiết, thân thương như đối với một người thân thuộc. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa chú chim ấy như một con người thực thụ, và con người ấy đang cất tiếng gọi mùa xuân về. Câu thơ tiếp theo, nhà thơ trách cứ chú chim “hót chi mà vang trời”, nghe thật đáng yêu làm sao! Chữ “chi” là giọng điệu mang âm hưởng của xứ Huế thân yêu. Tiếng chim lanh lảnh xuyên qua tầng không, vang vọng trong tâm trí, tâm hồn nhà thơ khiến ông rạo rực quá! Nằm ở giường bệnh, nhưng ông muốn cất bước thật nhanh ra ngoài kia mà tận hưởng cho hết cái không khí của mùa xuân đang tràn về.

Thế nhưng, đặc sắc nhất trong đoạn thơ này phải kể tới hai câu thơ cuối của khổ thơ. Chỉ với hai câu thơ này, Thanh Hải đã dường như nắm bắt được cái hồn của mùa xuân:

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Tiếng chim trên cao vọng xuống từng hồi lảnh lót, gọi nàng xuân về trong yêu thương. Tiếng chim ấy dường như đang cô đặc lại dần thành từng giọt mà nhỏ xuống thế gian, để thế gian bắt đầu một nguồn sống mới. Từng giọt mật mùa xuân trên cao rơi xuống, nhà thơ bất chợt đưa tay ra “hứng” lấy nó như để bắt trọn mùa xuân trong tay. Đọc thơ mà người ta như thấy được hình ảnh của Thanh Hải đang nâng niu hứng từng giọt mật xuân rơi xuống trong niềm vui, đắm đuối vô tận. Ở đây, Thanh Hải đã vô cùng tinh tế khi sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác để miêu tả về mùa xuân. Mùa xuân không còn là một thứ vô hình nữa mà đối với nhà thơ,, mùa xuân trở thành một thực thể hữu hình mà ông có thể sờ, “hứng”, chạm và nếm thử. Hành động “hứng” giọt mùa xuân của nhà thơ là một hành động của một con người mang trong mình tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với mùa xuân. Với ông, tận hưởng mùa xuân trọn vẹn phải là sự tận hưởng ngay trong giây phút đầu tiên. Phải nhớ rằng, lúc này, nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, vậy mà chỉ bằng trí tưởng tượng của mình, ông đã dựng lên bức tranh mùa xuân đẹp đến như thế!

Bức tranh mùa xuân của Thanh Hải được dựng lên trong niềm yêu thương tha thiết với thiên nhiên. Bức tranh ấy được ông mường tượng ra trên giường bệnh nhưng lại mang đậm nét linh hồn xứ sở quê hương Huế thân yêu, vừa giản dị lại vừa gần gũi vô cùng. Có lẽ, trong giây phút ấy, Thanh Hải đã khao khát cháy bỏng được rời khỏi giường bệnh, được bước ra ngoài với thiên nhiên, được ôm trọn thiên nhiên vào lòng để mà tận hưởng cái không khí mùa xuân đang dâng tràn trong tâm trí mình.

Viết bài thơ về mùa xuân, Thanh Hải còn dựng lên bức tranh mùa xuân của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đây như là một cách thức để ông biểu đạt tình yêu quê hương của mình:

“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…”

Nếu như mùa xuân của thiên nhiên với dấu hiệu là những bông hoa tím, là tiếng hót của những chú chim “chiền chiện” thì mùa xuân của đất nước lại được đánh dấu bằng hình ảnh của “người cấm súng” và “người ra đồng”.

Như chúng ta đã biết, năm 1980, đất nước ta đang bước vào công cuộc xây dựng mạnh mẽ với hai nhiệm vụ chính là chiến đấu và sản xuất. Vậy nên, Thanh Hải đã dùng hải nhiệm vụ này để miêu tả về mùa xuân của đất nước. Mùa xuân hiện lên trên vai “người cầm súng” là những cành lộc non “giắt” trên lưng áo ngụy trang. Những chồi non xanh biếc ấy như những niềm hy vọng, sự tin tưởng và sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam qua bao thời kỳ. Còn mùa xuân của “người ra đồng” là những “lộc” non của lúa, của mạ non để cấy cày, sản xuất, trở thành hậu phương vững chắc cho những người anh hùng “cầm súng”.

Có thể thấy, sản xuất và chiến đấu luôn luôn song hành cùng nhau, bởi chỉ có vậy chúng ta mới có thể cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước chúng ta phát triển ngày một tươi đẹp hơn. Đọc khổ thơ, người ta nhận thấy rằng mùa xuân của hai nhiệm vụ của đất nước đã hòa làm một thành mùa xuân của Tổ quốc, mùa xuân của hòa bình và phát triển.

Giữa sự chuyển mình của đất nước, tất cả vạn vật của Tổ quốc ta dường như cũng đang vội vã, “hối hả” chuyển mình. “Tất cả” đều “xôn xao”, “hối hả” trong công cuộc đổi mới ấy. Hai từ láy liên tiếp “hối hả”, “xôn xao” như diễn tả sự mau lẹ, sự nhanh chóng, gấp gáp của con người cũng như mọi vật. Tất cả như muốn góp một phần sức lực của mình để chung tay xây dựng mùa xuân của đất nước.

“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”

Điệp từ “như” được Thanh Hải sử dụng trong hai câu thơ như để diễn tả nhịp điệu khẩn trương, mau lẹ. Cả đất trời, con người đang giao hòa thật hối hả, thật gấp gáp, thúc giục mọi người qua từng câu chữ. Ngay chính tác giả, dường như ông cũng đang rạo rực, muốn được hòa mình vào cùng mọi người để xây dựng Tổ quốc.

Đây là hình ảnh của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới, không còn chiến tranh, chỉ còn công cuộc xây dựng đất nước đi lên trong hòa bình, tạo nên một mùa xuân rực rỡ cho dân tộc Việt Nam.

Không chỉ nhìn ngắm thực tại, Thanh Hải còn hồi tưởng qua từng dòng thời gian của lịch sử dân tộc, nơi khởi nguồn cho mạch sống trường tồn của đất nước. Nhịp thơ ở đây không còn gấp gáp, hối hả như khổ thơ trên mà nhẹ nhàng, chậm rãi như một cuốn phim quay chậm. Những thước phim ấy đang sống dậy những trang sử hào hùng của dân tộc ta.

“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”.

Trải qua “bốn ngàn năm” dựng xây và giữ nước, những “vất vả và gian lao” mà dân tộc ta đã trải qua là những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trải dài từ khi vua Hùng Vương dựng nước và tới tận gần đây nhất là hai cuộc chiến tranh chống Pháp và đế quốc Mỹ. Ẩn sau từng câu chữ, người ta như thấy được niềm xúc động, tự hào của Thanh Hải trước công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử xa xôi ấy.

Đất nước đẹp như một bức tranh và sáng như một vì sao tỏ. Thanh Hải đã không ngần ngại mà so sánh hình ảnh của một Việt Nam kiên cường như một vì sao sáng trên bầu trời. Đây là niềm tự hào của Thanh Hải về non sông, đất nước Việt Nam, một đất nước mà luôn chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, lúc nào cũng tỏa sáng rực rỡ “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.

Bức tranh về mùa xuân của đất trời, mùa xuân của đất nước được Thanh hải truyền tải bằng tất cả sự trân trọng, tự hào và yêu thương nhất. Nếu mùa xuân của thiên nhiên vạn vật là những màu sắc tươi thắm nhất, những dấu hiệu đẹp đẽ nhất thì mùa xuân của đất nước lại đến cùng với công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, cùng với những con người “hối hả”. Dân tộc ta như Thanh Hải đã nói, đã trải qua bốn ngàn năm thăng trầm nhưng vẫn vững vàng “đi lên phía trước” – đây là niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai của dân tộc ta.

Mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước tươi đẹp là thế vậy mà tác giả lại phải nằm trong giường bệnh. Vậy nên, những khổ thơ cuối cùng của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ấy, ông đã viết lên ước nguyện, khát vọng của mình, giản dị mà chân thành vô cùng:

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Một nốt trầm xao xuyến
Ta nhập vào hòa ca”

Liên tiếp ở các câu thơ, nhà thơ đã sử dụng động từ “ta làm” để biểu đạt cái khát khao tột độ đang cháy bỏng ở trong tim mình. Ông ước được làm một “con chim hót”, “một cành hoa” nhỏ bé mà dâng hiến cho đời. Những vật ông ao ước trở thành đều là những vật nhỏ bé, tầm thường trong cuộc sống, thế nhưng ông lại khao khát được trở thành để được cống hiến cho cuộc đời. Ông ước mình trở thành “một nốt trầm xao xuyến” – một nốt lặng bé nhỏ giữa bản nhạc tươi vui của cuộc đời. Mong ước ấy thật nhỏ nhoi, thế nhưng lại chân thành, tha thiết biết bao nhiêu.

Thanh Hải ước được trở thành “một mùa xuân nho nhỏ” để “lặng lẽ” hòa mình vào thiên nhiên, đất nước để mà dâng hiến cho cuộc đời, cho Tổ quốc, chẳng cần hào nhoáng, chẳng cần được tôn vinh. Bất cứ ở độ tuổi nào, ông cũng muốn được cống hiến, được hi sinh hết mình cho Tổ quốc thân yêu, dù là lúc còn là một chàng thanh niên hai mươi tuổi tràn trề nhiệt huyết hay là giờ đây, khi đã là một ông già tóc bạc. Điệp từ “dù là” như một lời khẳng định mạnh mẽ ước vọng của nhà thơ.

“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”

Lời thơ như những lời khẳng định tình yêu tha thiết của Thanh Hải dành cho Tổ quốc, dành cho cuộc sống tươi đẹp. Bởi có yêu tha thiết quê hương, cuộc sống, ông mới khao khát cháy bỏng được cống hiến, được dâng hiến cho cuộc đời đến như thế, đặc biệt là lúc này, khi ông đang năm trên giường bệnh. Cái khát khao ấy cháy bỏng trong tim ông, chưa lúc nào, ông thôi khao khát được cống hiến hết mình cho cuộc đời cả.

Qua những khổ thơ trên, người ta có thể thấy Thanh Hải yêu quê hương, non sông đến thế nào, đặc biệt là xứ Huế thân thương. Chắc có lẽ bởi vì thế mà khép lại bài thơ, Thanh Hải đã cất lên một khúc hát với giai điệu quen thuộc của xứ Huế:

“Mùa xuân tôi xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”

Những điệu hò “Nam ai, Nam bình” đều là những khúc ca quen thuộc của xứ Huế. Nếu khúc Nam ai là giai điệu buồn thương, da diết thì Nam bình lại dìu dặt, trìu mến. Cả hai điệu hát đều được cất lên trên nhịp phách tiền đặc trưng của dân ca Huế. Thế mới biết, Thanh Hải gắn bó khăng khít và yêu thương xứ Huế đến nhường nào. Ông đã đặt nó vào trong tim mình, mang cả vào đó điệu hò quen thuộc của quê hương.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải được viết bằng thể thơ năm chữ quen thuộc với nhịp điệu uyển chuyển. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc đời của tác giả, đồng thời nó cũng thể hiện một khát vọng cháy bỏng mà chân thành của nhà thơ đó là được góp phần làm nên mùa xuân của đất nước.

Thanh Hải đã khéo léo sử dụng những biện pháp tu từ linh hoạt như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, … để bộc lộ tình yêu của mình.

Tham khảo thêm:   Đề thi tốt nghiệp THPT tiếng Nga chương trình chuẩn và nâng cao (2012 - Mã đề 513) Đề thi TN THPT tiếng Nga

Viết bài thơ vào những ngày tháng cuối của cuộc đời, thế nhưng lời thơ của Thanh Hải lại không có một chút bi lụy mà thay vào đó, người ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, Tổ quốc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai của đất nước cũng như khát vọng cháy bỏng của ông.

Cảm nhận khi đọc bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Thanh Hải là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn chương cách mạng miền Nam thời chống Mĩ cứu nước. Ông sinh ra, sống, chiến đấu gắn bó với miền Thừa Thiên – Huế. Thơ của ông là tiếng lòng của đồng bào Trị Thiên – Huế lúc cất lên tiếng thét căm hờn tố cáo tội ác giết người của giặc, lúc thủ thỉ khúc tâm tình của đồng bào, chiến sĩ, lúc tha thiết một niềm kính yêu Bác Hồ… Những bài Mồ anh hoa nở, Núi vẫn nhớ người vẫn thương, Cháu nhớ Bác Hồ, A Vầu không chết… của ông được nhiều người tìm đọc với bao xúc động, mến thương. Thời gian này thơ Thanh Hải đã được tặng giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu.

Sau khi thống nhất đất nước, ông tham gia lãnh đạo Hội văn nghệ Bình – Trị – Thiên song không ngừng sáng tác. Bài Mùa xuân nho nhỏ và một số bài thơ khác của ông đã được dư luận đánh giá là tác phẩm hay, phản ánh tâm hồn lạc quan, cái nhìn tươi trẻ của người Việt Nam trong giai đoạn xây dựng đất nước.

Bài Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải viết vào tháng 11-1980. Lúc đó đất nước đang có những khó khăn: chiến tranh biên giới, nền kinh tế chưa ra khỏi chính sách bao cấp… song công cuộc kiến thiết vẫn rộn ràng khắp nơi. Bài thơ đã phản ánh được tâm trạng của nhân dân ta: vui phóng khoáng, bay bổng nhưng không phải không còn những trăn trở. Vì lẽ đó bài thơ đã mau chóng được bạn đọc yêu mến, được phổ nhạc và bài hát lập tức được nhiều người ưa thích.

Bài Mùa xuân nho nhỏ giàu nhạc điệu. Có lẽ chính thể thơ năm chữ cùng với cách gieo vần đầy biến hóa tạo cho bài thơ một ưu thế diễn tả niềm vui có phần nhí nhảnh yêu đời của “mùa xuân nho nhỏ” kia. Các nhạc điệu của ngôn từ lại được nâng lên bởi chất nhạc, chất thơ của những hình tượng đẹp trong bài. Hãy đọc lại khổ thơ đầu để có thể thấy hết sự hòa quyện giữa nhạc và thơ trong từng chữ, từng dòng:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Trong khổ thơ này có chim và hoa, chim hót vang trời, hoa tím biếc; có trời và sông, trời rộng và sông xanh. Cảnh gợi một không gian phóng khoáng, bay bổng nhưng lại đằm thắm, dịu dàng, tươi mát, một không gian rất Huế. Không gian ấy càng đậm chất Huế hơn nhờ cách dùng đúng chỗ những ngôn từ đặc biệt Huế. Một từ “ơi!” đặt đầu câu thơ, một từ “chi” đi liền sau động từ “hót” đã đưa thẳng cách nói dịu ngọt, êm ái, thân thương của người Huế vào nhạc điệu của khổ thơ để gợi thương, gợi nhớ, cả khổ thơ dần tới một hình ảnh đẹp:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Tiếng chim hót giữa trời xanh tưởng như vô hình này lại được hình ảnh hóa thành “từng giọt long lanh rơi” là một sáng tạo rất gợi cảm của nhà thơ. Một động tác “hứng” đủ diễn tả sự trân trọng của thi nhân đối với vẻ đẹp, chất nhạc của trời với sông, của chim với hoa, đồng thời thể hiện sự đồng cảm của tâm hồn thi nhân trước thiên nhiên và cuộc đời.

Chất nhạc, chất thơ của bài Mùa xuân nho nhỏ được cất lên từ chính cuộc sống vốn “vất vả và gian lao” đang hối hả “đi lên phía trước” của cả một đất nước mang đầy thương tích của hai cuộc chiến tranh và cũng đang phải đối phó với giặc ngoài nhưng vẫn hăm hở dựng xây cơ đồ của mình.

Một đặc sắc khác của bài thơ là sự diễn tả nhân vật trữ tình một cách thoải mái, dung dị và luôn biến đổi. Nhân vật ấy, lúc đầu xuất hiện trong tư thế một thi nhân đang hòa mình vào thiên nhiên. Tiếng “tôi” thốt ra từ thi nhân thật thân thiết, dịu nhẹ, khiêm nhường biết bao:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Cùng với sự vận động của tứ thơ, cách biểu hiện của nhân vật trữ tình cũng thay đổi. Chuyển từ cảnh mùa xuân của đất trời, của thiên nhiên sang cảnh mùa xuân của cuộc sống cách mạng, của nhân dân, của đất nước:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
….
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Ở đây, “ta” là nhà thơ và cũng là tất cả mọi người. Sự chuyển đổi của nhân vật trữ tình không có sự gượng gạo, giả dối. Đọc khổ thơ, chúng ta vẫn thấy một cách diễn đạt hào hứng, sảng khoái và tự nhiên. Ta làm con chim, làm một cành hoa, làm một nốt trầm, ta trở thành người mang lại niềm vui cho cuộc đời một cách khiêm tốn, đáng yêu.

Ở hai khổ thơ cuối, mùa xuân được chuyển thành mùa xuân của lí tưởng, của tiếng lòng cao cả. Đây là tiếng hát của con người muốn cống hiến sức mình cho cuộc sống cách mạng, cho đất nước không biết đến tuổi tác, coi đó là niềm ủi và lẽ sống. Nhân vật trữ tình lúc này không còn là “tôi” hay “ta” nữa, bỗng biến thành:

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

Cái công việc “lặng lẽ dâng cho đời” dù ở lứa tuổi nào đâu có còn là của riêng ai. Nó là khát vọng sống của cả một thời đại, của tôi, của bạn, của cả thế hệ chúng ta. Chính sự chuyển đổi như vậy của nhân vật trữ tình đã làm cho hai khổ thơ cuối tuy vẫn được diễn tả bằng giọng thơ nhỏ nhẹ nhưng lại mang sức khái quát lớn, có ý nghĩa triết lí.

Mùa xuân nho nhỏ là một bài thơ hay vì đã nói được những tình cảm lớn, những xúc động lớn của chính tác giả và của cả một thời đại.

Cảm nhận và suy ngẫm của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Cứ mỗi dịp tết đến xuân về chúng ta không thể nào quên Thanh Hải với “Mùa xuân nho nhỏ” đã góp vào thơ ca truyền thống dân tộc một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Bài thơ được viết năm 1980 khi tác giả đang trên giường bệnh, được xem là lời tâm niệm đáng trân trọng trước lúc ra đi. “Mùa xuân nho nhỏ” của ông đã nói lên lẽ sống, ý nghĩa của đời sống con người bằng cảm xúc thật, là điều tâm niệm chân thành, thiết tha với giọng thơ nhỏ nhẹ tâm tình.

Bài thơ bắt đầu bằng cảm xúc trực tiếp, hồn nhiên trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Từ đó mở ra thành hình ảnh mùa xuân của đất nước. Từ mạch cảm xúc ấy nhà thơ bộc lộ suy nghĩ và ước nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn và kết thúc bài thơ là niềm tự hào về quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.

Bằng những hình ảnh chọn lọc đặc sắc nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân với dòng sông xanh, một bông hoa tím biếc và tiếng chim chiền chiện:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.

Bức tranh xuân còn tràn trề sức sống được thể hiện qua nghệ thuật đảo ngữ. Động từ “mọc” làm vị ngữ đặt trước bộ phận chủ ngữ, đặt ở đầu khổ thơ và bài thơ là một dụng ý nghệ thuật. Nó không những tạo cho người đọc ấn tượng đột ngột bất ngờ, mới lạ mà còn làm cho hình ảnh sự vật trở nên sống động như đang diễn ra trước mắt. Tưởng như bông hoa tím kia đang từ từ mọc lên trên dòng sông xanh. Qua vài nét phác họa nhưng tác giả đã vẽ ra được cả không gian mênh mông với những gam màu xanh – tím mang đậm đặc trưng xứ Huế.

Trong không gian ấy tiếng chim chiền chiện hót trên bầu trời xuân làm cho cảnh trở nên tươi vui rộn ràng, ấm áp và náo nức, nhà thơ trực tiếp bộc lộ cảm xúc một cách cao độ:

Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.

Với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: từ thính giác (nghe tiếng chim hót), thành thị giác (thấy tiếng chim đọng thành giọt long lanh như có ánh sáng) và xúc giác (đưa tay hứng tiếng chim). Hình ảnh có cái phi lí nhưng có thể chấp nhận trong thơ, một sự sáng tạo hợp lí để biểu hiện cái cảm xúc ngây ngất say sưa của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân.

Từ mùa xuân thiên nhiên, đất trời, nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước với hình ảnh “người cầm súng”, “người ra đồng”:

“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”

Bằng cấu trúc song hành chỉ hai nhiệm vụ chiến lược sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta. “Lộc” là chồi non lộc biếc mơn mởn. Khi xuân về cây cối đâm chồi nảy lộc. “Lộc” trong văn cảnh này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt của đất nước. Người lính khoác trên lưng vòng lá ngụy trang xanh biếc, mang theo sức sống mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ Quốc. Người nông dân đem mồ hôi và sức lao động cần cù làm nên màu xanh ruộng đồng” trải dài nương mạ” bát ngát quê hương. Ý thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi.

Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương náo nhiệt:

“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”

“Hối hả” nghĩa là vội vã. gấp gáp, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh xen lẫn vào nhau làm náo động; Trong câu thơ”xôn xao” chỉ niềm vui đang dâng lên, cặp từ láy “hối hả”, “xôn xao” với điệp ngữ ” Mùa xuân”, “Lộc”, “Tất cả như…” làm cho câu thơ vang lên với nhịp điệu vui tươi mạnh mẽ khác thường. Đó là hành khúc vào xuân của thời đại mới.

Tiếp theo là những câu thơ nói lên những suy tư về đất nước và nhân dân:

Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước

Chặng đường lịch sử của đất nước bốn nghìn năm trường tồn với bao thử thách “vất vả và gian lao”. Nhân dân, với bao thế hệ này sang thế hệ khác đã đem xương máu và mồ hôi bảo vệ và xây dựng đất nước “Đất nước như vì sao” là hình ảnh so sánh đẹp đầy ý nghĩa. So sánh đất nước với vì sao là biểu lộ niềm tự hào đối với đất nước, khẳng định lòng tin vào sự phát triển không gì ngăn cản nổi “cứ đi lên phía trước”. Ba tiếng “cứ đi lên” thể hiện chí khí, quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng một Việt nam giàu mạnh.

Sau những suy tư về đất nước là tâm niệm của nhà thơ. Tác giả nguyện cầu được hóa thân:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến

Nếu khổ thơ đầu nhà thơ xưng “tôi” (Tôi đưa tay tôi hứng) thì ở đây nhà thơ chuyển sang xưng “ta” không phải là sự ngẫu nhiên. Với “Ta” vừa là số ít vừa là số nhiều, tác giả có thể nói được cái riêng biệt cụ thể, đồng thời lại nói được cái khái quát, cái chung. Đây là quan niệm, phương châm sống và cống hiến của tác giả mà cũng là của chúng ta.

Khát vọng của nhà thơ được làm một “con chim hót” làm “một cành hoa” và thêm hình ảnh “một nốt trầm”. Từ hình ảnh đẹp của mùa xuân thiên nhiên được miêu tả phần đầu bài thơ, nhà thơ đã chọn nhiều hình ảnh để thể hiện lẽ sống tâm niệm đời mình là phục vụ đất nước, cống hiến cho đất nước. Cách chọn hình ảnh như thế hay ở chỗ tự nhiên, hợp lí theo sự chuyển nghĩa của hình ảnh mùa xuân từ thiên nhiên đến xuân tư tưởng làm cho các tầng lớp trước sau của bài thơ gắn bó với nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Lấy cái đẹp của thiên nhiên để thể hiện cái đẹp của lòng người. Con chim, cành hoa vốn nhỏ bé trong đời nhưng chim vô tư cống hiến tiếng hót vui, hoa vô tư cống hiến hương thơm sắc đẹp, làm nên mùa xuân đất trời. Mượn hình ảnh chim trời, bông hoa, nhà thơ muốn nói lên tha thiết, khiêm tốn ước vọng sống có ích, góp phần nhỏ bé phục vụ đất nước, làm nên mùa xuân đất nước. Một nốt nhạc nhỏ chưa đủ làm nên bản nhạc nhưng góp phần làm nên bản nhạc. Nhà thơ ước vọng làm một “nốt nhạc trầm” không véo von, ồn ào, ầm ĩ, nghĩa là mong sống có ích, khiêm tốn và âm thầm góp phần mình vào sự phát triển chung của đất nước.

Điệp ngữ “ta làm” thật thiết tha, lời thơ như đang ngân lên thành lời ca. Sống phải làm cái gì đó cho đời dù rất nhỏ.

Khổ thơ tiếp theo càng rõ hơn ý nghĩa nhan đề bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc

Nhà thơ còn tâm niệm làm “Một mùa xuân nho nhỏ” lặng lẽ dâng cho mùa xuân rộng lớn của đất nước. làm một mùa xuân nghĩa là gì? Nghĩa là sống một cuộc đời đẹp như mùa xuân. Nhưng tại sao lại là mùa xuân nho nhỏ? Một ý thơ hay, một khát vọng khiêm tốn, một ý thức đúng về mối quan hệ cá nhân và xã hội. Hình ảnh mùa xuân thường gợi cảnh đất trời rộng lớn, trăm hoa đua nở. Nhà thơ chỉ nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân rộng lớn thuộc về đất trời, đất nước, xã hội, không một cá nhân nào làm nổi. Nhưng mỗi cá nhân có thể đóng góp mùa xuân của cuộc đời riêng vào mùa xuân của cuộc đời chung làm cho nó phong phú, rực rỡ thêm. Và lặng lẽ dâng cho đời với tất cả sự khiêm tốn đáng yêu của một con người tha thiết được cống hiến suốt đời cho đất nước dù tuổi hai mươi hay khi tóc bạc.

Ai cũng phải sống có ích cho đời “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng ” Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). Bởi lẽ “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu). Sống hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước cả từ lúc “tuổi hai mươi” đến khi”tóc bạc”. Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Thanh Hải đã nói lên những lời “gan ruột” của mình, ông đã sống như lời ông tâm tình. Khi đất nước bị Mĩ – Diệm và tay sai âm mưu chia cắt làm hai miền, ông hoạt động bí mật trong vùng giặc, gây dựng phong trào cách mạng, coi thường cảnh máu chảy đầu rơi. Cảm động hơn nữa là bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được ông viết ra trên giường bệnh, một tháng trước lúc ông qua đời.

Thanh Hải sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ tài tình: “Ta làm…ta làm…ta nhập…” “Dù là…dù là…”đã làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết sâu lắng, ý thơ được khắc sâu và nhấn mạnh. Người đọc xúc động biết bao trước một giọng thơ trữ tình, ấm áp như vậy. Có thể xem đoạn thơ này là những lời trăng trối của ông.

Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương: Phải chăng nhà thơ vừa làm thơ vừa hát những câu thơ của mình, hát theo làn điệu dân ca trầm trầm, buồn buồn nhưng lạc quan của quê hương xứ Huế. Nhịp thơ năm chữ gieo vần hai câu một nhưng ở khổ thơ này dôi ra một câu vần bằng. Bài thơ như ngừng chậm lại, ngẫm nghĩ, lắng nghe:

Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.

“Nước non ngàn dặm” mấy câu mở đầu bài ca Nam ai xứ Huế đi vào bài thơ một cách tự nhiên. Nhưng “nước non ngàn dặm mình” rồi lại “nước non ngàn dặm tình”, thật là yêu đất nước mình, yêu quê hương mình lắm. Nước non ngàn dặm của mình, cũng là nước non ngàn dặm trong tình yêu tha thiết của mình.

“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo độc đáo của Thanh Hải, góp vào các hình ảnh mùa xuân trong thơ ca. Các nhà thơ từ xưa tới nay đã viết nhiều về mùa xuân với nhiều cảm hứng và những phát hiện riêng khác nhau nhưng tựu trung thường khai thác hai phương diện: mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân con người, Thanh Hải cũng không đi ngoại lệ ngoài hai phương diện ấy của chủ đề mùa xuân. Cái đặc sắc ở đây chính là hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ”, Đó là những biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của sự sống và của cuộc đời mỗi người. “Mùa xuân nho nhỏ” ấy góp vào làm nên mùa xuân lớn của cuộc đời, của đất nước. Hình ảnh này thể hiện quan niệm về sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung giữa cá nhân và cộng đồng. Mùa xuân nữa lại về trên đất nước ta, thắp nén nhang tưởng nhớ thi nhân đã để lại cho đời một lời tâm tình nhỏ nhẹ khiêm nhường. Mỗi chúng ta hãy sống đẹp – hãy làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân lớn của dân tộc.

>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Sơ đồ tư duy) Dàn ý & 15 bài văn mẫu hay nhất lớp 9 của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *