Văn mẫu lớp 8: Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu trong Tức nước vỡ bờ gồm dàn ý chi tiết, cùng 3 bài văn mẫu hay nhất. Qua đó,giúp các em học sinh lớp 8 hiểu rõ hơn về diễn biến tâm lí của chị Dậu.
Tức nước thì vỡ bờ, có áp bức thì sẽ có đấu tranh, đó là quy luật tất yếu trong cuộc sống. Khi con người ta bị dồn vào đường cùng, chà đạp không thương xót thì sẽ vùng lên chống trả, phản kháng. Với 3 bài văn mẫu dưới đây sẽ giúp các em hiểu rõ hơn diễn biến tâm lí của chị Dậu:
Dàn ý phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu trong Tức nước vỡ bờ
1. Mở bài
Giới thiệu Ngô Tất Tố và đoạn trích ” Tức nước vỡ bờ”
2. Thân bài
* Giới thiệu tình huống truyện
* Phân tích diễn biến tâm lí chị Dậu
– Lúc đầu: nhẫn nhục van nài bọn cai lệ với cách xưng hô “cháu-ông” đầy thành khẩn, thái độ sợ sệt khép nép
– Lúc sau:
- Thái độ bắt đầu thay đổi, biết phản kháng, tức giận và quyết liều mạng với bọn tay sai.
- Cách xưng hô “tôi- ông” thể hiện sự ngang hàng không còn sợ sệt
- Cuối cùng: Vùng lên chống trả, phán kháng mạnh mẽ, sử dụng cách xưng hô “bà- mày”
=> Hành động phản kháng của chị không phải xuất phát có chủ ý mà là phản xạ, là bản năng của con người khi bị dồn vào đường cùng. Diễn biến tâm lí của chị Dậu diễn ra nhanh nhưng hoàn toàn phù hợp với cốt truyện
3. Kết bài
Nêu cảm nghĩ về diễn biến tâm trạng của nhân vật chị Dậu
Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu trong Tức nước vỡ bờ – Mẫu 1
Trước cách mạng tháng Tám cuộc sống con người rơi vào cảnh lầm than. Con người ta bị dồn vào đường cùng, chà đạp không thương xót. Có người bị hoàn cảnh khuất phục dẫn đến mất đi nhân tính, đánh mất bản chất vốn có của mình, có người cố vùng vẫy để không tự vấy bẩn nhân cách cao đẹp của mình nhưng rồi dù có dẫy dụa cũng không thể cứu vớt được cuộc sống không cùng ấy vậy nên họ chọn cách tự tước đoạt đi mạng sống của mình, khác hẳn với những người trên kia có người lại cố tự thoát ra khỏi bi kịch của đời mình, van xin không được, chịu nhục chịu đau cũng không được nên con người ta tự vùng mình lên đánh trả. Họ đánh cược cuộc đời mình vào ván bài đã biết trước kết quả nhưng họ vẫn làm, vì con người ai cũng có giới hạn của mình, và sức mạnh của tình yêu đã mách bảo họ phải vùng dậy, đập tan cái thứ dơ bẩn đang chà đạp cuộc sống của mình. Đó là Chị Dậu trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”, một người phụ nữ lương thiện nhưng lại rơi vào bi kịch cuộc sống như biết bao con người khốn khổ khác trong xã hội cũ, trong đoạn trích Ngô Tất Tố đã thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật chị Dậu.
Con người sống trên đời ai ai cũng có quyền bình đẳng, quyền được làm chủ cuộc sống của mình. Quyền được sống là quyền cơ bản của con người vậy tại sao trong cái xã hội thối nát kia con người ta lại phải trả tiền cho việc mình được sống. Hằng ngày con người ta phải lao động cực nhọc, cơm còn chẳng có mà ăn nhưng họ vẫn phải đóng đủ mọi thứ thuế, ăn ở dè dặt, dành dụm mãi nhưng may ra cũng chỉ đủ ăn, người ta làm để nuôi thân và tuyệt nhiên không sống phụ thuộc vào ai, không cần ai bảo vệ mạng sống của họ vậy tại sao họ lại phải đóng thuế cho việc mình được sống? Nghe đến đây đã thấy sự hèn hạ và phi lý của cái xã hội thối nát cũ rồi nhưng điều đáng hận mới chỉ thực sự bắt đầu. Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã vẽ lên đỉnh điểm của sự phẫn nộ trong lòng người đọc.
Mở đầu đoạn trích có thể là tiếng thở phào nhẹ nhõm của chị Dậu khi đã chạy ngược chạy xuôi gom góp đủ tiền để nộp sưu cho chồng, tưởng rằng sau đó sẽ là cuộc sống yên bình, một kết thúc có hậu cho đôi vợ chồng khốn khổ ấy nhưng niềm vui chưa được bao lâu thì nụ cười phải chợt tắt. Người đàn bà bất hạnh kia lại phải đóng thêm suất sưu cho em chồng, người bất hạnh đã chết vì sự chà đạp của xã hội ấy. Khốn nạn thay, nực cười cho sự vô lý của xã hội ấy, người sống dở chết dở còn phải đóng thuế cho người chết chỉ vì lòng tham không đáy của bọn quan lại nhũng nhiễu, vô lương tâm. Chỉ vì trước khi chết người ta có cố thở thêm vài cái và khốn nạn thay lại chót thở sang năm mới.
Chỉ vì cậu em chồng bất hạnh ấy mà cả nhà chị Dậu đâm ra bất hạnh thêm theo, trong khi chồng chị còn đang sống dở chết dở nửa tỉnh nửa mê nằm bất động ngoài kia thì tai họa lại ập đến. Chị ngày đêm chăm sóc chồng, hết mực săn sóc để anh ấy mau khỏe lại, hồi phục sức khỏe thế nhưng khi người đàn ông ấy vừa cầm bát cháo lên chuẩn bị ăn thì bọn tay sai kia lại ập đến. Chúng hống hách, mặc kệ trời đất, mặc kệ người đàn bà khốn khổ kia đang thành khẩn van nài, chị quỳ lạy van xin, vứt bỏ lòng tự trọng và van xin hết mức nhưng lại phải nhận lại những lời lẽ khinh bỉ không chút cảm xúc, bọn phong kiến xưa nay đâu coi ai ra gì, dân đen như chị chỉ giống như loại cỏ rác để cho chúng chà đạp, lời nói của chị chẳng đáng để chúng phải suy nghĩ vậy nên chúng cứ mặc sức mà hống hách, chà đạp lên những sinh mạng bé nhỏ.
Trót sinh ra trong xã hội lầm than nên con người phải học cách sống cúi đầu, vậy là chị Dậu cứ thành khẩn van nài, những tiếng kêu oan đầy thành khẩn “Hai ông làm phúc nói với ông lý cho cháu khất” thế nhưng dường như bọn tay sai tàn ác dường như không hiểu được tiếng người để rồi chúng lại lên giọng nói triết lý “Mày định nói cho mày nghe đấy à? Sưu của Nhà nước mà dám mở mồm xin khất”. Sao lại có chuyện ngược đời như vậy, nhà nước nào mà lại chèn ép dân lành đến như vậy, cái loại nhà nước kiểu gì mà chà đạp con người bóc lột kiệt quê đến như thế. Chúng chỉ là những con quỷ hút máu, nhưng con sói dại hung hăng nhăm nhe ăn thịt con mồi chứ không hơn không kém.
Con người nhỏ bé ấy vẫn tha thiết van nài mong chờ sự cảm thông hay dù chỉ là một chút lòng thương hại từ kẻ săn mồi kia, mặc cho đã cố gắng, đã hạ mình nhục nhã hết mức có thế nhưng nhẫn tâm thẳng tay lao đến định bắt anh Dậu. Chị có van xin, có nài nỉ thành khẩn đấy nhưng nhận lại là những lời lẽ vô cảm, chị bị những phát đòn thẳng tay từ tay cai lệ không hiểu tiếng người. Chị Dậu tuy nghèo chứ không hèn, van nài nhục nhã nhưng không phải là chịu khuất phục, chị cũng có giới hạn của mình, người ta bảo “con giun xéo lắm cũng quằn”, con người ta khi bị chà đạp quá mức và không còn gì để mất ắt hẳn sẽ vùng lên và đó là bản năng vốn có của con người. Ngọn lửa trong chị bỗng chốc bùng cháy dữ dội, cơn thịnh nộ từ người đàn bà đã buông bỏ tất cả để cứu lấy chồng mình đã thức tỉnh, từ cách xưng hô ” cháu- ông” nay đã chuyển thành ” bà – mày”.
Nói không được, van xin cũng không tha nên chị chỉ còn cách chống cự, đâu ai dễ dàng để bọn ác nhân hành hạ người thân của mình ngay trước mắt, và sức mạnh của tình yêu thương đã thôi thúc chị phải vùng dậy đấu tranh. Vậy là chị đã túm cổ tên cai lệ ấn dúi ra phía cửa, mạnh mồm hung hăng thế nhưng tên cai lệ cũng chỉ là một thằng nghiện ngập dặt dẹo nên trước cái đẩy đầy phẫn nộ của chị Dậu hắn đã ngã chỏng quèo, tiếp đó chị túm tóc tên người nhà lí trưởng lẳng cho một cái làm hắn ngã nhào ra thềm, trông lũ ác nhân hùng hổ lúc đó chẳng khác gì một mớ hỗn độn yếu ớt và thảm hại, điều đó thật khiến cho người đọc hả lòng hả dạ.
” Tức nước vỡ bờ” quả đúng là một nhan đề hoàn toàn phù hợp cho đoạn trích. Diễn biến tâm lí nhân vật chị Dậu diễn ra nhanh nhưng hoàn toàn phù hợp với tình huống truyện, từ khép nép van nài và kết thúc là cao trào đỉnh điểm, cơn phẫn nộ của con người cùng cực đã dẫn đến hành động đáp trả bọn tay sai tàn ác. Và đó cũng là quy luật của cuộc sống nhân quả, tức nước ắt sẽ vỡ bờ.
Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu trong Tức nước vỡ bờ – Mẫu 2
Tức nước vỡ bờ là chương thể hiện rõ cách nhìn con người trên bình diện giai cấp của Ngô Tất Tố. Qua đó, bộ mặt nông thôn Việt Nam hiện lên như là mối xung đột có kịch tính cao giữa bọn thống trị tay sai và người nông dân bần cùng khốn khổ vì sưu thuế. Bên cạnh những bộ mặt hung hăng tàn ác của bọn tay sai như cai lệ và người nhà lí trưởng là hình ảnh tiêu biểu cho người nông dân – nhẫn nhịn, chịu đựng nhưng khi bị đẩy tới chân tường, cũng biết vùng lên chống trả quyết liệt, thể hiện một khả năng phản kháng tiềm tàng.
Mười bảy chương truyện trước đã thuật lại biết bao cảnh khốn cùng của vợ chồng chị Dậu trong những ngày sưu thuế. Thuộc loại nghèo bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh, đến vụ thuế, anh Dậu ốm liệt giường. Mọi việc dồn vào một tay chị Dậu lo toan chạy vạy. Chị đành bán chó, bán con trong cảnh mua bán cay nghiệt của vợ chồng Nghị Quế, phải nếm những nắm đấm của bọn lính và người nhà lí trưởng. Anh Dậu lại bị đánh, bị trói giữa lúc ốm đau. Sự tàn nhẫn, nỗi khốn cùng ngày càng quá quắt, vượt sức chịu đựng của người phụ nữ đáng thương ấy. Nộp xong suất sưu của chồng, chị những tưởng trả xong món nợ nhà nước. Nào ngờ bọn hào lí còn bắt anh Dậu phải đóng nốt suất sưu của Hợi. Anh Dậu tiếp tục bị đánh, bị trói đến ngất xỉu. Nửa đêm, người ta vác trả về cho chị anh Dậu rũ rượi như một xác chết. May có hàng xóm giúp đỡ, chị đã cứu được chồng. Ấy thế mà anh Dậu vừa run rẩy cầm bát cháo bọn họ đã rủa sả: Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy á?”. Anh sợ quá lăn ra phản, không nói nên lời. Tên người nhà lí trưởng còn mỉa mai và sau đó đe dọa dỡ nhà. Căng thẳng nhất là lúc cai lệ bịch luôn vào ngực chị Dậu và tát vào mặt chị một cái đánh đốp.
Trong Tắt đèn, chị Dậu được miêu tả như một người phụ nữ rất mực dịu dàng. Vì bị áp bức bóc lột, chị Dậu đành chịu đựng, nhẫn nhục, và trong nhiều trường hợp, chị là người có thể nhẫn nhục, chịu đựng. Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối, chỉ biết than khóc. Thông minh, sắc sảo, đảm đang, tháo vát, chị Dậu còn tiềm tàng một khả năng phản kháng. Ngay giữa đình làng, trước mặt bọn hào lí, chị đã dám tru tréo, kêu to lên sự bất nhân của chế độ sưu thuế thực dân, phong kiến: “Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi còn phải đóng sưu, hở trời”. Bị quăng từ đình làng về, rồi được cứu sống, anh Dậu chỉ còn biết khóc em, khóc cái Tí, khóc cho số phận của anh. Trái lại, chị Dậu tỏ thái độ bất cần. Chị bình tĩnh khuyên giải chồng “Còn như mấy đồng tiền sưu, tuy có nóng thật, nhưng lo chưa kịp thì khất. Thịt người tanh, chẳng ai ăn được. Thầy em cứ yên tâm nằm nghỉ, không phải lo lắng gì cả”.
Trong cảnh tức nước vỡ bờ, diễn biến tâm lí chị Dậu được miêu tả tinh tế và nhất quán. Chị có thể nhẫn nhục chịu đựng an phận người dân thấp cổ bé miệng, nhưng khi bọn tay sai quá tàn ác đẩy chị đến chân tường, chị cũng biết vùng lên chống trả quyết liệt, thể hiện khả năng phản kháng tiềm tàng.
Trước thái độ hung hăng, những lời quát tháo hách dịch của cai lệ, chị Dậu run run. Chị sợ thì ít, mà lo cho chồng thì nhiều. Chị gọi cai lệ tự xưng là cháu. Chị van xin, cầu khẩn bằng giọng cố thiết tha: “Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất…”
Chị lập luận khá đanh thép, có sự thuyết phục lớn, có lí, có tình:
“Khốn nạn Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!”
Đến khi thấy tính mạng của chồng bị đe dọa, thái độ của chị Đậu thay đổi hoàn toàn. Chị vẫn cố van xin, nhưng vội vàng đặt đứa con đang bế xuống đất. Bên cạnh lời nói là hành động chạy đến đỡ lấy tay cai lệ, không để hắn đụng tới anh Dậu. Khi thấy sự nhún mình không có hiệu quả chị đã đứng lên ngang hàng với bọn bất nhân để lí luận, cảnh báo chúng. Đang xưng hô “ông-cháu”, chị Dậu chuyển qua “ông-tôi” với cai lệ. Người đàn bà uất ức đã liều mình đứng dậy tự đặt ngang hàng với cai lệ để cảnh cáo hắn: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!”.
Thái độ của chị Dậu ngày càng quyết liệt. Người đàn bà dịu dàng bỗng trở nên đáo để. Chị hạ cai lệ xuống thứ “mày” và ngang nhiên thách thức: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Tư thế là tức nước vỡ bờ! Chị Dậu quật ngã bọn tay sai hung ác trong tư thế ngang hàng, bất khuất với sức mạnh kì lạ. Chị túm lấy cổ cai lệ ấn dúi ra cửa. Cai lệ ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn lảm nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu. Tên người nhà lí trưởng cũng bị chị Dậu túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm. Giọng văn của Ngô Tất Tố trở nên hả hê. Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh chị Dậu hiện lên khỏe khoắn, quyết liệt bao nhiêu, thì hình ảnh bọn tay sai hung ác trở nên nhỏ bé, hèn hạ, nực cười và hài hước bấy nhiêu.
Thương thay anh Dậu, con người được bảo vệ phải lên tiếng – tài tình và tinh tế thay ngòi bút của Ngô Tất Tố! Tiếng nói hiền lành, cam chịu lại là lời tố cáo bọn thống trị có giá trị nhất: “U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù, phải tội”. Chị Dậu như đã leo lên đến lưng cọp. Nghe anh Dậu can, chị càng phẫn uất: “Thà ngồi tù. Để cho chúng làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…” Câu nói mộc mạc đầy phẫn uất ấy giống như lời tuyên ngôn hùng hồn cho quy luật, có áp bức, dứt khoát sẽ có đấu tranh.
Sức mạnh kì diệu của chị Dậu là sức mạnh của lòng căm hờn, uất hận bị dồn nén đến mức không thể chịu đựng được nữa. Một người đàn bà lúc nào cũng chỉ nghĩ tới chồng, tới con, nhiều lần lấy thân mình che chở đòn roi cho chồng. Vì chồng con, người đàn bà ấy sẵn sàng thà ngồi tù.
Qua cảnh “Tức nước vỡ bờ”, Ngô Tất Tố đã miêu tả tình thế diễn biến tâm lí chị Dậu một cách lô gic. Đó là một tính cách nhất quán. Chị Dậu có thể nhẫn nhục, chịu đựng, nhưng khi đã bị đầy tới chân tường thì cũng biết vùng lên chống trả quyết liệt thể hiện một khả năng phản kháng tiềm tàng.
Nguyễn Tuân gọi chân dung chị Dậu trong Tắt đèn là “bức chân dung lạc quan”, Nguyễn Tuân quả quyết rằng ông đã gặp chị Dậu trong “một đám đông phá kho thóc của Nhật trong những ngày huyện kì tổng khởi nghĩa”. Nói như thế là Nguyễn Tuân đã khẳng định tài năng miêu tả nhân vật của Ngô Tất Tố. Dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố, nhân vật chị Dậu vừa hiện lên sống động giống như người có thật, vừa thể hiện được quy luật tất yếu của đời sống. Cho nên, chị Dậu của Tất Tố có khả năng bước ra khỏi trang văn để đến với cuộc đời và sống mãi trong đời sống tinh thần của chúng ta.
Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu trong Tức nước vỡ bờ – Mẫu 3
Người nông dân là đề tài quen thuộc khơi nguồn cảm hứng cho bao nhà văn, nhà thơ. Nếu người nông dân trong văn của Nam Cao vì quá đau khổ và bần cùng mà phải tìm đến cái chết để giải thoát khỏi những đau khổ thì người nông dân trong văn của Ngô Tất Tố lại biết mạnh dạn vùng lên khi bị áp bức và dồn vào bước đường cùng. Và nhân vật điển hình cho lối văn chương này của ông là nhân vật Chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn mà nổi bật là đoạn trích Tức nước vỡ bờ.
Chị Dậu trước tiên là một người vợ yêu chồng, đảm đang, biết lo toan công việc cho gia đình. Khi anh Dậu bị bọn cai lệ và người nhà lí trưởng bắt đi đánh đập vì thiếu tiền nộp sưu thuế, chị đã chạy vạy ngược xuôi để kiếm tiền đóng đủ cho chồng để chồng không bị đánh đập nữa. Chị đã phải bán cả ổ chó con và thậm chí bán cả đứa con gái đầu lòng là cái Tí mới bảy tuổi cho nhà Nghị Quế để làm người ở để đủ tiền đóng sưu. Nhưng thói đời bạc bẽo, những nỗ lực của chị như đổ sông đổ bể khi bọn chúng còn bắt anh chị đóng sưu cho người em trai anh Dậu đã mất từ năm ngoái. Chị Dậu như bất lực và gục ngã trước sân đình khi thấy chồng mình vẫn bị đánh và thói ngang ngược, những thứ sưu tô vô lí của bọn quan lại. Xã hội mục nát với những áp bức bất công đổ dồn lên đôi vai của người phụ nữ nhỏ bé.
Chị Dậu là người phụ nữ đảm đang, chu toàn tươm tất việc trong gia đình. Khi người ta đưa anh Dậu như cái xác không hồn về nhà, chị Dậu lo lắng, dồn toàn bộ tâm huyết để chăm sóc chồng. Chị lo lắng rằng anh có mệnh hệ gì, tất bật ngược xuôi mong anh tỉnh dậy. Đến khi anh tỉnh rồi chị mới an tâm được một chút và đi nấu cháo cho chồng ăn. Từng lời nói, cử chỉ, hành động của chị với chồng vô cùng đáng ngưỡng mộ. Dù trong lòng còn nhiều lo toan nhưng chị vẫn động viên chồng húp miếng cháo loãng để lại sức, cách gọi “Thầy em” vừa thể hiện sự trân trọng và kính nể, nhún nhường trước người chồng đau đớn của mình; vừa thể hiện tình cảm vô bờ bến dành cho chồng. Thật là một người phụ nữa đáng khâm phục.
Chị còn là một người phụ nữ cứng rắn, gan dạ. Khi bọn cai lệ và người nhà lí trưởng đến đòi bắt anh Dậu mang đi đánh, chị đã vô cùng hốt hoảng, lo sợ. Chị ra sức van xin chúng tha cho chồng mình nhưng chỉ nhận lại là những tiếng mắng chửi cay độc từ chúng. Người phụ nữ trong xã hội ấy vốn là những người thấp cổ bé họng không có quyền cất lên tiếng nói và tiếng nói không có giá trị. Dù biết mình có van xin cũng không được lắng nghe nhưng vì yêu thương chồng, chị vẫn cố gắng. Đỉnh điểm của sự tức giận khi tên cai lệ đánh bịch vào ngực chị và sấn sổ đòi bắt anh Dậu đi. Lúc này, chị không bình tĩnh được nữa đã đứng lên đánh trả bọn chúng. Chị không ngần ngại với mấy tên tay sai hống hách, từ cách xưng hô “ông – con” đầy tôn trọng kính nể, người phụ nữ ấy chuyển thành “mày – tao” ngang hàng phải lứa với chúng để bảo vệ chồng. “Tức nước vỡ bờ”, những tháng ngày chịu bao đau khổ, chịu bao sự giày vò giờ đã bùng cháy thành cơn thịnh nộ của người đàn bà. Hai tên nghiện ngập không thắng nổi sức lực của người đàn bà lực điền nên bị đánh cho tơi tả. Trong khoảnh khắc ấy, dù bên tai văng vẳng tiếng người chồng van xin dừng lại và tiếng trẻ con khóc nhưng người đàn bà vẫn chống lại cường quyền dù cho lường trước được hậu quả khôn lường. Từ một người phụ nữ nông thôn hiền lương, nghèo đói, luôn sợ sệt lũ tay sai thúc thuế, chị đã dám phản kháng chống lại uy quyền. Quả là một hành động đáng ngưỡng mộ.
Tức nước thì vỡ bờ, có áp bức; có đấu tranh là một quy luật tất yếu. Tuy vậy, sự đấu tranh của chị Dậu chỉ là hành động mang tính bộc phát chứ không có tính định hướng, cũng chưa có tính tập thể cho nên cuối cùng một mình chị vẫn không thể nào chống đỡ lại được cả một chế độ phong kiến thối nát, độc ác, chuyên quyền. Chị vẫn phải vùng chạy, lao vào màn đêm tăm tối như chính của cuộc đời của mình.
Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” được coi là một trong những đoạn trích hay nhất của tác phẩm “Tắt đèn”. Đoạn trích vừa làm nổi bật vẻ đẹp của một người phụ nữ yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và sức phản kháng mãnh liệt, vừa thông qua đó để lên án một xã hội cường quyền, áp bức bất công đẩy người nông dân thấp cổ bé họng vào đường cùng, buộc họ phải vùng lên tranh đấu. Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn trích cùng tác phẩm vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp của nó và để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 8: Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu trong Tức nước vỡ bờ Dàn ý & 3 bài phân tích chị Dậu hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.