TOP 7 mẫu Phân tích vẻ đẹp tình người Vợ nhặt của Kim Lân mà Wikihoc.com giới thiệu dưới đây sẽ là tư liệu cực kì hữu ích với các bạn học sinh lớp 12. Với 7 bài văn phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống sẽ giúp các bạn nắm được các luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch.
Thông qua 7 bài văn mẫu chúng ta thấy được sự yêu thương đùm bọc, lá lành đùm lá rách. Trước thực tại đau khổ và chết chóc họ không thôi nhìn về tương lai với một niềm tin đổi đời. Và để hiểu rõ hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng đón đọc 7 bài văn mẫu vẻ đẹp tình người trong bài viết dưới đây.
Vẻ đẹp tình người trong Vợ nhặt của Kim Lân
- Dàn ý phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống
- Vẻ đẹp tình người trong Vợ nhặt
- Vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống
Đề bài: Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói:
“Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.
Qua văn bản Vợ nhặt của Kim Lân, anh/ chị có suy nghĩ gì về ý kiến trên?
Dàn ý phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
– Giới thiệu vấn đề cần phân tích.
II. Thân bài:
* Bối cảnh truyện ngắn:
– Diễn ra vào giữa nạn đói năm 1944-1945, khiến hơn hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc phải chịu cảnh chết đói.
– Ở xóm ngụ cư:
+ Cảnh người dân từ khắp nơi bồng bế, dìu dắt, thất thểu đi trên đường làng, ai nấy đều “xanh xám như bóng ma”, người đói “ngổn ngang khắp lều chợ”.
+ “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Bao trùm lên toàn bộ không gian ấy là tiếng quạ kêu thảm thiết từng hồi, như một loại kèn quái dị đưa ma những kẻ xấu số, chết không có chỗ chôn.
* Nhân vật Tràng:
– Là một người dân ngụ cư, xấu xí, và nghèo đói, tính tình vô tư không lo nghĩ, chính vì thế Tràng không có nổi một tấm vợ. Ngày ngày anh làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm miếng ăn.
– Tuy nhiên cuộc đời khốn khó và bế tắc của Tràng bỗng có một bước ngoặt lơn khi anh “nhặt” được một cô vợ giữa buổi đói kém. Một cô vợ theo không anh chỉ sau hai lần gặp gỡ và bốn bát bánh đúc.
– Ban đầu anh cũng không có cái gọi là tình yêu trai gái gì với thị, chỉ đơn giản rằng anh đồng cảm, thương xót cho người đàn bà khốn khổ đã đói đến mức vật vờ, sắp chết nên đãi thị bốn bát bánh đúc => Lòng lương thiện, là tình người khi sống với nhau ở trên đời của Tràng.
– Khi đã thành vợ, thành chồng, Tràng cảm thấy mình có nghĩa vụ phải săn sóc và quan tâm đến cái người đàn bà đang đi bên cạnh mình. Tràng bỗng lột xác trở thành một người đàn ông tinh tế:
+ Thấy vợ rách nát tàn tạ quá, lại không có đồ đạc gì ngoài cái nón rách, anh dẫn thị vào chợ huyện mua lấy một cái thúng con và vài đồ lặt vặt.
+ Mua hai hào dầu về thắp đèn, cho cửa sáng sủa để đón thị về làm dâu.
=> Tràng bỗng nhiên trưởng thành hơn trong nhận thức, thứ tình cảm với thị không chỉ còn nằm ở lòng thương hại, mà giờ đây đã trở thành tình thân, tình yêu, thứ tình cảm ấy khiến con người ta trưởng thành, nhân hậu và tinh tế hơn hẳn.
– “Trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Tình yêu, hạnh phúc lứa đôi đã xóa mờ đi tất cả những khó khăn chất chồng, sự đe dọa của đói kém, mở ra trong lòng nhân vật những cảm xúc, những hy vọng mới mẻ, niềm tin mãnh liệt về một cuộc sống khấm khá hơn.
– Sau đêm tân hôn, Tràng về niềm hy vọng vào một cuộc sống tương lai tốt đẹp đang đón chờ của nhân vật.
– Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” chính là giải pháp, là niềm tin, niềm hy vọng mới của Tràng, mở ra cho anh một con đường sáng, đưa cả gia đình thoát khỏi cảnh bế tắc và tối tăm.
* Nhân vật thị:
– Không tên tuổi, quê quán, dân ngụ cư, cong cớn sưng sỉa vì miếng ăn, cuối cùng theo không anh Tràng cũng vì miếng ăn.
– Khao khát được sống, cầu được sống, thị trân trọng mạng sống của mình, thế nên thị buộc phải cong cớn, sưng sỉa để được ăn và cuối cùng là về làm vợ Tràng.
– Khi nhìn thấy cái căn chòi rách nát của Tràng thị đã không khỏi thất vọng, thở dài, thế nhưng thị chọn im lặng, quyết tâm cùng chồng vun vén, tạo dựng hạnh phúc cho gia đình.
=> Thị vẫn còn nhớ cái ân nghĩa của người chồng cho thị 4 bát bánh đúc, cứu thị khỏi chết đói, và thị cảm động bởi cái sự săn sóc của Tràng.
– Thị càng trân quý hơn cái tình cảm của bà mẹ chồng dành cho mình, bà đã không chê thị là loại con dâu theo không, trái lại còn bảo ban, săn sóc.
– Sau đêm tân hôn, thị đã dậy sớm, ra sức vun vén, thu dọn nhà cửa, đem quần áo rách ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang hoàng nhà cửa, lột xác trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, biết chăm lo => Sự trân quý thứ tình thân vừa mới có được và thị muốn hết lòng vì nó.
– Trước món “chè khoán”, đắng ngắt và khó khăn, thị đã giấu đi nỗi thất vọng và buồn tủi của mình cốt để bà cụ khỏi buồn, và không phá vỡ đi cái không khí gia đình đang đầm ấm, yên vui này.
– Niềm hy vọng vào cuộc sống rất mãnh liệt, thị đã nhắc đến chuyện người ta đi phá kho thóc của nhật, và lòng thị cũng dần rộn lên những suy nghĩ về việc đi cướp thóc, cải thiện cuộc sống.
* Bà cụ Tứ:
– Nghèo khó cả đời buôn ba khốn khổ nuôi con khôn lớn, khi con lớn rồi thì bà lại cứ mãi day dứt về chuyện không thể cưới nổi vợ cho con.
– Xót xa cho cái phận mình, phận con lấy vợ ngay giữa nạn đói, không cỗ bàn, cưới hỏi, giữa cái không khí thê thảm, tiêu điều của làng xóm, lo lắng một nỗi rằng không biết rồi đôi vợ chồng có thể dìu dắt nhau qua được cái nạn đói khủng khiếp này không. = > Tấm lòng thương con sâu sắc.
– Nhanh chóng lạc quan và thông suốt bà thương con và thương cả người đàn bà đã theo con mình, phải vào bước đường cùng thì người ta mới chịu lấy con mình, vì thế bà lại càng thêm quý trọng mối nhân duyên này.
– Xuất phát từ tấm lòng của người mẹ bao dung, nhân hậu bà liên tục cho các con những lời dặn dò, động viên tinh thần để các con chăm lo làm ăn, ổn định cuộc sống, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình.
– Bà cụ đã xua đi cái không khí u ám, buồn rầu của nạn đói bằng cách liên tục kể các câu chuyện vui, gieo vào lòng con trai con dâu những niềm tin, niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng với các kế hoạch làm ăn, nuôi gà,… vạch ra một chặng đường tương lai đầy hứa hẹn khiến không khí gia đình trở nên sôi nổi, hạnh phúc.
– Hình ảnh nồi chè khoán là tấm lòng của người mẹ, đang cố xua đi những cái đói, cái u ám của sự tử vong dần lan trên xóm ngụ cư.
III. Kết bài:
– Nêu cảm nhận.
Vẻ đẹp tình người trong Vợ nhặt
Bài làm mẫu 1
Truyện ngắn “Vợ nhặt” được xây dựng trên bối cảnh đời sống nói trên đã tái hiện chân thực nạn đói năm 1945. Từ bối cảnh đó, tác giả đi sâu miêu tả đời sống nhân dân nước ta. Những kiếp người bần cùng, khổ cực đang ngày đêm mong chờ, khát khao ánh sáng Cách Mạng. Rực sáng lên trong tác phẩm là vẻ đẹp tình người; trong đói khổ, thậm chí là kề cận bên cái chết, người ta vẫn cưu mang nhau.
Bối cảnh câu chuyện vô cùng ảm đạm. Dưới sự thống trị của thực dân Pháp và Nhật, năm 1945, hơn 2 triệu người dân Việt Nam đã bị chết đói. Sự kiện bi thảm này đã được đề cập tới trong nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ như: Tô Hoài, Nam Cao, Nguyên Hồng,… Ngay sau sự kiện ấy, nhà văn Kim Lân đã viết tập truyền dài có nhan đề truyện “Xóm ngụ cư”.
“Xóm ngụ cư’’ – nơi tập trung của những con người đói nghèo phải rời bỏ quê hương, đi tha phương cầu thực, mong tìm được miếng cơm manh áo là tiền thân của tác phẩm Vợ nhặt. Với nhan đề độc đáo này, Kim Lân đã gợi được sự quan tâm, chú ý của người đọc, đồng thời cũng làm nổi bật rõ được tư tưởng, chủ đề của truyện ngắn. Ở đây, từ “nhặt” vốn là một động từ đã được nhà văn sử dụng như một tính từ.
Chỉ qua nhan đề “Vợ nhặt” thôi, Kim Lân cũng nói lên được việc bế tắc, đen tối của xã hội và thân phận rẻ rúm của con người. Xưa nay, việc dựng vợ gả chồng là công việc của cả đời người. Thế nhưng vào thời điểm này, người ta có thể dễ dàng “nhặt” vợ, giống như là nhặt cái rơm cọng rác bên đường vậy.
Nhà văn Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo, mới lạ. Đó là tình huống nhân vật Tràng (con trai bà cụ Tứ) lấy vợ hay nói đúng hơn là nhặt được vợ: “giữa cái cảnh đói sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều, người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa”. Việc dựng vợ gả chồng là một quy luật bình thường của cuộc sống con người. Nhưng đặt vào bối cảnh của Tràng thì lại là một chuyện lạ đời. Bởi lẽ Tràng là một anh nông dân nghèo, xấu trai, lại là dân ngụ cư. Nạn đói đang hoành hành dữ dội, người chết đầy đường đầy chợ. Trong khốn khó con người còn có thể nghĩ về nhau. Có lẽ chính tình huống truyện đặc sắc như trên đây đã giải thích vì sao nhà văn Kim Lân lại lấy nhan đề là “Vợ nhặt”. Qua cái nhan đề này, tác giả không chỉ nói lên là sự đen tối của xã hội cũ mà còn gợi lên được rất nhiều về hoàn cảnh, số phận người nông dân trong tác phẩm.
Tràng là nhân vật chính của truyện. Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả Kim Lân đã dựng được bức tranh ảm đạm của làng quê Việt Nam vào thời kì đói kém. Từng đoàn người lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên thành phố. Những bóng dáng xanh xám như những bóng ma. Hoặc là nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết đói như ngả rạ. Nhiều đến nỗi cứ đi làm đồng về, người ta lại bắt gặp ba, bốn cái thây nằm cong queo bên đường. Tiếng quạ gào lên từng hồi “thê thiết”. Không khí vẩn lên mùi khen khét của đống rấm, mùi thối của rác rưởi và mùi gây gây của xác người…
Có thể nói vào thời điểm đó, không ai là không nghĩ đến cái chết. Ngay cả lũ trẻ con thường ngày vốn nghịch ngợm vô tư, giờ cũng ủ rũ không buồn nhúc nhích. Một hớp cháo cám nhạt cầm hơi lúc này cũng là niềm ước ao của chúng. Cuộc sống “tối sầm” lại vì đói khát và chết chóc. Cảnh trần gian mà cứ ngỡ như chốn địa ngục tối tăm.
Trong hoàn cảnh túng đói ngặt nghèo đấy, tình yêu, hạnh phúc cũng trở nên đượm màu chua chát, xót xa. Như anh Tràng – một thanh niên nhà nghèo xấu xí thậm chí còn có vẻ ngoài ngờ nghệch, dở hơi mà còn “nhặt” được vợ. Mà đúng là “nhặt được thật”. Anh hỏi vợ bằng mấy lời chọc ghẹo, bông đùa vu vơ. Bốn bát bánh đúc thay cho lễ cưới đơn sơ đến chua chát. Thế là Tràng được vợ. Quả thực, trong nạn đói, giá trị con người quá ư rẻ rúng.
Ngày anh Tràng có vợ không bình thường nên buồn hay nên vui? Cảnh bữa cơm ngày đói đón nàng dâu mới thật thảm hại, tội nghiệp. Ai cũng thấy ngượng ngùng . Đuốc tân hôn, của đôi vợ chồng trẻ là ngọn đèn dầu yếu ớt. Cả nồi chè khoán (không phải nhà nào cũng có) của cụ bà Tứ trong thật tội nghiệp. Tràng ăn thấy đắng ngắt và nghẹn ứ trong cổ,…
Toàn những chi tiết cười ra nước mắt của một cảnh túng đói đến sâu sắc tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật. Mặc dù trong suốt cả truyện ngắn, đã không hề thấy bóng dáng của một tên thực dân hay phát xít nào. Thế nhưng tội ác của chúng vẫn hiện lên rất rõ nét.
Việc lấy vợ của Tràng lại trở thành một sự kiện lớn của xóm ngụ cư nghèo. Tràng lấy vợ vào thời điểm khó khăn, cùng quẫn nhất. Khi mà người ta không biết có thể qua nổi cơn đói kém này không thì anh lại lấy vợ. Cái anh nông dân nghèo, xấu xí, dở hơi, lại là dân ngụ cư ấy lại lấy được vợ. Xóm ngụ cư chưa hết ngạc nhiên thì lại xót xa cho đôi vợ chồng trẻ ấy. Một cuộc gắn kết thầm lặng khiến ai cũng thấy ngậm ngùi, không biết nói gì hơn.
Qua “Vợ nhặt”, nhà văn đã tái hiện sâu sắc, chân thực xã hội Việt Nam vào thời kì đen tối, cùng quẫn nhất. Toàn bộ cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của những người nông dân bị dồn đến bước đường cùng, không có lối thoát được dựng lại sinh động hết sức. Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả đã hắt vào truyện thứ ánh sáng của hoàng hôn xám xịt. Theo bước chân Tràng từ phố chợ đến miền quê. Người chết rải rác nằm cong queo bên lề đường. Người sống thì đi lại dật dờ, mặt mày xanh xám như những bóng ma. Những đứa trẻ của xóm ngụ cư ngồi ủ rũ ở những xó đường không buồn nhúc nhích. Không khí vấy lên mùi ẩm thối. Trên cây gạo đầu làng tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết. Cả một vùng như biến thành bãi tha ma trong không gian đầy mùi tử thi. Một cõi dương có hơi ấm cõi âm.
Thời gian và không gian nghệ thuật là một tín hiệu thẩm mĩ đặc sắc. Nó báo rằng đó là thời điểm con người đang đứng ở ranh giới giữa ánh sáng và bóng tối, giữa trần gian với địa ngục. Cả dân tộc đang đứng trước hoàng hôn của cuộc đời, đứng mấp mé bên bờ vực thẳm. Điều đó cho thấy sự tàn phá ghê gớm của nạn đói, một hiện thực thê thảm.
Trong hoàn cảnh ấy, thân phận con người thật là bèo bọt. Người đàn bà Tràng gặp ngoài kho thóc quần áo rách tả tơi, thân hình gầy sọp vì đói. Người đàn bà này theo không Tràng mà chẳng còn chút sĩ diện, danh dự. Đó là một sự thật, một hiện thực mỉa mai, cay đắng mà cũng đầy xót xa. Thân phận con người chẳng khác gì cỏ rác. Mẹ con Tràng chỉ còn cháo cám cầm hơi. Nhà cửa chẳng khác gì gia cảnh của chị Dậu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố). Họ đứng trước tương lai mờ mịt, nạn đói đang đe dọa đến sinh mạng. Đó là hiện thực về thân phận bọt bèo, hẩm hiu của người lao động trước Cách mạng. Theo bước chân Tràng, truyện mở ra một hiện thực thê thảm. Đó là một thế giới điêu tàn xác xơ vì sự phá hoại của nạn đói. Số phận cả dân tộc thật hắt hiu, buồn não.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” còn mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong tác phẩm này, Kim Lân đã nói lên được nỗi khổ của người dân lao động. Ông bày tỏ nỗi niềm đồng cảm, chia sẻ với họ. Nhưng điều đáng quý nhất ở đây là nhà văn vẫn thấy trong những con người đáng thương ấy vẫn có đời sống tâm hồn phong phú, những phẩm chất tốt đẹp. Họ vẫn yêu thương, đùm bọc nhau trong cơn hoạn nạn. Giữa lúc khó khăn, đói kém nhất, việc anh Tràng cưu mang và nhận một cô gái về làm vợ. Trong khi cô gái có hoàn cảnh quần áo rách tả tơi, mặt gầy sọp hẳn đi vì đó. Đó là một cử chỉ cao thượng, hào hiệp, không phải ai cũng làm được.
Như vậy, chuyện thành vợ thành chồng của họ rõ ràng không phải là chuyện tầm phào mà là có tình có nghĩa. Nó đã làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của Tràng, của gia đình anh. Hình như có một cái gì đó thức dậy trong tâm hồn Tràng: “Hẳn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt sáng lên lấp lánh”. Lần đầu tiên anh cảm thấy niềm hạnh phúc của cuộc đời. Một cái gì mới mẻ, lạ lẫm, chưa từng thấy ở người nông dân nghèo khổ ấy. Nó “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng”.
Và điều ấy lớn hơn, mạnh hơn với sự đói khổ. Nó giúp cho người ta vượt lên trên những khó khăn, cơ cực đang rình rập, chờ đón của cuộc sống nhưng cũng hứa hẹn biết bao. Điều ấy giúp Tràng có thêm sức mạnh để quên đi hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày. Giúp anh quên cả đói khát ghê gớm đang đe dọa để mà vui, hi vọng.
Như vậy, cho dù luôn bị cái chết rình rập, đe dọa, phải sống như loài vật nhưng nó không thể dập tắt được cái phần rất con người ở Tràng, ở bà cụ Tứ cũng như người “Vợ nhặt”. Họ vẫn hướng tới tương lai, khát khao hạnh phúc của cuộc sống gia đình. Phát hiện, trân trọng và đề cao vẻ đẹp tình người trong nghịch cảnh khắc nghiệt có lẽ là điểm nổi bật của nhà văn, cái làm nên giá trị phi thường trong tác phẩm này.
Bài làm mẫu 2
Số lượng tác phẩm ít, nhưng sáng tác nào của Kim Lân cũng đều chứa đựng những giá trị cốt lõi quý giá, lấy nền tảng hiện thực làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu rộng, ảnh hưởng lớn đến tâm hồn của người đọc. Chính vì lẽ ấy, thế nên Kim Lân một tác giả không học hành nhiều, nhưng có óc sáng tạo phong phú, đi sâu vào đời sống của nhân dân, đồng thời thấu hiểu nội tâm và vẻ đẹp tâm hồn của họ đã vinh dự được xếp vào là một trong 10 tác giả tiêu biểu nhất cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Cùng viết về chủ đề người nông dân khốn khổ trước cách mạng tháng 8, thế nhưng khác hẳn với Nam Cao hay Thạch Lam, luôn mang đến cho độc giả những cái chết xa hoặc gần, những cái tăm tối, bế tắc không hồi kết, thì ở Vợ nhặt, Kim Lân đã khéo léo mang lại ánh sáng cho người đọc giữa một khung cảnh ngột ngạt của nạn đói năm 1945. Ánh sáng đó xuất phát từ vẻ đẹp của tình người ấm áp và niềm hy vọng sống còn vẫn tiềm ẩn trong mỗi một nhân vật Tràng, Thị, và bà cụ Tứ, dẫu rằng phận đời của họ cũng mấp mé cảnh chết đói.
Bối cảnh câu chuyện diễn ra vào giữa nạn đói năm 1944-1945, khiến hơn hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc phải chịu cảnh chết đói, đó là cái nạn đói khủng khiếp mà nhà văn Nam Cao đã không khỏi ám ảnh nhắc lại rằng “có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình”. Ở xóm ngụ cư, nơi diễn ra câu chuyện, giữa nạn đói ấy Kim Lân đã gợi lại một viễn cảnh thê thảm, tiêu điều của một giai đoạn đau thương nhất lịch sử dân tộc bằng những câu văn nhẹ nhàng ẩn chứa nhiều nỗi niềm đau xót. Cảnh người dân từ khắp nơi bồng bế, dìu dắt, thất thểu đi trên đường làng, ai nấy đều “xanh xám như bóng ma”, người đói “ngổn ngang khắp lều chợ”, thần chết có lẽ đã triển khai ngay một cuộc tàn sát khi mà “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Những người còn sống có lẽ cũng đã xác định trước cái chết của mình, họ lầm lũi bước chầm chậm về phía nghĩa địa, kẻ “dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”. Bao trùm lên toàn bộ không gian ấy là tiếng quạ kêu thảm thiết từng hồi, như một loại kèn quái dị đưa ma những kẻ xấu số, chết không có chỗ chôn. Bởi lẽ lúc ban đầu người ta còn có sức chôn, sau vì đói, vì người chết nhiều quá nên người ta mặc kệ. Thậm chí, cái đói nó còn hóa thú cả con người, những kẻ sống sót từ nạn đói ấy có lẽ cũng có vài người nghe đến tên món thịt người cứu đói. Chao ôi, cái sự sống khốn khổ trong văn của Kim Lân nó thật thấm thía và nhiều ám ảnh.
Tuy nhiên Kim Lân, không cốt để phản ánh hiện thực chết chóc, đau thương hay lên án cái xã hội đày đọa bất công này, mà ông tập trung nhiều hơn về con người và vẻ đẹp tiềm ẩn trong họ. Từ nạn đói, bước ra 3 nhân vật rất tiêu biểu ấy là Tràng, Thị và bà cụ Tứ, những con người cũng bị cái đói hành hạ đến thê thảm. Trước hết nói về nhân vật Tràng, là một người dân ngụ cư, xấu xí, và nghèo đói, tính tình vô tư không lo nghĩ, chính vì thế Tràng không có nổi một tấm vợ. Anh cùng người mẹ già của mình nương tựa nhau trong một cái chòi rách phía rìa làng, ngày ngày anh làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm miếng ăn, nhưng ngày càng đói kém và công việc của anh cũng trở nên bấp bênh, bữa được bữa mất. Tuy nhiên cuộc đời khốn khó và bế tắc của Tràng bỗng có một bước ngoặt lơn khi anh “nhặt” được một cô vợ giữa buổi đói kém. Một cô vợ theo không anh chỉ sau hai lần gặp gỡ và bốn bát bánh đúc. Từ một câu nói bông đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò cùng anh” khởi đầu nhân duyên và một lời cầu hôn cũng nửa thật nửa đùa hợp với tính vô tư của Tràng “Này có theo tớ về thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, người đàn bà cong cớn, sưng sỉa, tàn tạ ấy đã sẵn sàng theo không Tràng, không cần mối lái, cưới xin, lễ hỏi gì sất, hai người đã thành vợ chồng dễ dàng như thế. Có thể nói rằng chưa có lúc nào mà con người ta lại xuống giá đến mức ngang bằng cọng rơm cọng rác có thể nhặt bất cứ đâu ở ngoài đường như thế, khốn khổ cho một kiếp người bị cái ăn, cái đói ép uổng. Tràng không ngờ rằng mình lại có được vợ bằng cái cách ấy, ban đầu anh cũng không có cái gọi là tình yêu trai gái gì với thị, chỉ đơn giản rằng anh đồng cảm, thương xót cho người đàn bà khốn khổ đã đói đến mức vật vờ, sắp chết nên đãi thị bốn bát bánh đúc. Đó là cái lòng lương thiện, là tình người khi sống với nhau ở trên đời của Tràng, người ta đâu thể hứa suông rồi không làm, người ta cũng đâu thể chứng kiến một mảnh đời tàn tạ, tội nghiệp sắp lìa đời, trong khi bản thân có thể giúp đỡ họ bằng 4 bát bánh đúc. Nhưng khi đã thành vợ, thành chồng, dường như trong lòng Tràng có cái gì đó nảy nở, Tràng cảm thấy mình có nghĩa vụ phải săn sóc và quan tâm đến cái người đàn bà đang đi bên cạnh mình. Tràng bỗng lột xác từ anh chàng khù khờ, cục mịch trở thành một người đàn ông tinh tế, thấy vợ rách nát tàn tạ quá, lại không có đồ đạc gì ngoài cái nón rách, anh dẫn thị vào chợ tỉnh mua lấy một cái thúng con và vài đồ lặt vặt. Thương thị không có được một đám cưới đàng hoàng, Tràng lại dẫn vợ đi ăn mừng cưới một bữa no nê, thậm chí phá lệ mua hai hào dầu về thắp đèn, cho cửa sáng sủa để đón thị về làm dâu mới cho có không khí. Tràng bỗng nhiên trưởng thành, thứ tình cảm với thị không chỉ còn nằm ở lòng thương hại, mà giờ đây đã trở thành tình thân, tình yêu, thứ tình cảm ấy khiến con người ta trưởng thành, nhân hậu và tinh tế hơn hẳn. Một niềm hy vọng sống và mưu cầu hạnh phúc mãnh liệt đã thắp lên trong tâm hồn Tràng “trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Tình yêu, hạnh phúc lứa đôi đã xóa mờ đi tất cả những khó khăn chất chồng, sự đe dọa của đói kém, mở ra trong lòng nhân vật những cảm xúc, những hy vọng mới mẻ, niềm tin mãnh liệt về một cuộc sống khấm khá hơn. Sau đêm tân hôn, trước “cảnh tượng thật đơn giản bình thường, nhưng đối với hắn thật thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, Tràng cảm nhận được rõ “một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong lòng”. Tràng đã nhận thức được trách nhiệm của bản thân với cuộc sống, với gia đình “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” và biến nó thành hành động “hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà”. Việc ý thức được phải lo lắng cho gia đình sau này, hay hành động tu sửa căn nhà rách nát chính là biểu hiện rõ nét nhất về niềm hy vọng vào một cuộc sống tương lai tốt đẹp đang đón chờ của nhân vật. Trách nhiệm và ý thức về cuộc sống hiện tại, đã mở ra trong lòng Tràng khao khát đổi đời, thay đổi cái sự sống khốn khó này bằng một cách nào đó. Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” chính là giải pháp, là niềm tin, niềm hy vọng mới của Tràng, mở ra cho anh một con đường sáng, đưa cả gia đình thoát khỏi cảnh bế tắc và tối tăm này.
Nhân vật thị, một người đàn bà khốn khổ, không tên tuổi, quê quán, dân ngụ cư, cong cớn sưng sỉa vì miếng ăn, cuối cùng theo không anh Tràng cũng vì miếng ăn, vì muốn tránh khỏi cái lưỡi hái của Tử thần. Cuộc đời của thị chính là tiêu biểu cho một loạt các cuộc đời có số phận tựa rơm rác giữa nạn đói năm 1945, bần cùng, thê thảm và tàn tạ. Ban đầu độc giả có thể có chút ác cảm với thị, một người đàn bà đã xấu người lại còn được cái xấu nết, thế nhưng sau tất cả người ta mới thấy rằng vì thị thiếu thốn quá, thiếu ăn thiếu mặc, thiếu sự bảo bọc chở che, sắp chết tới nơi thì người ta còn biết cái gì là liêm sỉ, mặt mũi nữa, thị khao khát được sống, cầu được sống, thị trân trọng mạng sống của mình. Thế nên thị buộc phải cong cớn, sưng sỉa để được ăn và cuối cùng là về làm vợ Tràng, ngẫm cảnh thị khép nép theo chồng về nhà, ngồi trong nhà Tràng một cách ngượng nghịu, người ta lại thấy thương hơn thấy ghét. Thật là một người đàn bà tội nghiệp. Thế rồi thấy cái cách chị hành xử trong gia đình, người ta mới dần nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của thị, khi nhìn thấy cái căn chòi rách nát của Tràng thị đã không khỏi thất vọng, thở dài, thế nhưng thị không tỏ ý chê trách, đỏng đảnh mà trái lại thị chọn im lặng, quyết tâm cùng chồng vun vén, tạo dựng hạnh phúc cho gia đình. Có lẽ rằng trong lòng thị vẫn còn nhớ cái ân nghĩa của người chồng cho thị 4 bát bánh đúc, cứu thị khỏi chết đói, và thị cảm động bởi cái sự săn sóc của Tràng. Cuối cùng thị cũng có một mái ấm, một tình thân, và thị càng trân quý hơn cái tình cảm của bà mẹ chồng dành cho mình, bà đã không chê thị là loại con dâu theo không, trái lại còn bảo ban, săn sóc. Sau đêm tân hôn, thị đã dậy sớm, ra sức vun vén, thu dọn nhà cửa, đem quần áo rách ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang hoàng nhà cửa, lột xác trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, biết chăm lo. Điều ấy đã chứng tỏ trong lòng thị thật sự trân quý thứ tình thân vừa mới có được và thị muốn hết lòng vì nó. Trong bữa cơm sáng, trước món “chè khoán”, đắng ngắt và khó khăn, mắt thị tối lại, thị tủi thân, nhưng hơn hết là thị thương bà cụ, một người mẹ già nghèo khó không có tiền bạc chuẩn bị cho con cái được bữa chè mừng cưới, buộc lòng bà phải đãi món chè khoán. Chính vì thế thị đã giấu đi nỗi thất vọng và buồn tủi của mình cốt để bà cụ khỏi buồn, và không phá vỡ đi cái không khí gia đình đang đầm ấm, yên vui này. Bên cạnh đó ngoài vẻ đẹp tình thân, ở nhân vật thị cũng toát lên một niềm hy vọng vào cuộc sống rất mãnh liệt, thị đã nhắc đến chuyện người ta đi phá kho thóc của nhật, và lòng thị cũng dần rộn lên những suy nghĩ về việc đi cướp thóc, cải thiện cuộc sống, thị tin rằng tương lai bằng đôi bàn tay của thị, Tràng và bà cụ Tứ sẽ ngày một tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn.
Với nhân vật bà cụ Tứ, có lẽ rằng đây là nhân vật bộc lộ một cách rõ nét nhất về tình thân và niềm hy vọng vào cuộc sống, mặc dù bà cụ đã là người gần đất xa trời. Người phụ nữ hiền hậu, nghèo khó cả đời buôn ba khốn khổ nuôi con khôn lớn, khi con lớn rồi thì bà lại cứ mãi day dứt về chuyện không thể cưới nổi vợ cho con. Thế nên khi nghe chuyện Tràng cưới vợ, bà cụ ban đầu là sửng sốt, hoang mang, sau ấy là trở nên tủi hơn “cúi đầu nín lặng”. Bà xót xa cho cái phận mình, phận con, người ta cưới xin lúc ăn nên làm ra, nhà có của dư của để, đãi làng đãi xóm, còn con mình lại lấy vợ ngay giữa nạn đói, không cỗ bàn, cưới hỏi, giữa cái không khí thê thảm, tiêu điều của làng xóm, nghĩ mà thêm chua xót. Lòng của người mẹ thương con không chỉ buồn bã, tủi phận mà còn lo lắng một nỗi rằng không biết rồi đôi vợ chồng có thể dìu dắt nhau qua được cái nạn đói khủng khiếp này không. Từ nỗi lo bà cụ là người từng trải, nên cũng nhanh chóng lạc quan và thông suốt bà thương con và thương cả người đàn bà đã theo con mình, phải vào bước đường cùng thì người ta mới chịu lấy con mình, chứ nào đâu có dễ dàng gì, vì thế bà lại càng thêm quý trọng mối nhân duyên này. Bà cụ đã thật hiền từ mà nhanh chóng gật đầu cho mối hôn sự “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lắm”. Rồi xuất phát từ tấm lòng của người mẹ bao dung, nhân hậu bà liên tục cho các con những lời dặn dò, động viên tinh thần để các con chăm lo làm ăn, ổn định cuộc sống, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình. Tuy ít học hành, nhưng bà cụ Tứ thật xứng đáng là người mẹ hiền, thông tuệ, có tấm lòng yêu thương con sâu sắc, biết chia sẻ và giúp đỡ các con trong cơn đói kém bằng sức mạnh của tình thân, tình người. Sau đêm tân hôn, bà cụ đã xua đi cái không khí u ám, buồn rầu của nạn đói bằng cách liên tục kể các câu chuyện vui, gieo vào lòng con trai con dâu những niềm tin, niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng với các kế hoạch làm ăn, nuôi gà,… vạch ra một chặng đường tương lai đầy hứa hẹn khiến không khí gia đình trở nên sôi nổi, hạnh phúc. Lòng người mẹ thương con, còn bộc lộ thông qua hình ảnh nồi chè khoán, bà cụ Tứ nghèo khó không có tiền đãi con được bữa chè ngon ngọt, chỉ có một nồi cháo cám, đắng ngắt, nghẹn bứ ở cổ, nhưng ấy là tấm lòng của người mẹ, đang cố xua đi những cái đói, cái u ám của sự tử vong dần lan trên xóm ngụ cư.
Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc, ở đó vẻ đẹp của tình thân tình người, niềm tin và niềm hy vọng vào cuộc sống vẫn hiện lên một cách tiềm tàng và âm ỉ trong tâm hồn mỗi con người, mà không hề bị cái đói, cái chết vùi dập, chôn lấp. Trái lại dựa vào sức nuôi dưỡng mạnh mẽ của tình thân, thì hy vọng sống còn của con người càng trở nên mạnh mẽ và tỏa sáng, mở đường cho con người thoát khỏi cảnh bế tắc, khốn cùng.
Vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống
Bài làm mẫu 1
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thủy” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời.
Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lí nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian năm đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ. Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng qua kêu từng hồi thê thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa.
Một anh thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người-một thân xác vạm vỡ, lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm của vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua”. Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi thật bất ngờ nhưng rất hợp logic. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao? Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc. “Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình.
Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt quyền sống con người. Thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong thư thế “vân vê tà áo đã rách bợt”, điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu đi trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kỹ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật.
Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”. Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo đã rách bợt” mà lòng đầy thương xót. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ”. Và thật xúc động bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng: “Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”.
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng mà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khó ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn truyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu: “Chè khoán đây. Ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân-một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepxki). Vâng, “vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.
Bài làm mẫu 2
Kim Lân là nhà văn có sở trường về đề tài nông thôn, người nông dân, những tác phẩm của ông không chỉ hướng đến thể hiện những hiện tượng nổi bật của xã hội đương thời mà còn thể hiện được tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ông sáng tác không nhiều nhưng những sáng tác đều mang giá trị cao. Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc của Kim Lân khi viết đề đề tài nạn đói năm 1945. Viết về nạn đói nhưng Vợ nhặt không nhằm mục đích phơi bày cái chết chóc, đau thương của nạn đói mà từ cảnh ngộ của mỗi nhân vật, tác giả đã thể hiện được hơi ấm của tình người cũng như niềm hi vọng vào cuộc sống, điều này được thể hiện rõ nét qua các nhân vật: anh Tràng, chị vợ nhặt, bà cụ Tứ.
Vợ nhặt viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945, nạn đói hoành hành khiến cho không gian xã hội trở nên ngột ngạt, tù túng với ám ảnh khủng khiếp về cái chết. Từ đầu phố đến cuối ngõ là cảnh người chết như ngả rạ, người sống thì lay lắt, vật vờ như những bóng ma, đó là những con người đáng thương đang đứng trên bờ vực của sự sống và cái chết. Tuy nhiên, cũng trên cái nền đen tối, ám ảnh khủng khiếp bởi nạn đói, sự chết chóc ấy vẫn nổi bật lên ánh sáng của tình người, của niềm hi vọng vào sự sống. Trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất, những con người khốn khổ vẫn không đánh mất đi những nét đẹp vốn có của mình mà vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình thương, của niềm hi vọng.
Tràng là người đàn ông xấu xí, nghèo khổ sống ở xóm Ngụ cư, tuy nhiên trái với vẻ ngoài xấu xí, gia cảnh nghèo hèn bên ngoài, Tràng hiện lên là một con người ấm áp, giàu tình thương. Tràng chấp nhận cưu mang người đàn bà xa lạ, đói rách mà bỏ mặc những gánh nặng khủng khiếp của thời kỳ đói khát. Không những thế, sau khi vô tình “nhặt” được vợ, Tràng đã không tỏ thái độ coi thường mà ngược lại rất trân trọng đối với người vợ nhặt này.
Trong đêm đầu tiên vợ về nhà, Tràng đã bỏ 2 hào mua dầu, đây được coi là hành động hào phóng, bởi trong nạn đói nhu cầu cấp thiết là miếng ăn nhưng anh Tràng đã bỏ tiền mua dầu để làm cho đêm đầu tiên vợ về nhà trở nên đặc biệt hơn. Sau khi có vợ, Tràng ý thức được việc mình đã có vợ, đã có một gia đình nhỏ đúng nghĩa, từ đó thấy mình có trách nhiệm lo cho vợ, cho gia đình.
Người vợ nhặt là người đàn bà khốn khổ bị nạn đói vắt kiệt sự sống, thể hiện ở thân hình tiều tụy, vẻ ngoài rách rưới, ban đầu chị ta tạo ấn tượng với người đọc với vẻ chao chát, chỏng lỏn không kém phần vô duyên khi vô tư đòi anh Tràng trả công đẩy xe bò. Tuy nhiên, từ khi theo anh Tràng về làm vợ thì người đàn bà ấy đã thay đổi hẳn, không còn sự chao chát, chỏng lỏn mà đã trở thành người vợ hiền hậu đúng mực. Khi chứng kiến gia cảnh nghèo khó của anh Tràng, dù thất vọng nhưng chị ta vẫn cố giấu sự thất vọng trong ánh mắt tối lại, trong tiếng thở dài cố nén.
Dù có chút buồn, thất vọng khi chứng kiến hoàn cảnh nghèo khó của anh Tràng nhưng khát khao hạnh phúc vẫn nhen nhóm để người đàn bà ấy chủ động nắm giữ, chủ động vun vén hạnh phúc gia đình: cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa, trong phần cuối tác phẩm chị vợ nhặt cũng đã thoáng nghĩ đến sự thay đổi, hy vọng vào một tương lai tươi sáng của cuộc sống thể hiện qua chi tiết nhắc đến chuyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế, phá kho thóc Nhật chia cho người nghèo.
Nhân vật bà cụ Tứ đã thể hiện rõ nét nhất vẻ đẹp của tình người. Trước tình thế bất ngờ khi anh con trai dẫn về người đàn bà lạ mặt, bà cụ Tứ không tỏ ra rẻ rúng, coi thường đối với người phụ nữ theo không con mình về làm vợ “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, sau giây phút ngạc nhiên bà đã chấp nhận người đàn bà như dâu con trong nhà.
Trước hạnh phúc bất ngờ của con trai, bà vừa mừng cho con, vừa tủi cho mình vì thân là mẹ mà chẳng thể lo cho con, để con phải “nhặt” vợ trong cảnh túng đói. Bao cảm xúc phức tạp từ vui mừng, lo lắng, buồn tủi, hi vọng của bà cụ Tứ đều xuất phát từ tấm lòng thương con của bà.
Không chỉ thương con mà bà cụ Tứ còn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai, bà không ngừng động viên các con chịu khó làm ăn với triết lí dân gian “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, hướng các con đến ánh sáng của tương lai. Để tạo ra sự đổi thay của cuộc sống, bà cụ Tứ đã cùng con dâu dọn dẹp nhà cửa, nói những câu chuyện về tương lai.
Thông qua ba nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã thể hiện nỗi đồng cảm với số phận của con người, đồng thời thể hiện sự trân trọng đối với sức mạnh của tình thương, của niềm hy vọng có thể vượt lên mọi ám ảnh đói khát để tỏa rạng.
Bài làm mẫu 3
Nạn đói năm 1945 mà thực dân Pháp gây ra cho chúng ta thật sự rất nặng nề, nạn đói năm ấy không chỉ là vấn đề được nhắc đến trong lịch sử, trong các vấn đề xã hội lúc bấy giờ mà nó còn được nhắc đến trong văn học. Tác phẩm tiêu biểu nói về nạn đói năm ấy chính là truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – một nhà văn của làng quê. Kim Lân không chỉ thành công trong việc xây dựng thành công nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng mà ông còn thành công với việc miêu tả nạn đói năm 1945 trong truyện ngắn Vợ nhặt. Đặc biệt tác giả không chỉ nói lên nạn đói ấy mà còn khắc họa những tác động của nạn đói lên nhân vật của mình mà cụ thể ở đây là Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Trong nạn đói ấy con người Việt Nam vẫn lấp lánh vẻ đẹp của tình người và niềm tin vào cuộc sống.
Nạn đói năm 1945 được nhà văn Kim Lân miêu tả thật đau thương, nhưng chính cái hoàn cảnh đau thương ấy mới thấy được những vẻ đẹp của người dân Việt Nam ta. Cái đói đã tìm đến xóm ngụ cư của mẹ con Tràng. Buổi sáng ra đường đã thấy mấy cái xác bốc mùi hôi thối, có những người đói nằm dài trên đường trưa về thì họ đã chết. Hôm nào chẳng vậy phải đến ba bốn cái thây nằm trên đường, trên cao những tiếng quạ kêu thật thảm thiết. Có thể nói tử thần đang bủa vây nơi đây.
Trước hết là vẻ đẹp tình người trong các nhân vật trong truyện, người đầu tiên cần nhắc đến là anh Tràng. Anh cùng với mẹ già ở một xóm ngụ cư mà người dân ngụ cư thì thường bị người ta khinh ghét. Tràng có một ngoại hình vô cùng xấu xí anh có đôi mắt gà gà, lưng to như lưng gấu. Anh làm nghề kéo xe thuê, anh thường kéo xe gạo lên tỉnh, có đợt anh đang kéo thấy mấy cô ả ngồi chơi với nhau nhặt nhạnh những hạt lúa hạt thóc vãi trên đường. Anh ngẫu hứng hò lên một câu:
“Có ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Không ngờ những cô gái kia đã đáp lại Tràng, họ đẩy một cô gái ra chỗ anh và cười tít. Chuyện cũng bắt đầu từ đấy, Tràng hứa thế nhưng anh cũng có hơn cô gái đó là bao. Sau chuyện ấy có lần anh đang ngồi uống nước thì thị chạy đến trông thị khác lắm, cái mặt gầy sọp lại nhìn như cái lưỡi cày. Thị như hiện thân của cái đói. Thế rồi thị đòi ăn kêu Tràng hôm trước nói dối, thị ăn liền bốn bát bánh đúc. Anh Tràng tưởng thế mà hào phóng quá. Nhưng thật sự mà nói trông thị như thế Tràng cũng không nỡ từ chối, đó chính là cái tình thương của anh Tràng dành cho Thị. Thị ăn xong theo anh về nhà Tràng, Tràng nghĩ bây giờ đến thân mình còn chưa lo xong lại còn đèo bòng nhưng anh vẫn tặc lưỡi mà đưa Thị về nhà mình. Người trong xóm ngụ cư ai nhìn thấy cũng lo cho anh Tràng nhưng biết làm sao được dẫu nạn đói hoành hành nhưng tình thương người của Tràng đã không thể bỏ mặc người phụ nữ kia được, thế là anh đã có vợ rồi, một người vợ nhặt ngoài đường. Thế đấy trong nạn đói con người bị coi như cỏ rác có thể nhặt mà mang về được.
Vẻ đẹp tình người còn thể hiện rõ trong người vợ nhặt kia, Thị xuất hiện thật xấu và ghê gớm. Kim Lân cho Thị với một vẻ như hiện thân của cái đói, gầy gò “mặt như lưỡi cày”. Cái đói kia chính là nguyên nhân làm cho Thị trở nên chỏng lỏn và mất đi vẻ duyên dáng ấy. Nghe anh Tràng tán gẫu thì tin ngay chạy ton ton ra đẩy xe bò với anh này. Gặp lại Tràng, Thị chẳng ngại gì nữa mặc cho anh không nhận ra mình Thị nhận lại để quen, rồi sà xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc, ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng. Có lẽ Thị đói quá nên không còn để ý được sự tế nhị dịu dàng của một cô gái nữa. Thị chẳng biết đi đâu nữa Thị theo Tràng về nhà, Thị nghĩ mình sẽ được sung sướng. Nhưng khi về nhà Tràng thì mới vỡ lẽ ra, những điều Thị mơ tưởng thực sự không giống thực tại trước mắt. Mặt Thị sầm lại nhưng Thị lại chấp nhận và quyết định ở lại cùng Tràng. Đó cũng là một tình người đáng quý không thấy người sang bắt quàng làm họ không thấy nghèo khó mà nỡ bỏ người ta ra đi.
Về phần bà cụ Tứ, bà là một người mẹ cao cả và giàu đức hi sinh. Đã ở cái tuổi xế bóng chiều nhưng bà vẫn phải đi làm kiếm ít tiền để đối mặt với nạn đói. Khi trở về bà thấy hành động của anh Tràng thấy bà linh cảm có điều gì đó. Khi vào trong sân nhìn vào nhà thấy người đàn bà nọ, cụ Tứ giật mình rồi ngạc nhiên tự hỏi chính mình không biết phải con cái Đục không. Nhưng không khi hiểu rõ sự tình cụ chỉ biết quay mặt đi dấu những hàng nước mắt của mình. Cụ nghĩ tới cảnh đói mà nhà lại thêm một miệng ăn nhưng dù sao như thế thì con cụ cũng có vợ. Tình thương người trong cụ dâng lên, cụ thương con trai, cụ thương cả con dâu nữa. Cụ nhìn người đàn bà mân mê vạt áo đã rách bươm mà lấy làm thương xót. Cụ chỉ biết nói “thôi chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng”. Tình thương của cụ thể hiện rất rõ khi cụ chấp nhận Thị và khuyên răn họ rằng không ai nghèo ba họ không ai khó ba đời, chỉ cần qua cái đợt này thì chúng mày cũng yên bề gia thất. Cụ không những thương con, nhân hậu, có hậu mà còn khuyên nhủ con hướng các con mình đến một tương lại sáng lạn hơn.
Và như thế ba con người ấy trong nạn đói thương lấy nhau, thông cảm cho nhau và cùng nhau vượt qua nạn đói. Đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ thật sự không có rượu nồng ấm, ngày cưới không có nồi đồng chén ngọc, mâm xôi con lớn béo, vò rượu tâm. Tất cả chỉ là những tiếng khóc của những nhà có người chết và tiếng quạ kêu.
Không chỉ đẹp về tình thương người họ còn lấp lánh một niềm tin vào tương lai tươi sáng. Niềm tin ấy được thể hiện ở buổi sáng hôm sau. Khi mọi người thức dậy buổi sáng hôm ấy khác với những buổi sáng thường ngày. Thức dậy chẳng ai bảo ai mỗi người một tay làm việc nhà, Tràng dậy sau cùng thấy nhà của hôm nay tươm tất sạch sẽ quá. Cái áng khô cong đã được kéo nước đầy ắp, người vợ của anh đang phụ mẹ chồng quét dọn nhà cửa xong lại nhổ những bụi cỏ trong vườn. Tràng cảm thấy anh phải có trách nhiệm và gia đình nhỏ của mình rồi. bữa sáng được dọn ra đó là niêu cháo lõng bõng nước nhưng họ vẫn ăn rất vui vẻ. Trong lúc ăn cụ Tứ còn nói chuyện tương lai với hai con. Cụ tính chỗ vườn kia sẽ nuôi một đàn gà, họ nói chuyện về tương lai với một niềm tin đổi đời. Đang vui thì cháo hết, bà cụ Tứ mang lên một nồi chè khoán, hai vợ chồng Tràng háo hức nhưng khi ăn miếng “chè” thì Thị phải nuốt cố vì nó quá chát. Khổ đến mức phải ăn cả cám nhưng có những nhà cám không có mà ăn. Thế rồi tiếng trống giục thuế kêu lên, Thị kể về những người cướp xe thóc của giặc đầy đê và mang theo lá cờ đỏ sao vàng. Từ lúc đó trong đầu Tràng cứ phấp phới lá cờ đỏ sao vàng ấy. Có lẽ đó là con đường mà Tràng đang dần dần giác ngộ đi tới. Nhà văn Kim Lân đã mở một con đường tương lai mới cho nhân vật của mình.
Qua đây có thể khẳng định ngay cả trong nạn đói nhân dân ta vẫn cứ yêu thương đùm bọc lấy nhau, lá lành đùm lá rách. Trước thực tại đau khổ và chết chóc họ không thôi nhìn về tương lai với một niềm tin đổi đời và thật sự ở cuối tác phẩm đã lóe sáng một con đường đổi đời mới làm tác giả muốn nhắc đến, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng như thể hiện quy luật đến với cách mạng của những người dân Việt Nam.
Bài làm mẫu 4
Bằng tài năng nghệ thuật cùng vốn hiểu biết sâu sắc về cuộc sống và tâm hồn của những người nông dân nhà văn Kim Lân đã tái hiện thành công chân dung của những người nông dân nghèo. Truyện ngắn Vợ nhặt, một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của mình, Kim Lân không chỉ thể hiện sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống của người nông dân mà còn thể hiện được vẻ đẹp tình người cùng khát vọng mãnh liệt về một cuộc sống tươi đẹp qua các nhân vật anh cu Tràng, chị vợ nhặt và bà cụ Tứ.
Truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ là tác phẩm tiêu biểu bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim Lân mà còn là tác phẩm đặc sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Vợ nhặt là câu chuyện về anh cu Tràng vô tình nhặt được vợ trong thời điểm khủng khiếp nhất của nạn đói, qua đó tác giả Kim Lân cũng thể hiện được vẻ đẹp của tình người, của khát vọng sống mãnh liệt và niềm tin của những con người nghèo khổ về một tương lai tươi sáng. Vẻ đẹp sự sống tuyệt vời này được bao trùm trong toàn tác phẩm, qua những nhân vật trong câu chuyện như: anh Tràng, bà cụ Tứ, chị vợ Nhặt.
Cái đói, cái nghèo dữ dội, khủng khiếp, nó đẩy con người ta vào sự đau thương của chết chóc, chia lìa, đặt con người đứng trên ranh giới của sự sống và cái chết nhưng bằng tình thương, lòng nhân ái, những con người đói khổ ấy vẫn vươn lên cái chết, cái ảm đạm để thắp sáng niềm tin cho cuộc sống của chính mình.
Trước hết là nhân vật Tràng, theo miêu tả của nhà văn Kim Lân, đây là một người đàn ông nghèo khổ sống ở xóm Ngụ cư, tính cách thật thà, chịu khó làm ăn nhưng lại có phần hơi ngờ nghệch. Tuy nhiên, vẻ bề ngoài thô kệch lại nghèo khó không thể phủ nhận được con người tình nghĩa, “hào phòng” bên trong của anh Tràng. Trong cái đói khủng khiếp, miếng ăn là nhu cầu cần thiết và trên hết nhưng anh Tràng vẫn sẵn sàng chia sẻ miếng ăn cho người phụ nữ đã đẩy xe bò thóc cho mình, chấp nhận cưu mang người đàn bà xa lạ trong khi cuộc sống của mình cũng không mấy khá khẩm hơn.
Qua hành động mua hai hào dầu để thắp sáng trong đêm đầu tiên chị vợ nhặt về nhà đã thể hiện sự hào phóng cũng như tình nghĩa của anh Tràng. Hành động mua dầu vô cùng hào phóng này không chỉ nhằm mục đích tạo ra sự đặc biệt như một sự chào đón với người vợ mới mà còn thể hiện sự trân trọng của anh Tràng đối với chị vợ Nhặt và với hạnh phúc khó khăn lắm mới có được này của mình.
Anh Tràng là người sống có tình nghĩa và trách nhiệm, tuy hồn nhiên ngờ nghệch nhưng anh vẫn nhận ra sự buồn bã, thất vọng cố giấu của người vợ, cũng từ đó anh tự đặt ra trách nhiệm với bản thân để lo cho vợ con, tinh thần trách nhiệm này thể hiện qua suy nghĩ tu sửa căn nhà, nơi anh sẽ sống những ngày tháng tươi đẹp với vợ, con.
Chị vợ nhặt là người chao chát, chỏng lỏn nhưng khi theo anh Tràng về nhà chị đã thay đổi với sự hiền hậu đúng mực. Trước gia cảnh nghèo khó của mẹ con anh Tràng, tuy thất vọng nhưng chị vẫn cố giấu sự thất vọng trong tiếng thở dài. Cũng như anh Tràng, chị vợ Nhặt cũng rất trân trọng đối với hạnh phúc bất ngờ có được trong nạn đói này. Chị chủ động bắt chuyện với bà cụ Tứ, dậy sớm chuẩn bị cơm nước, dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ chồng.
Bên trong người đàn bà ấy là vẻ hiền hậu cùng với trái tim khát khao hạnh phúc, có lẽ bởi vậy mà chị chấp nhận cái nghèo vây hãm, chấp nhận ở lại cùng mẹ con anh Tràng. Cũng bởi ở ngôi nhà lụp xụp nhưng ấm áp tình thương này cho chị cảm giác hạnh phúc của một người vợ, người con.
Bà cụ Tứ lại là nhân vật điển hình cho những người mẹ Việt Nam trong xã hội bây giờ. Trước sự tình con trai “nhặt” được vợ, bị đặt vào sự đã đành nhưng sau giây phút bất ngờ bà đã chấp nhận sự xuất hiện của một người con dâu xa lạ. Trách nhiệm của người mẹ khiến bà xót xa vì chưa lo được cho con đầy đủ, người mẹ ấy cũng cố gắng tạo ra niềm vui cho các con bằng những câu chuyện về tương lai tốt đẹp.
Trong không gian u ám, đen tối của nạn đói, tình người và sự sống mãnh liệt trong tâm hồn những con người xóm Ngụ cư vẫn tỏa rạng, làm cho bức tranh nạn đói trở nên tươi sáng hơn. Thấu hiểu và khắc họa thành công những vẻ đẹp tiềm ẩn ấy, nhà văn Kim Lân đã cho người đọc thấy được tinh thần nhân đạo sâu sắc trong Vợ nhặt.
………..
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn Vẻ đẹp tình người trong Vợ nhặt
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống trong Vợ nhặt 2 Dàn ý và 7 bài văn mẫu lớp 12 hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.