TOP 9 mẫu Quan niệm nhân sinh trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu dưới đây sẽ là tài liệu hữu ích nhằm giúp cho các em học sinh tự học một cách thuận lợi, đặc biệt là trong việc chuẩn bị bài ở nhà trước khi đến lớp.
Quan niệm nhân sinh mới mẻ trong Vội vàng mà Xuân Diệu muốn gửi đến đó là phải biết tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời, sống mãnh liệt, sống hết mình, sống nồng nàn, say mê. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời. Ngoài ra để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm phân tích Vội vàng.
Quan niệm nhân sinh mới mẻ trong Vội vàng
- Dàn ý triết lí nhân sinh của Xuân Diệu trong Vội vàng
- Quan niệm nhân sinh mới mẻ trong Vội vàng
- Triết lí nhân sinh của Xuân Diệu trong Vội vàng
Dàn ý quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu trong Vội vàng
I. Mở bài
– Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, và triết lý nhân sinh trong tác phẩm. (1,0 điểm)
II. Thân bài:
1. Triết lý nhân sinh trong bài thơ Vội vàng:
Triết lý nhân sinh trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu là triết lý sống mãnh liệt, sống là tận hưởng, tận hiến. Triết lý nhân sinh đó được tắm đẫm trong cảm xúc trữ tình thành một dòng tâm trạng sống động. Cụ thể:
a. Vẻ đẹp của thiên đường nơi trần thế:
– Thiên nhiên là một khu vườn đầy xuân sắc, xuân tình, tươi trẻ, đầy sức sống: “tuần tháng mật, hoa đồng nội…khúc tình si” → nhà thơ đã phát hiện có một thiên đường ngay trên mặt đất này với những hoa thơm, trái ngọt của mùa xuân.
– Vẻ đẹp thiên đường trần thế là do chính con người tạo ra.
– Chính đôi mắt “xanh non”, “biếc rờn” của nhà thơ mới đã khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên → hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình.
b. Trong cuộc sống trần thế, con người là đẹp nhất. Đặc biệt là trong độ tuổi trẻ và tình yêu:
– Với Xuân Diệu, con người là chuẩn mực cho vẻ đẹp chứ không phải thiên nhiên là chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người như thơ xưa.
– Nhà thơ đã sáng tạo ra những hình ảnh độc đáo, táo bạo “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” → hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình.
c. Con người phải biết tận hưởng, sống hết mình với tuổi thanh xuân của mình:
– Xuân Diệu là người rất nhạy cảm với bước đi của thời gian bởi chính nhà thơ ý thức được sâu sắc về giá trị của sự sống cá thể trong cuộc đời:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.
→ Khát khao được sống sôi nổi, mãnh liệt, hết mình, tận hưởng phần ngon nhất của đời người: tuổi trẻ, tình yêu.
– Khát vọng sống đến vồ vập, cuống quýt: “ta muốn ôm’, “ta muốn riết”, “ta muốn say”, “ta muốn thâu”, “cho chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê”, “muốn cắn”…
2. Nghệ thuật thể hiện:
– Ngoài việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật: sử dụng đại từ nhân xưng, động từ mạnh…
– Triết lí nhân sinh mới lạ của bài thơ còn biểu hiện qua việc sử dụng những hình ảnh biểu tượng: Mùa xuân – tuổi trẻ. Dùng các hình ảnh biểu tượng là thủ pháp nghệ thuật quan trọng của văn học lãng mạn. Mùa xuân là biểu tượng của hạnh phúc, tình yêu và tuổi trẻ… tình yêu là biểu tượng cho hạnh phúc thế gian. Con người không phải tìm hạnh phúc ở cõi Niết Bàn của phật hay nơi thiên đường của Chúa mà hạnh phúc khởi phát từ trong lòng người và tồn tại trên mặt đất.
III. Kết bài:
Triết lý nhân sinh trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu thể hiện rõ “cái tôi” của nhà thơ, một “cái tôi” điển hình cho thời đại thơ mới. Đó là một ý thức sâu sắc về giá trị đời sống cá thể (một ý thức nhân bản, nhân văn cao). Một niềm thiết tha với cuộc sống trần thế. Một khát khao mãnh liệt và một tâm thế sống cuồng nhiệt, tích cực.
Quan niệm nhân sinh mới mẻ trong Vội vàng
(Bài làm của giáo viên)
Bài làm mẫu 1
Độc giả yêu thơ chắc hẳn không ai không biết thi sĩ lừng danh Xuân Diệu và không bị cuốn hút bởi thi phẩm độc đáo Vội vàng của ông? Vì Vội vàng được tạo nên bởi một nhà thơ mới nhất trong tất cả các nhà Thơ mới, giàu giá trị nghệ thuật và đặc biệt là giàu ý nghĩa nhân sinh mới mẻ.
Chúng ta nhận thấy, trong lớp trẻ hiện nay ai đó còn có những quan niệm lệch lạc về cuộc sống. Sống tự do vô kỷ luật, sống buông thả, vô trách nhiệm, sống gấp, sống vội, lạnh lùng, vô cảm…và đặc biệt là ý thức tự giáo dục rất thấp… Có không ít bạn trẻ đang lúng túng không biết nên hiểu về quan niệm nhân sinh trong thời hiện đại như thế nào? Nhưng, có một sự thật là khi được học bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu các em đều cảm thấy tâm đắc và dường như đã tìm thấy một lời giải đáp cho quan niệm sống đúng đắn của mình.
Trong lời giới thiệu Thơ của Xuân Diệu , Thế Lữ viết; “Thơ ông dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” với một lòng yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Cho nên, ngay từ đầu bài thơ “Vội vàng”, thi sĩ dã trưng bày ra trước mắt ta bức tranh cuộc sống trần thế tràn ngập âm thanh, tràn ngập màu sắc, tràn ngập ánh sáng:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần…
Mỗi câu thơ dựng lên 1 vẻ đẹp của cuộc đời khiến người đọc thấy trần thế phong phú quá, tràn đầy quá, hấp dẫn quá! Mật ngọt của ong bướm, hoa lá của đồng nội, khúc nhạc tình của chim chóc, ánh sáng của bình minh, mùa xuân của đất trời, đôi môi của thiếu nữ…Những âm thanh, hình ảnh ấy như vừa mới từ cuộc sống tràn vào thơ nên còn tươi nguyên, nóng hổi. Nó tác động trực tiếp vào giác quan của người đọc như mời gọi, như quyến rũ!
Đoạn thơ như một phép liệt kê. Nhà thơ như đang kể, đang đếm, đang tính tất cả vẻ đẹp của cuộc đời với một cảm xúc hăm hở. Song, liệt kê mà vẫn không gây cảm giác nhàm chán, đơn điệu bởi lẽ mỗi câu thơ dựng lại một vẻ đẹp riêng của cuộc sống, sự phát hiện vẻ đẹp của nhà thơ càng về sau càng tinh vi. Quả thật, Xuân Diệu đã viết về cuộc sống với tất cả tấm lòng đam mê dào dạt. Ta cảm thấy những câu thơ như tuôn thẳng ra từ tâm hồn và máu thịt của ông. Câu nọ xọ câu kia, ý nọ xọ ý kia không ngừng, không nghỉ như những đợt sóng vô hạn, vô hồi. Rồi điệp ngữ “này đây” vừa như tiếng reo vui sướng, háo hức, vừa như lời mời gọi tha thiết. Xuân Diệu như muốn đem tất cả cuộc đời mà trao tặng, mà dâng hiến cho loại người!
Ẩn đằng sau bức tranh tươi mới tràn đầy của cuộc đời, ta bắt gặp 1 quan niệm nhân sinh mới mẻ, tích cực của nhà thơ. Có thể nói “Vội vàng” là bài ca về tình yêu cuộc sống. Là lời kêu gọi mọi người hãy tìm thấy cái đẹp, cái hạnh phúc ngay ở cuộc sống trần thế. Cuộc đời này rất đẹp, rất đáng sống. Vậy thì hãy sống hết mình, sống thật mạnh mẽ, hãy biết tận hưởng tất cả những gì mà cuộc đời ban cho! Đây là quan niệm sống mang tính nhân bản sâu sắc, đối lập hoàn toàn với tư tưởng thoát li, bi quan của các nhà Thơ mới đương thời hay của một số bạn trẻ hiện nay!
Nhưng cũng chính vào lúc Xuân Diệu cảm nhận hết cái đẹp, cái hấp dẫn, cái đáng sống của cuộc đời cũng là lúc ông buồn cho sự ngắn ngủi của kiếp người. Giọng thơ háo hức, reo vui vụt tắt, đoạn thơ khép lại bằng cảm giác hụt hẫng, buồn bã: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”! Thi sĩ cảm nhận rất rõ quy luật nghiệt ngã của thời gian:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất .
Với Xuân Diệu, thời gian không bao giờ là đại lượng vô hình. Nó in rõ dấu ấn trên mọi sự vật. Ở đây, thời gian được ông cụ thể hoá qua bước đi và sự tàn tạ của mùa xuân. Cuộc sống là sự vận động không ngừng, không một ai, không một cái gì có thể đứng yên. Thời gian không chờ đợi, ngày đang tới nghĩa là ngày sẽ qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già. Vậy, con người phải chạy đua với thời gian, phải chiến thắng thời gian mà sống. « Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân » mà luyến tiếc mùa xuân ngay giữa mùa xuân. Đó là lối sống quý trọng thời gian, đón trước thời gian !
Đỉnh cao của sự lo sợ tiếc nuối được thể hiện trong 2 câu thơ:
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Thế giới vĩnh viễn vô cùng mà đời người thì có hạn, tuổi xuân vô cùng ngắn ngủi. Đó là quy luật nghiệt ngã muôn đời. Nó như những giọt băng giá nhỏ xuống tâm hồn đang độ nồng cháy nhất khiến thi sĩ kêu lên một cách thất vọng : Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất ! Tuy nhiên nỗi buồn của Xuân Diệu không đem lại cho người đọc cảm giác buông xuôi, chán nản. Mà ngược lại , nó kích thích lòng ham sống, kêu gọi con người hãy sống thật mạnh mẽ, sống hết mình, chạy đua với thời gian mà sống ! Ko tắt được nắng đi, ko buộc được gió lại. Vậy thì chỉ còn 1 cách « Mau đi thôi/ mùa chưa ngã chiều hôm » ! Thi nhân như muốn ôm cả đất trời, muốn thu nhận vào lòng mình tất cả âm thanh, hình ảnh, màu sắc, cảm giác của cuộc sống cho thật no nê, cho thật thoả mãn ! Cảm xúc nồng nàn, mãnh liệt đó tác động trực tiếp vào giác quan người đọc : Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và cây và cỏ rạng
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi !
Vội vàng chính là cốt lõi của quan niệm sống, quan niệm ứng xử với thời gian và cuộc đời của Xuân Diệu. Ở đây, vội vàng không phải là hành động hay trạng thái nhất thời mà là những triết lí sống xuất phát từ sự nhận thức sâu sắc về giá trị của đời sống, giá trị của thời gian. Người đọc còn tìm thấy được sự tương đồng trong quan niệm của Xuân Diệu với phương châm sống tích cực của nhiều bạn trẻ hiện nay đó là « Cống hiến hết mình và hưởng thụ tối đa ». Hiểu Xuân Diệu, yêu Vội vàng, tin chắc rằng độc giả yêu thơ sẽ không thể đứng yên mà sẽ có những chuyển biến mạnh mẽ theo chiều hướng tích cực ! Biết quý trọng thời gian để làm những việc có ích cho đời. Biết yêu cuộc sống, quý trọng vẻ đẹp, hưởng thụ niềm vui ngay trong cuộc đời trần thế này nhưng cũng phải biết cống hiến tạo ra giá trị có ích cho đời. Có ý thức khẳng định cái Tôi cá nhân, khẳng định vai trò, tài năng, quyết tâm thực hiện lí tưởng và mục đích sống. Tránh xa lối sống thu mình, nhạt nhẽo, bàng quan. Đó chính thông điệp mang ý nghĩa nhân sinh tích cực mà nhà thơ muốn gửi gắm tới chúng ta. Đó chính là giá trị đích thực của thơ ca mang lại cho cuộc sống.
Bài làm mẫu 2
Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiên phong có nhiều đóng góp trong phong trào thơ Mới. Đọc thơ của ông ta như thấy được một tâm hồn thơ nhạy cảm, tinh tế nhưng cùng gần gũi với cuộc sống đời thường. Triết lí nhân sinh trong bài thơ Vội vàng được bắt nguồn từ bức tranh cuộc sống tươi đẹp mà nhà thơ đã tìm thấy. Chính vì lẽ đó mà ông đã bày tỏ khát vọng có phần táo bạo của mình với vẻ đẹp ấy ở ngay mở đầu bài thơ:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Khát khao chinh phục, nắm giữ được những khoảnh khắc tươi đẹp nhất của tự nhiên bởi tác giả biết được vẻ đẹp của thiên nhiên không phải nơi nào xa vời mà ở ngay mặt đất, ngay xung quanh chúng ta. Đó là bức tranh thiên nhiên mùa xuân ngập tràn sự sống:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si”
Chỉ bằng bốn câu thơ nhưng đã làm cho một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp với cả cảnh, hương, sắc như hiện ra trước mắt người đọc. Đó là cảnh ong bướm vờn nhau trong tuần tháng mật, ngày tháng đẹp nhất. Cảnh hoa cỏ của đồng nội với những cành lá xanh xì, phất phơ ngập tràn nhựa sống. Và mùa xuân không thể thiếu được ánh nắng ấm áp bao trùm mặt đất. Chính từ đây Xuân Diệu đã lồng ghép con người vào với cảnh vật, con người cũng là vẻ đẹp tô điểm cho bức tranh thậm chí trở thành trung tâm của cảnh vật: “ánh sáng chớp hàng mi”. Khác với thơ ca trung đại khi lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp thì Xuân Diệu đã dùng chính con người làm thước đo cho vẻ đẹp thiên nhiên: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đó là một sự so sánh táo bạo nhưng lại rất hợp tình hợp lý. Với nhà thơ, mỗi ngày khi thức giấc chính là một niềm vui bởi khi đó ta biết mình còn được sống, còn được tận hưởng tình yêu, vẻ đẹp của thiên nhiên. Chốn thần tiên, bồng lai tiên cảnh chẳng phải đi tìm đâu xa mà nó hiện hữu ở ngay quanh chúng ta, hạnh phúc con người phải được xây dựng từ cuộc sống hiện thực chứ không phải từ những thứ viển vông, xa vời.
Triết lý nhân sinh của Xuân Diệu còn được thể hiện bên trong một tâm hồn nhiệt tình, sôi nổi chính là sự sâu sắc, tinh tế về quy luật của mùa xuân tự nhiên và mùa xuân cuộc đời. Mùa xuân của tự nhiên là mùa xuân tuần hoàn dựa trên quy luật của tạo hoá. Nhưng cuộc đời của con người thì có hạn chính vì thế mà ông đưa ra quan điểm phải sống gấp, sống vội:
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Sự vội vàng thương tiếc, nhớ nhung mùa xuân ngay khi đất trời đang ở dộ xuân thì cho thấy ông đã sớm nhận ra quy luật của tạo hoá, có sự từng trải. Giữa lúc đang sung sướng, ngất ngây cũng không quên nâng niu, trân trọng từng phút giây và không quên luyến tiếc mùa xuân. Từ quy luật của thời gian, nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra triết lý nhân sinh về cuộc sống thông qua những khao khát của bản thân mình trong những câu thơ cuối. Ta muốn: ôm, riết, say, thâu toàn những hành động mạnh với nhịp thơ dồn dập thể hiện sự gấp gáp của người thi sĩ. Hãy dành hết tâm huyết, hãy tận hưởng cuộc sống bằng cả thể xác và tâm hồn ngay khi còn có thể để không phải nuối tiếc chính là lời kêu gọi của ông.
Có lẽ chính vì những triết lý nhân sinh đó mà giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã từng đưa ra lời nhận xét cho riêng bài thơ Vội vàng và cả tập Thơ thơ của Xuân Diệu rằng: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy có một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống”.
Bài làm mẫu 3
Quan niệm nhân sinh mới mẻ trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu. Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Nhắc đến Xuân Diệu ta không thể không nhắc tới bài thơ “Vội vàng”. Đây là một thành công xuất sắc của Xuân Diệu cả về phương diện nghệ thuật lẫn nội dung. Đọc bài thơ ta sẽ thấy một quan niệm nhân sinh mới mẻ và tiến bộ chưa từng có trong văn học trung đại Việt Nam.
Bài thơ mở đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn chứa đựng những khát vọng mãnh liệt và táo bạo của thi nhân:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Bốn câu đầu có lẽ là độc đáo nhất trong bài thơ vì chỉ riêng nó là thể ngũ ngôn. Nó là thể thơ phù hợp cho việc thể hiện những cảm xúc vồ vập của Xuân Diệu bởi câu thơ ngắn lại giàu nhịp điệu. Điệp ngữ “tôi muốn” được nhắc lại hai lần cùng với đó là hai động từ mạnh “tắt, buộc” đã làm nổi bật cái tôi khao khát của nhà thơ. Đó là khao khát “tăt nắng, buộc gió” để giữ lại màu hoa “Cho màu đừng nhạt mất” để giữ lại sắc hương “cho hương đừng bay đi”. Một khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để buộc hương hoa tươi thắm mãi bên đời. Ngông cuồng hơn cả là nhà thơ muốn vũ trụ ngừng quay, thời gian dừng lại để thi nhân tận hưởng được những phút giây tuổi trẻ của đời mình. Bởi nhà thơ sợ“tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, sợ “đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”. Suy cho cùng khát vọng ấy của Xuân Diệu thật ngông cuồng nhưng cũng rất hợp lí. Có được khát vọng ấy là nhà thơ nhận thấy cuộc sống này thật đẹp, thật đáng sống biết bao!
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Thiên nhiên như một bữa tiệc trần gian đầy những thực đơn quyến rũ: Ở đó có cảnh ong đưa và bướm lượn, tình tứ ngọt ngào như “tuần tháng mật”. Màu hoa trở nên thắm sắc ngát hương hơn “giữa đồng nội xanh rì”. Cây cối nảy lộc đâm chồi tạo nên những “cành tơ” với những chiếc lá tươi non phất phơ tình tứ. Điểm vào phong cảnh ấy là tiếng hót đắm say của loài chim yến anh đã tạo nên “khúc tình si”say đắm lòng người. Và cuối cùng Xuân Diệu đã kết lại bức tranh mùa xuân bằng một câu thơ đầy gợi cảm “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đây là một cách so sánh đầy gợi cảm, có một chút nhục cảm. Tháng giêng thanh tân, diễm lệ, đầy ánh sáng, màu sắc, âm thanh và hương thơm trở thành “cặp môi gần” rất “ngon, ngọt” của người tình nhân. Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm. Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất của đời người. Và chắc chắn phần ngon nhất của người thiếu nữ là bờ môi chín mọng kia. Để rồi thi sĩ phải thốt lên rằng:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Trong một câu thơ mà thi sĩ có hai tâm trạng “Tôi sung sướng” – “Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm ở giữa câu đã phân tách nhà thơ thành hai nửa: nửa sung sướng và nửa vội vàng. Tâm trạng “sung sướng” là tâm trạng: hạnh phúc, lạc quan, yêu đời, tươi vui đón nhận cuộc sống bằng tình cảm trìu mến, thiết tha gắn bó. Còn “vội vàng” là tâm trạng tiếc nuối bởi nhà thơ sợ tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới. Vì thế dù đang sống trong mùa xuân nhưng thi nhân đã cảm thấy tiếc nuối mùa xuân ngay khi đang ở trong mùa xuân “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.Tâm trạng đó bắt nguồn từ một quan niệm mới mẻ về thời gian.
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ”
Chữ “Xuân” được điệp đi điệp lại nhiều lần như một điệp khúc thiết tha. “Xuân” ấy vừa là xuân của đất trời vừa là “xuân” của cuộc đời, của tuổi trẻ. Mỗi lần nhắc lại là mỗi lần ta bắt gặp cái ngậm ngùi của thi nhân. Xuân của thiên nhiên thì còn mãi mà “xuân” của đời người đã “hết” thì “tôi cũng mất”. Dù lòng yêu có “rộng” đến bao nhiêu thì “lượng trời” vẫn cứ chật. Nên “tuổi trẻ nhân gian” không thể “dài” thêm mãi. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân rồi cũng tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!”
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại “chẳng hai lần thắm lại” thì làm chi có sự tuần hoàn! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:
“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Đọc hai câu thơ, ta cảm nghe rất rõ tiếng thở dài bất lực của thi nhân. Ta nghe rõ cả cái bâng khuâng, nuối tiếc của nhà thơ phả vào đất trời. Dường như trước mắt người đọc là cả một trời tiếc nuối. Tâm trạng ấy của Xuân Diệu ta cũng bắt gặp trong bài thơ “Giục giã”:
“Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến
Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành
Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh
Vừa ngoảnh lại cả lầu chiều đã vỡ”
Phải chăng vì quá yêu mến tuổi trẻ mà từ sự nuối tiếc ấy, thi nhân đã “thức nhọn giác quan” để sống “toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn” mà “say”, “thâu”, “hôn”, “cắn” cho kỳ hết những hương nồng của tuổi trẻ ?
Ta muốn ôm!
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Ba chữ Ta muốn ôm như phơi bày ra hết sự ham hố và cuồng nhiệt của Xuân Diệu với cuộc sống trần thế. Nếu như mở đầu bài thơ, nhà thơ xưng tôi với ước muốn táo bạo tắt nắng buộc gió, thì ở đoạn cuối này cái tôi đó đã hòa vào cái ta chung để tận hưởng hết những hương sắc của cuộc đời.
Ngay sau đó là câu thơ thể hiện sự tươi non của cả cuộc sống mới bắt đầu mơn mởn. Từ láy mơn mởn được nhà thơ dùng rất gợi cảm và giàu ý nghĩa. Nó cho ta thấy các sự vật, cây cối đang ở độ non mướt, tươi tốt, đầy sức sống khiến cho thi nhân tràn lên khao khát.
Điệp ngữ ta muốn được lặp đi lặp lại như một nhịp điệu hối hả, như hơi thở gấp gáp của thi nhân. Chứng tỏ Xuân Diệu đang nồng nhiệt đến rối rít, cuống quýt như muốn cùng một lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Đồng thời nó còn nói lên được cái ham muốn khát thèm đến hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ. Mỗi một lần khao khát “ta muốn” là một lần kết hợp với một động từ chỉ trạng thái yêu thương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn “ôm- sự sống”, “riết- mây đưa, gió lượn”, “say- cánh bướm, tình yêu”, “thâu- cái hôn nhiều”, để cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say, thể hiện niềm yêu đời, khát sống chưa từng có trong thơ ca Việt Nam:Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Thi nhân muốn ôm hết vào lòng mình mây đưa và gió lượn, muốn say đắm với cành bướm tình yêu, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy một cái hôn nhiều. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào “và non nước và cây và cỏ rạng”. Để rồi nhà thơ như con ong bay đi hút nhụy đời cho đến say “chếnh choáng” hút cho đã đầy ánh sáng, cho “no nê thanh sắc của thời tươi” mới lảo đảo bay đi.
Với ngôn từ vừa táo bạo, mới mẻ, vừa đặc sắc, tinh tế, những hình ảnh rất mới lạ, rất tây, nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả …Bài thơ đã đưa ra một quan niệm sống tích cực của Xuân Diệu: Phải biết tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời, sống mãnh liệt, sống hết mình, sống nồng nàn, say mê. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người cần phải sống hết mình với cuộc sống hôm nay, sôi nổi, chân thành và tha thiết với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời.
Bài làm mẫu 4
Xuân Diệu một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ Mới, ông được đánh giá là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Đạt được danh vị như vậy không chỉ bởi những vần thơ mới mẻ, cách luật so với thơ cũ, mà còn bởi những triết lí nhân sinh hết sức mới mẻ trong thơ ông. Vội vàng được trích từ tập thơ đầu tay của Xuân Diệu, nhưng đã thể hiện những quan điểm triết lí nhân sinh mới mẻ, đúng đắn của chàng trai khi tuổi đời mới 22.
Triết lí nhân sinh là những quan niệm của tác giả về thế giới, con người và vạn vật. Mỗi người sẽ có những quan niệm nhân sinh khác nhau. Đối với Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng triết lí nhân sinh của ông chính là lối sống tận hưởng, tận hiến cho cuộc đời. Và nó được thể hiện đầy đủ, trọn vẹn từ đầu cho đến cuối tác phẩm bằng một giọng văn nhiệt huyết, sôi nổi, thẫm đẫm cảm xúc trữ tình.
Trước hết Xuân Diệu quan niệm thiên đường không ở đâu xa, mà chính ở ngay cuộc sống trần thế này.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
….
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Bằng lòng yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên tha thiết, Xuân Diệu đã đưa người đọc vào một khu vườn mùa xuân đầy màu sắc, âm thanh và ánh sáng: đồng nội xanh rì của lá non, cành tơ phơ phất trước gió, là khúc tình si hòa trong không gian mơn mởn sức sống, là ánh sáng ngập tràn khắp nơi. Vẻ đẹp đó đã được ông hữu hình hóa bằng hình ảnh hết sức cụ thể: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Một khái niệm thuộc về sự trừu tượng, dưới con mắt của Xuân Diệu đã được hữu hình hóa, cụ thể hóa bằng cặp môi mọng đầy, căng tràn của người thiếu nữ. Bằng đôi mắt “xanh non” “biếc rờn” Xuân Diệu đã khám phá và khẳng định trốn thần tiên chẳng ở đâu xa, mà hiện hữu ở chính cuộc sống này. Đây là quan niệm hết sức mới mẻ và chính xác, trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, không ít nhà thơ, nhà văn lãng mạn thoát li thực tại để trở về quá khứ (Nguyễn Tuân) hay lẩn tránh vào thế giới siêu nhiên, ma quái (Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử) thì Xuân Diệu lại nhận thấy vẻ đẹp đích thực của cuộc sống trần thế. Nó thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh, tiến bộ và tích cực của ông.
Không chỉ vậy, ông còn quan niệm trong cuộc sống trần thế, con người là thứ đẹp nhất và đặc biệt là trong độ tuổi của tình yêu. Nếu như thơ xưa luôn lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp: “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” “Làn thu thủy nét xuân sơn” (Truyện Kiều Nguyễn Du) thì đối với Xuân Diệu con người là đẹp nhất, là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp trong cuộc sống. Khu vườn mùa xuân đã biến thành khu vườn của tình nhân, của tình yêu ngập tràn. Trong khu vườn ấy có ong bướm lượn từng đàn trong ngày tháng mật hạnh phúc, có những đóa hoa tươi trong đồng nội xanh rì,.. đâu đâu sự vật cũng gắn kết, hòa quyện với nhau. Thi nhân từ chỗ cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân đã chuyển thành kẻ tình nhân si tình trong khu vườn tình yêu. “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” là một hình ảnh so sánh lạ, sử dụng phép tương giao của thơ phương Tây, họ cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự tương giao với nhau, nếu tháng giêng là cứ căng mọng, tràn trề nhựa sống của mùa xuân, thì cặp môi chính là biểu hiện của thanh xuân, của tuổi trẻ. Bằng sự hữu hình hóa các khái niệm trừu tượng, Xuân Diệu đã hữu hình hóa để tận hưởng vẻ đẹp mùa xuân một cách rõ nét, trọn vẹn. Đây tiếp tục là quan niệm nhân sinh mới mẻ, tiến bộ của Xuân Diệu, con người là chuẩn mực của mọi cái đẹp.
Và cuối cùng, trước cuộc sống quá đỗi đẹp đẽ như vậy con người phải biết tận hưởng trọn vẹn, không chỉ vậy còn phải tận hiến thanh xuân của mình cho cuộc đời. Xuân Diệu rất nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian, bởi ông ý thức được thời gian trôi đi là không bao giờ trở lại.
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.
Thời gian không tuần hoàn, mà chảy trôi một đi không trở lại, cũng giống như tuổi xuân của con người, chúng ta chỉ có một đời người, một thanh xuân, làm sao có thể đảo ngược thời gian để sống lại một lần nữa cảm xúc nồng cháy của thanh xuân. Bởi vậy tôi mới “bâng khuâng” “tiếc cả đất trời”. Chính vì hiểu được sự chảy trôi của thời gian nên hình thành trong Xuân Diệu khát vọng sống cuống quýt đến mức vồ vập: tôi muốn ôm, ta muốn riết, ta muốn say, ta muốn thâu. Càng về sau ước muốn càng trở nên mãnh liệt, “tham lam” một cách đáng yêu, “thâu” tất cả sự sống, cái đẹp, tình yêu trong một nụ hồn say đắm, nồng nàn để cho “chếnh choáng” “đã đầy” “no nê” thanh sắc, hương thơm của cuộc đời. Ông dang rộng vòng tay, mở tung cảm xúc của bản thân để đón nhận những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời vào lòng. Và cuối cùng là hành động đầy mạnh bạo, một lời mời gọi đầy tha thiết: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”.
Để thể hiện triết lí nhân sinh mới mẻ của mình, Xuân Diệu đã sử dụng thành công hình ảnh biểu tượng mùa xuân gắn liền với tuổi trẻ. Mùa xuân chính là tuổi trẻ, thanh xuân, là hạnh phúc, là tình yêu. Bên cạnh đó ông cũng sử dụng biện pháp so sánh, điệp từ, các động từ mạnh, lối chuyển đổi cảm giác độc đáo, góp phần tạo nên sự thành công trong tác phẩm.
Xuân Diệu quả xứng danh là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Ngay từ tập thơ đầu tay với bài Vội vàng ông đã thể hiện quan niệm nhân sinh mới mẻ của mình, đó là tình yêu vào cuộc sống trần thế và đề cao con người. Đây là quan niệm nhân sinh tiến bộ và đầy tính nhân văn. Nó cho thấy nhân sinh quan lành mạnh, tích cực của một con người luôn sống hối hả, gấp gáp để tận hưởng, tận hiến cho cuộc đời.
Bài làm mẫu 5
Xuân Diệu được biết đến với một hồn thơ phóng khoáng, đắm say mãnh liệt với tính yêu, với cuộc đời. Ông cũng được coi là nhà thơ có cảm, thức đặc biệt về thời gian. Dấu ấn cảm thức về thời gian cũng được ông thể hiện rõ qua các sáng tác của mình, đặc biệt là trong bài thơ “Vội vàng”.
Thời gian trong vũ trụ thì muôn đời vẫn thế, chỉ có quan niệm của con người về thời gian là thay đổi. Sự đổi thay do trình độ nhận thức khoa học, ý thức triết học, ý thức thẩm mỹ của mỗi thời mỗi khác. Trong bài thơ, Xuân Diệu đưa ra quan niệm mới về thời gian: Cách thức trình bày của Xuân Diệu là chống đối, tranh cãi lại quan niệm xưa kia, đồng thời bộc bạch quan niệm của mình bằng một cảm xúc sôi nổi, cuồng nhiệt, nghĩa là bằng một dạng thức triết học đã được thấm nhuần cảm xúc, giọng điệu chính của đoạn thơ là giọng tranh luận, biện bác, nhịp điệu rất sôi nổi, khẩn trương. Đoạn thơ có những câu thơ đẫy mĩ cảm về cảnh sắc thiên nhiên, trong đó chứa đựng những cảm nhận về thời gian. Quan niệm cũ về thời gian mà Xuân Diệu muốn chống đối là thời gian tuần hoàn, nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại. Mà vòng tuần hoàn thì những thời khắc, thời đoạn của nó có ra đi rồi cũng sẽ quay trở về. Quan niệm xuất phát từ cái nhìn tĩnh, có phần siêu hình lấy sinh mệnh vũ trụ làm thước đo thời gian, Xuân Diệu coi thời gian như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. Vì thể một khoảnh khắc một khi đã trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn đậm chất biện chứng về vũ trụ, về thời gian”
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Xuân Diệu đã lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian, tức là lấy quỹ thời gian hữu hạn trong sinh mệnh cá thể ra để đo đếm thời gian vũ trụ, thậm chí lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người để làm thước đo cho thời gian:
“Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm cho rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Vì thế, cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát, đó chính là một phần đời trong sinh mệnh cá thể.
Hai câu thơ thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
Mỗi khoảnh khắc như một cuộc chia lìa, một mất mát, và dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của mất mát, chia phôi. Và đó đây, khắp sông núi vẫn là lời than thầm tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn, sự vật tự nhiên đang tiễn biệt cuộc đời của chính nó, những phần đời của sinh mệnh mình đang ra đi không thể nào cưỡng lại được. Nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi phai, phai tàn trong từng cá thể”
“Cơn gió xinh…
….ngả chiều hôm”
Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét cho cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống, cá thể mỗi khoảnh khắc trong đời sống cá thể đều vô cùng quý giá. Nó quý giá chính vì khi mất đi là mất đi vĩnh viễn, quan niệm ấy khiến cho con người biết quý những giây phút của đời mình, và biết làm cho mỗi khoảnh khắc cuộc đời mình tràn đầy ý nghĩa. Có như thế mới là biết sống, và đây mới là cơ sở sâu xa của thái độ sống vội vàng.
Toàn bộ quan niệm về thời gian của Xuân Diệu đã thể hiện sự tích cực rất đáng trân trọng trong tư tưởng của ông. Cảm thức đặc biệt về thời gian của nhà thơ mở ra một cách sống “vội vàng”, nhưng đó là cách sống trọn vẹn cho những gì tươi đẹp nhất.
Triết lí nhân sinh của Xuân Diệu trong Vội vàng
Bài làm mẫu 1
Bàn về văn chương nghệ thuật, Tố Hữu đã có một ý kiến rất hay: “Mỗi sáng tác văn học chân chính đều là một đề nghị về cách sống”. Như vậy có nghĩa là mỗi tác phẩm chính là nơi biểu hiện cao nhất quan điểm nhân sinh của người nghệ sĩ. Đến với “Vội vàng”, ta sẽ được bắt gặp một nhân sinh quan mới mẻ của Xuân Diệu – nhà thơ của “niềm khát khao giao cảm với đời”.
Đọc bài thơ, ngay từ tên đề, người ta đã thấy ẩn chứa biết bao ý nghĩa. Đó là lời đề nghị về một cách sống mà Xuân Diệu gọi tên ra là “Vội vàng”. Hãy xem đó là một quan niệm sống như thế nào? Nó có tác dụng hay ảnh hưởng gì đến cuộc sống của con người?
Thời xưa, người ta quan niệm: thời gian là tuần hoàn, bất biến. Năm này qua đi rồi năm khác lại đến cũng như cuộc đời con người là một vòng tròn mà sự nằm xuống chỉ là sự bắt đầu cho một kiếp sống khác, tốt đẹp hơn. Đến Xuân Diệu, ông đã mang đến cho chúng ta một quan niệm sống hoàn toàn mới mẻ: thời gian là tuyến tính, một đi không trở lại:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất…”
Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong một năm, mùa mà khi mọi vật tốt tươi, đâm chồi nảy lộc, vươn lên đầy sức sống cũng như tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất của đời người, tuổi của những khát khao sống và nhựa sống tràn trề. Với một tâm hồn luôn khát khao tận hưởng và giao cảm, Xuân Diệu nhìn thấy mùa xuân, tuổi trẻ đẹp. Nhưng ngay từ trong hiện tại tươi non đã là một tương lai héo úa, ngay từ mùa xuân tươi đẹp đã thấy một mùa đông héo úa; ngay từ tuổi trẻ đã thấy sự già cỗi. Mà cuộc đời này thì lại như một thiên đường trên mặt đất:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa…”
Nếu như cùng thời, bất lực trước thực tại, nhiều người đã rũ bỏ hiện tại để chạy trốn thì Xuân Diệu hoàn toàn ngược lại. Thế Lữ giàu mình lên chốn bồng lai tiên cảnh, làm bạn với chị Hằng, với chú Cuội; Chế Lan Viên náu mình trong sự cô đơn, khát khao cô đơn: “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh”; Vũ Hoàng Chương say để quên hết sự đời thì Xuân Diệu lại “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Với ông, thế giới này là một thiên đường trên mặt đất, ngạt ngào hương sắc, thu hút lòng người, như một mâm tiệc đang lên hương, hấp dẫn như một người tình vậy. Nhận thức và quan niệm điều ấy, cái “sợi dây đàn” trong tâm hồn yêu sống và nhạy cảm ấy không cho phép mình sống bình thản mà đưa ra một quan niệm nhân sinh đầy mới mẻ: Sống là tận hưởng đã đầy những hương sắc của cuộc sống, của thiên đường trên mặt đất này sống là tận hưởng một cách trọn vẹn và gấp gáp những giá trị của cuộc sống, của tình yêu và tuổi trẻ bởi:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
và “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ /Em, em ơi, tình non đã già rồi” mà “thời gian không đứng đợi”. sống để không chỉ tận hưởng một cách đã đầy, mà còn là tận hưởng một cách sống trọn vẹn và có ý nghĩa với cuộc đời.
Cắt nghĩa quan niệm nhân sinh này của Xuân Diệu có thể bắt nguồn từ khát khao của tác giả:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Những khát khao ấy là lành mạnh, những ước muốn níu giữ thời gian, níu giữ tuổi trẻ ấy thật cao đẹp nhưng không tưởng. Làm sao có thể làm thay cánh tay của tạo hoá sắp đặt? Vậy thì chỉ còn một cách:
“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”
Câu thơ vang lên với nhịp điệu gấp gáp con người như giục giã con người cùng chạy đua với thời gian. Ngày ngả sang chiều hôm cũng như con người sẽ dần bước sang tới đốc bên kia cuộc đời của mình, khi mà tuổi già đang ập đến. Ấy là cái mà sinh thời Xuân Diệu rất sợ. Ông giục giã lòng mình phải gấp gáp hơn để tận hưởng cuộc đời khi nó chưa bước sang cảnh “bóng xế” cũng là một điều dễ hiểu. Cách sống, lối sống đó thật lành mạnh:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và nón nước, và cây và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm
Cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Một loạt các từ “ta muốn” được điệp đi, điệp lại nhiều lần, liên tục, có tần số cao làm cho câu thơ như được dồn lên đến cao trào, và những ham muốn, những ước vọng lúc này đã oà ra hoàn toàn. Với quỹ thời gian ít ỏi của mình, nhà thơ muốn sống một cách trọn vẹn đã đầy, ôm trùm để tận hưởng tất cả “sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, “mây đưa”, “gió lượn”… tất cả những gì đang tồn tại trên thiên đường trần thế này. Và cách sống ây thật mãnh liệt. Nhà thơ muốn “riết… say… thâu” để “chếnh choáng”, để “đã đầy”, để “no nê”, để được tận hưởng say sưa và trọn vẹn những gì là tươi đẹp nhất của cuộc sống này.
Mùa xuân, tuổi trẻ giống như một người con gái đẹp, kiều diễm mà nhà thơ sẽ luôn khát khao hướng tới và tận hưởng. Niềm khát khao ấy được bật lên thành tiếng: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Thật là một quan điểm nhân sinh mới mẻ, lành mạnh và trong sáng biết bao! Với quan niệm nhân sinh tích cực của mình, Xuân Diệu đã đem đến cho người đọc một quan niệm mới mẻ về cuộc sống và cách sống: Cuộc sống này chính là thiên đường trên mặt đất và trong sự chảy trôi của thời gian con người phải sống sao cho gấp gáp, “vội vàng” với đúng nghĩa của nó, sống vội vàng để từng phút giây trong cuộc đời mình không trôi qua vô nghĩa, để tận hưởng hết cái phần ngon lành của tuổi trẻ, của mùa xuân, của đời người. Cho đến ngày hôm nay, quan điểm này vẫn có một ý nghĩa tích cực trong việc giáo dục con người, đặc biệt là tầng lớp thanh niên: hãy sống sao cho có ý nghĩa với cuộc đời, với chính mình hãy sống sao cho sau này khỏi phải nuối tiếc vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí bởi thời gian một đi không trở lại và “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.
“Mỗi sáng tác văn học là một đề nghị về cách sống” và như thế có nghĩa là hôm nay và mãi mãi về sau quan điểm nhân sinh mới mẻ, lối sống tích cực để cuộc đời mình có ý nghĩa của Xuân Diệu sẽ mãi có giá trị lớn lao trong lòng người đọc.
Bài làm mẫu 2
Xuân Diệu là một nghệ sĩ tài năng đầy sáng tạo, có vai trò quan trọng trong quá trình hiện đại hóa thơ ca. Thơ ông là tiếng lòng của một con người luôn khao khát giao cảm với đời, say mê cái đẹp. Ông là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Một trong những bài thơ nổi tiếng được nhiều độc giả biết đến là “Vội vàng” thể hiện cái tôi cá nhân luôn khao khát tận hưởng cuộc sống, yêu đời mãnh liệt ẩn đằng sau tình yêu ấy là quan niệm triết lí nhân sinh sâu sắc về thời gian, tuổi trẻ, ccon người và vẻ đẹp cuộc sống được Xuân Diệu truyền tải từ bao đời nay vẫn còn nguyên giá trị.
Triết lí nhân sinh chính là những quan niệm có ý nghĩa đối với cuộc đời được mọi người đón nhận và tiếp thu một cách tích cực. Triết lí nhân sinh trong thơ ca được tác giả gửi gắm qua các hình ảnh thơ giàu giá trị, giàu cảm xúc nó không tự nhiên hiện lên mà ẩn ngầm sau lớp ngôn từ để người đọc tự phát hiện và tự chiêm nghiệm, khám phá.
Thứ nhất triết lí nhân sinh về thời gian. Nếu thơ xưa quan niệm thời gian là tuần hoàn, xoay vòng thì với Xuân Diệu đi ngược lại điều đó, ông cho rằng thời gian tuyến tính, một đi không trở về:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.
Xuân ở đây là chỉ mùa xuân của thiên nhiên đất trời và mùa xuân của đời người là tuổi trẻ. Mùa xuân của vạn vật năm lần bảy lượt đến rồi lại đi còn cuộc đời con người chỉ có một lần tồn tại, chẳng bao giờ thắm lại lần hai. Bởi “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Tác giả sử dụng nghệ thuật đối lập lấy thời gian vô hạn của vũ trụ đối với thời gian hữu hạn của đời người. Với cặp từ đối: tới-qua, non-già của hai câu thơ cho thấy tác giả đang tô đậm sự trôi chảy mất mát của thời gian. Nhà thơ cảm nhận thấy điều ấy ngay cả khi nó vừa mới bắt đầu “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt”, xuân đến cũng là xuân đang qua, xuân còn non rồi cũng sẽ già, sự vật qua đi ngay cả khi nó đang hiện hữu trong cuộc đời và không có gì là tồn tại mãi mãi. Qua đó cho thấy thái độ trân trọng từng khoảnh khắc sự sống và không lãnh phí thời gian của tác giả. Đó là phát hiện mới mẻ, là quan niệm nhân sinh sâu sắc mà thi nhân muốn gửi gắm.
Thứ hai triết lí nhân sinh về tuổi trẻ. Với ông trong cuộc đời của mỗi con người khoảng thời gian hạnh phúc nhất, tươi đẹp nhất là những năm tháng tuổi trẻ ngắn ngủi, thời gian tuổi trẻ lại đẹp nhất khi có tình yêu đó mới là hạnh phúc đích thực con người. Nhà thơ nhận ra quy luật tồn tại, sự tàn phá khắc nghiệt của thời gian với vạn vật có sự sống nên nhà thơ nuối tiếc và thúc giục chúng ta hãy vội vàng lên đường, hãy đi để tận hưởng cuộc sống, để cho tuổi trẻ có ý nghĩa “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”. Hơn một lần ta bắt gặp lời gọi, lời hối thúc ấy của Xuân Diệu như câu thơ: “Mau với chứ vội vàng lên với chứ/ Em em ơi tình non sắp già rồi”. Lời giục giã sống vội ấy không phải là lối sống vị kỉ, chỉ biết tận hưởng thành quả của người khác mà theo quan niệm của ông sống vội là cuộc sống có ý nghĩa “Sống toàn tim! toàn trí! sống toàn hồn!/Sống toàn thân! và thức nhọn giác quan”, khi ấy con người ta biết tận lực cố gắng, tận hiến tài năng và tận tâm, tận hưởng vẻ đẹp tạo hóa ban tặng. Đó là cả sự sống mới bắt đầu mơn mở, là mây đưa và gió lượn, là cánh bướm với tình yêu, là non nước, cây cối và cỏ rạng… để rồi niềm say mê tận hưởng của con người ấy phải thốt lên rằng: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Nhà thơ muốn chiếm trọn, muốn sở hữu, muốn hòa mình vào vẻ đẹp thiên nhiên đất trời. Tuy nhiên ngày nay có không ít bạn trẻ hiểu sai quan niệm sống vội của nhà thơ mà chạy theo cách sống vị kỉ cá nhân, chỉ thích hưởng thụ ăn chơi đua đòi mà quên mất cách lao động và cống hiến. Nhà thơ như nhắc nhở các bạn trẻ đừng bỏ lỡ, phí hoài thanh xuân tươi đẹp bởi những việc vô bổ. Hãy sống, hãy học, hãy làm, hãy vui chơi tận hưởng hết mình bởi “không cho dài thời trẻ của nhân gian” rồi đến một lúc nào đó “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Khi còn trẻ không cố gắng thì về già suốt một đời còn lại chỉ sống trong nuối tiếc. Tuổi trẻ đừng dễ dàng bỏ rơi hạnh phúc thật sự. Đó là một triết lí nhân sinh ý nghĩa nhất mà Xuân Diệu muốn dành cho thế hệ trẻ như một lời nhắn nhủ, lời khuyên của tiền bối gửi đến hậu bối muôn đời. Chính điều đó mà Xuân Diệu được nhà phê bình văn học Hoài Thanh, Hoài Chân nhận xét: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới – nên chỉ những người còn trẻ mới thích đọc Xuân Diệu, mà đã thích thì phải mê”.
Vậy nguồn gốc triết lí nhân sinh của Xuân Diệu bắt nguồn từ đâu? Nhà thơ có được điều đó là từ tâm hồn yêu say mê, tha thiết vẻ đẹp của thiên nhiên, từ ước muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để lưu giữ hương sắc đất trời trong khoảnh khắc hiện tại. Bởi thi nhân phát hiện ra vẻ đẹp tuyệt mĩ đang hiện hữu xung quanh ta mà chẳng cần phải thoát lên tiên như Thế Lữ mới thấy được. Trong con mắt của Xuân Diệu có một “bữa tiệc trần gian” đang mời gọi, nhà thơ lần lượt liệt kê những hình ảnh tươi đẹp của thiên nhiên trong bức tranh cuộc sống. Đó là ong bướm có tuần tháng mật, hoa của đồng nội xanh rì, lá của cành tơ phơ phất, có tiếng hót của chim yến chim oanh đang quấn quýt bên nhau… và còn bao điều tuyệt vời như thế nữa, nhìn thấy điều đó hiện lên nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nghiêm khắc nhận xét: “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai, xua ai nấy về hạ giới”. Vẻ đẹp đơn sơ bình dị ấy không đặc trưng cho một địa danh hay vùng miền nào mà nó có ở mọi nơi. Như vậy triết lí nhân sinh thứ ba mà Xuân Diệu nêu lên trong tác phẩm là vẻ đẹp cuộc sống chẳng phải ở đâu xa, chẳng cần tìm kiếm ở nơi vời vợi mây trời, nó luôn quanh ta chỉ cần lắng mình phát hiện ra, cảm nhận và trân trọng từng khoảnh khắc ấy sẽ thấy giá trị của cái đẹp.
Đặc biệt nhất là vẻ đẹp của mùa xuân với chi tiết Tháng giêng được so sánh với cặp môi gần qua tính từ ngon “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đây là một cách so sánh táo bạo, mới mẻ chỉ riêng Xuân Diệu mới có được ý thơ hay như thế. Nếu các nhà thơ trung đại luôn lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con người còn Xuân Diệu thì lấy con người làm trung tâm cho vẻ đẹp của đất trời. Qua đó cho thấy triết lí nhân sinh thứ tư trong bài “Vội vàng” là Xuân Diệu luôn coi trọng và đề cao giá trị của con người.
Bài thơ không phải là giáo lí nhà Phật cũng không phải là báo cáo về triết học nhưng qua hồn thơ của Xuân Diệu nó thực sự để lại cho ta biết thêm về cuộc đời, biết phải làm sao để quý trọng thời gian, biết sống thế nào cho thực sự có ích, có ý nghĩa đặc biệt là đối với giới trẻ.
Như vậy qua bài thơ “Vội vàng” thi sĩ Xuân Diệu đã để lại cho ta nhiều điều đáng suy ngẫm về giá trị của thời gian, tuổi trẻ, con người và vẻ đẹp cuộc sống. Dù hồn thơ đã khép lại, hình hài của thi sĩ cũng đã về với đất mẹ nhưng triết lí nhân sinh ông gửi gắm cho bạn đọc vẫn vẹn nguyên ý nghĩa từ bao đời.
…………………
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu hay nhất
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 11: Triết lý nhân sinh trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu 2 Dàn ý & 9 bài văn hay lớp 11 của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.