Phân tích thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối gồm 2 dàn ý và 6 bài văn mẫu hay, được đánh giá cao. Qua 6 bài văn mẫu dưới đây giúp các bạn lớp 11 có nhiều ý tưởng tham khảo, biết cách chọn lọc để tránh tình trạng trùng lặp ý, thiếu ý, lạc đề hoặc triển khai ý không cân xứng.
Bài thơ Chiều tối là sự kết hợp của bức tranh thiên nhiên và bức tranh con người lao động. Bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng nhưng bức tranh con người lại sinh động, chân thực và ấm áp vô cùng. Vậy dưới đây là 6 bài văn mẫu siêu hay, mời các bạn cùng đón đọc. Ngoài ra các bạn xem thêm bài văn mẫu phân tích 2 câu đầu Chiều tối.
Dàn ý phân tích thiên nhiên và con người trong Chiều tối
Dàn ý số 1
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả và tác phẩm, khái quát nội dung tác phẩm
- Tác giả Hồ Chí Minh
- Bài thơ “Chiều tối” trích trong “Nhật ký trong tù”
- Tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và ý chí vươn lên của người tù cách mạng
II. Thân bài:
– Bức tranh thiên nhiên vùng núi lúc chiều tối:
- Những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ: cánh chim, chòm mây
- Không gian rộng lớn, hoang vắng
- Gợi sự cô đơn, mỏi mệt, lạc lõng
– Bức tranh đời sống con người khi chiều tối:
- Cuộc sống lao động đời thường
- Dấu hiệu của sự sống, sức sống
- Ánh sáng lò than mang lại hy vọng và niềm tin
III. Kết bài:
– Giá trị của tác phẩm: Bài thơ “Chiều tối” thực sự là một bức tranh tuyệt đẹp, hài hòa giữa những mảng sáng và tối, thiên nhiên và con người.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
- Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và yếu tố hiện đại, giữa tâm hồn của người chiến sĩ và thi sĩ luôn luôn được thể hiện một cách tinh tế, sâu sắc.
- Chiều tối là một trong những bài thơ tiêu biểu và độc đáo nhất.
2. Thân bài
– Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác vào cuối thu năm 1942, khi Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo (Trung Quốc), trong một buổi chiều chuyển ngục.
– Bức tranh thiên nhiên núi rừng trong hai câu thơ đầu:
- Hình ảnh cánh chim là thi liệu vốn rất quen thuộc trong thơ cổ, nhưng vào trong thơ Bác lại xem lẫn cả nét hiện đại. Cánh chim mỏi mệt, tìm chốn ngủ có sự tương đồng với tình cảnh của Bác.
- Hình ảnh chòm mây trôi lơ lửng, cũng là thi liệu cổ điển, gợi sự ung dung, tự tại, nhưng đồng thời mang nét hiện đại bộc lộ tâm trạng của người tù (lẻ loi, cô đơn).
– Bức tranh cuộc sống sinh hoạt:
- Vẻ đẹp của con người: Sự tươi trẻ khỏe khoắn của người thiếu nữ, vẻ đẹp của cuộc sống lao động bình dị => Quan điểm mỹ học mới về mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người.
- Vẻ đẹp của sự sống: Là sự kết hợp giữa nét vẽ cổ điển (lấy sáng tả tối, hình ảnh lò than rực hồng) và nét vẽ hiện đại (sự chuyển đổi thời gian, không gian, cảm giác).
3. Kết bài
- Vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh: Lạc quan, hướng về sự sống và ánh sáng, lòng nhân ái gắn liền với lòng yêu thiên nhiên.
- Bút pháp gợi tả thiên nhiên, tả cảnh ngụ tình, kết hợp hài hòa các yếu tố cổ điển, hiện đại.
Thiên nhiên và con người trong Chiều tối – Mẫu 1
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam, là danh nhân văn hóa thế giới. Tài sản Người để lại cho nhân dân ta không chỉ bao gồm những giá trị sống sâu sắc mà còn có cả những sáng tác thơ ca xuất sắc. Bài thơ “Chiều tối” chính là một trong những thi phẩm tiêu biểu nhất của Người. Trong bài thơ, Hồ Chí Minh đã tái hiện một bức tranh thiên nhiên hài hòa giữa cảnh vật và cuộc sống con người. Đồng thời gửi gắm tư tưởng và tinh thần ung dung, lạc quan của người chiến sĩ cộng sản.
“Chiều tối” (Mộ) được sáng tác vào năm 1943, vào thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, trên đường di chuyển từ nhà giam Tĩnh Tây đến nhà giam Thiên Bảo, đi qua tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc. Lấy cảm hứng từ buổi chiều chuyển lao với khung cảnh tươi đẹp và cuộc sống ấm cúng, bức tranh thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp hoàng hôn đậm nét cổ điển:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Dịch thơ: Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Dưới ngòi bút tài hoa của Bác, cảnh chiều tối miền sơn cước dần thành hình với không gian rộng lớn mênh mông nhưng đượm hơi thở hoang vắng, tĩnh mịch. Bác đã khéo léo sử dụng bút pháp chấm phá tài tình của thi ca cổ điển, sử dụng những hình ảnh gợi tả như cánh chim, chòm mây quen thuộc để miêu tả cảnh xế chiều của một ngày dài đang dần trôi vào đêm tối. Đồng thời khắc họa tâm trạng của người tù cách mạng đang lẻ loi nơi đất khách quê người.
Sau một ngày hoạt động vất vả, cánh chim đã mỏi mệt nên mải miết bay về rừng tìm chốn dừng chân giữa không gian rộng lớn. Chúng sẽ tìm về chỗ ngủ thân quen còn người chiến sĩ cách mạng dẫu chân đã mỏi vẫn không biết bao giờ mới được dừng chân và dừng tại nơi nào? Giữa tầng không bao la, mây trắng lững lờ trôi. Hình ảnh “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” gợi liên tưởng sự ung dung tự tại mà đơn độc của người tù đang lưu lạc. Trong tứ thơ cổ điển ẩn chứa nét hiện đại, hoàng hôn hiện lên êm đềm, giản dị, thiên nhiên đồng cảm với con người mà không đồng nhất. Ý thơ tả cảnh mà ẩn tình, gợi vẻ đẹp hàm súc dư ba của thơ cổ điển. Thiên nhiên man mác nét buồn nhưng không bi lụy. Trong tâm hồn nhà thơ vẫn mạnh mẽ niềm tin, nỗ lực hướng tới sự sống, khát khao vì ngày mai tự do, phóng khoáng.
Chính vì thế, khi thời khắc cuối cùng của ban ngày đã đến, bóng đêm đang bao phủ xuống vạn vật, bức tranh thiên nhiên dưới ánh nhìn của nhà thơ đã hiện lên bóng sáng của con người, của cuộc sống sinh hoạt đời thường:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng)
Giữa núi rừng hoang vu, bỗng hiện lên dáng hình của một thiếu nữ đang bận rộn xay ngô để chuẩn bị cho bữa cơm tối. Đây là một hình ảnh bình dị, gần gũi nhưng chính nó lại là chất xúc tác cho dòng cảm xúc đang trào dâng trong lòng thi sĩ. Hình ảnh ấy diễn tả vẻ đẹp tuyệt vời về con người lao động trẻ trung, hăng say. Sự xuất hiện của hơi thở con người đã trở thành tâm điểm và thổi hồn cho bức tranh thiên nhiên, xua tan sự âm u hoang vắng của núi rừng về đêm, xua tan nỗi cô đơn, lẻ loi của người tù cách mạng.
Từ đó, thiên nhiên bỗng hòa quyện vào cuộc sống con người, tạo nên bức tranh ấm áp, xinh đẹp. Hình ảnh “lô dĩ hồng” – lò than rực hồng là nét vẽ hoàn thiện bức tranh, kết thúc bài thơ, đồng thời cũng là nhãn tự bài thơ. Ánh than hồng không những làm bừng sáng cả không gian đang bị bóng tối bao trùm mà còn gửi gắm niềm tin, hy vọng, sự lạc quan vào tương lai của người chiến sĩ cách mạng.
Bài thơ sử dụng thành công thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại. Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc với những hình ảnh vận động tự nhiên, bất ngờ từ bóng tối đến ánh sáng… Bút pháp gợi tả thiên nhiên với những hình ảnh bình dị, gần gũi mà giàu xúc cảm. Từ đó, khắc họa bức tranh thiên nhiên giao quyện bức tranh cuộc sống con người nơi núi rừng hoang dã. Đặc biệt giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh, thể hiện tinh thần lạc quan, niềm tin dai dẳng của Người vào tương lai phía trước.
Với những giá trị sâu sắc, “Chiều tối” đã trở thành một trong những thi phẩm tiêu biểu của hồn thơ Hồ Chí Minh và thời đại. Dù cho bao năm tháng trôi đi, độc giả vẫn luôn rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên và cảm xúc nhân vật trữ tình trong tác phẩm.
Phân tích thiên nhiên và con người trong Chiều tối – Mẫu 2
Bác Hồ – người Cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc, đã mở ra con đường cứu nước, giúp dân tộc ta có được độc lập, tự do, thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than. Người không chỉ là một con người đầy tài trí, tinh thông văn hóa các dân tộc mà còn là người am hiểu văn thơ. Nhật kí trong tù của Người là một trong những tập thơ xuất sắc nhất trong nền thơ ca Việt. Tập thơ đó được viết trong những năm tháng Người bị giam cầm ở nhà tù Tưởng Giới Thạch. Mỗi bài thơ là một câu chuyện Người kể lại về cuộc sống trong tù, là mơ ước, là khát khao được tự do của Người. Trong số đó, bài thơ Chiều tối là một bài thơ hay nhất, là bức tranh thiên nhiên và con người cùng hòa quyện.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Trong cả tập thơ Nhật kí trong tù, có lẽ Chiều tối là bài thơ có hoàn cảnh ra đời đặc biệt nhất. Bài thơ được gợi cảm hứng và được viết lên sau lần Bác Hồ phải chuyển trại giam từ Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Và trong lần ấy, Người đã viết lên Chiều tối để ca ngợi bức tranh thiên nhiên đẹp mơ màng cùng với đó là bức tranh về cuộc sống con người trong buổi chiều hôm. Được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cổ điển, bài thơ vừa là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của Người, vừa thể hiện ý chí mãnh liệt vượt lên trên mọi hoàn cảnh của Hồ Chí Minh.
Mở đầu bài thơ, Người đã vẽ lên cho người đọc thấy một khung cảnh thiên nhiên đẹp tới mơ màng, một khung cảnh vừa nhẹ nhàng, êm dịu, vừa đằm thắm, sinh động biết nhường nào:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”.
Mở đầu bài thơ cổ với chỉ bằng vài nét bút chấm phá, Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy được cả một không gian thật rộng lớn, mênh mông và thoáng đãng. Đó là một bầu trời với những cánh chim đang chao lượn “quyện điểu”, lướt thật nhanh bay về rừng, và những chòm mây “cô vân” lác đác lững lờ giữa không trung. Hai câu thơ bật lên, chỉ gợi tả chứ không hề đặc tả vậy mà cái hồn của cảnh vật vẫn cứ hiện lên thật rõ ràng. Khung cảnh hiện lên thật bình dị: cảnh chiều với một đàn chim đang vỗ đôi cánh mệt mỏi tìm về với nơi trú ngụ của mình và những áng mây lẻ loi đang chập chờn bay chầm chậm giữa tầng không bao la. Chẳng hề có một từ chỉ cảnh chiều, thế mà chỉ cần đọc hai câu thơ thôi, người đọc vẫn nhận ngay ra rằng đây là một buổi chiều hoàng hôn ửng đỏ. Nghệ thuật lấy điểm tả diện đã phát huy tác dụng thật rõ ràng bởi sự vận dụng đầy sáng tạo của Người. Chỉ nhìn cánh chim kia, tầng mây kia, người ta dường như thấy được cả không gian đang trải rộng ra, bầu trời cao hơn, mênh mông hơn còn không gian thì thật êm đềm, tĩnh lặng. Chỉ là nét chấm phá nhẹ nhàng cơ bản, nhưng bức tranh thiên nhiên ở đây đã hiện lên thật đầy cảm xúc và màu sắc.
Cũng như Nguyễn Du đã từng cảm thán:
“Chim hôm thoi thót bay về rừng”
Thì ở đây, Hồ Chí Minh cũng đã làm được điều tương tự. Chỉ với cánh chim chao nghiêng trên bầu trời chiều kia, Người đã gợi lên ý niệm không chỉ không gian mà còn cả về thời gian nữa. Chỉ bằng hai câu thơ rất mộc mạc thôi, Người đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên yên bình, tĩnh tại. Không như cánh chim trong câu ca dao “chim bay về núi tối rồi” hay trong câu thơ của Nguyễn Du đều có sự chuyển động đôi cánh “bay”, cánh chim trong thơ của Người chỉ tĩnh lặng lướt nhẹ trên tầng không bởi vì nó đã rất mỏi mệt, chỉ muốn lướt nhẹ thật nhanh tìm về một “chốn ngủ” trong rừng của mình. Hình ảnh cánh chim trong thơ của Hồ Chí Minh dường như mang một nỗi niềm rất sâu sắc về tâm trạng, về cảm xúc. Cánh chim ấy có chăng chính là cảm xúc của Người trên con đường di chuyển tới nhà lao, mỏi mệt chỉ muốn tìm một “chốn ngủ”, chốn trú chân trong cuộc hành trình để rồi ngày mai lại tiếp tục một hành trình mới? Có thể nhận ra rằng dường như có một sợi dây vô hình tương đồng nào đó trong cánh chim kia với tâm trạng của Người hay chăng?
Không gian chiều tối ấy trong bài thơ, không chỉ có cánh chim chao lượn mà còn có cả những áng mây bồng bềnh. Người ta đã từng thấy nhiều áng mây khác trong thơ của Nguyễn Khuyến:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
Hay trong thơ của người xưa:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Nhưng ở trong thơ Hồ Chí Minh, mây ấy lại khác vô cùng:
“Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Không như Nguyễn Khuyến viết về tầng mây trong tiết trời thu, không buồn bã như trong thơ Đỗ Phủ với “mây đùn cửa ải”, mây trong thơ của bác lại dường như chuyển động, dù cái chuyển động ấy chỉ rất nhẹ nhàng “trôi nhẹ”:
“Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Dù là một chất liệu vô cùng quen thuộc, thế nhưng Người vẫn dựng lên cho nó một cái hay rất riêng. Mây trong Chiều tối gợi lên sự cô đơn đến khó tả, đọc thơ Người mà ta như thấy cả một không gian cô đơn, quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có một “chòm mây” riêng lẻ “cô vân”, lững lờ trôi nhẹ, lãng đãng trên “tầng không”. “Chòm mây” ấy phải chăng chính là con người đang cô đơn, đang lẻ loi, băn khoăn mà trăn trở, lo lắng cho tương lai của người tù rồi sẽ đi về đâu?
Tóm lại, chỉ bằng hai câu thơ ngắn ngủi, thế nhưng Hồ Chí Minh đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên thôn dã thật yên bình biết mấy với những cánh chim trời và những làn mây trôi. Cánh chim trong thơ Người không mất hút trong không trung vô tận như thơ Lý Bạch “bầy chim một loạt bay cao” mà nó đang bay theo nhịp điệu yên bình bất tận của cuộc sống hiện thực: sáng đi kiếm ăn, chiều về nhà ngủ. Và đám mây kia, cũng không vồn vã, buồn tủi mà cũng đang trôi yên ả trong không gian thanh bình. Vậy mới biết, Bác Hồ dù đang trong cảnh lao ngục tù đày, phải sống trong cảnh đày đọa, thì Người vẫn giữ được hồn thơ, ý chí của mình vượt lên trên tất cả để có thể cảm nhận được cảnh sắc thiên nhiên, bức tranh thiên nhiên chiều tối đẹp và bình yên đến vậy. Quả thật là một ý chí “thép” của người làm cách mạng! Ta cũng thấy được trong đó sự ung dung của Người, phong thái đĩnh đạc của thi nhân dù Người đang trong vòng xiềng xích, lao tù.
Nếu như trong hai câu đầu, nét bút chấm phá của Hồ Chí Minh đã gợi tả lên một khung cảnh thiên nhiên chiều tối đầy thanh bình thì ở hai câu sau, Người lại vẽ lên khung cảnh của cuộc sống con người nơi thôn dã:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”.
Vẫn là nét bút chấm phá quen thuộc, nhưng ở đây Hồ Chí Minh còn sử dụng thêm biện pháp ước lệ của thơ ca cổ khi vẽ lên hình ảnh cô thôn nữ xóm núi. Vậy nên, bức tranh về cuộc sống con người ấy hiện lên thật chân thực và sống động. Trên nền của không gian nơi thôn dã, hình ảnh người thôn nữ trở thành nhân vật trung tâm của bức tranh. Hồ Chí Minh dù vẫn còn đang lê bước chân mình trong xiềng xích, thế nhưng Hồ Chí Minh vẫn cảm nhận được thật rõ vẻ đẹp của con người lao động.
Nếu như ở hai câu thơ trên, hình ảnh thiên nhiên đang đi vào chiều tối, đàn chim cũng đang trở về tổ của mình để nghỉ ngơi sau một ngày mỏi mệt, và đám mây cũng lững lờ trôi nhàn tản trên bầu trời, thì hai câu sau, nhịp thơ lại nhanh hẳn lên để thể hiện nhịp sống của con người lao động. Khi thiên nhiên đang dần bước vào giai đoạn nghỉ ngơi thì con người vẫn đang tiếp tục nhịp sống thường ngày của mình và dường như nhịp sống ấy còn gấp gáp hơn nữa. Con người giờ đây trở thành chủ thể trung tâm của bức tranh thiên nhiên. Cô thôn nữ trong bức tranh thơ đang chăm chỉ lao động cần mẫn, không ngừng nghỉ, “ma bao túc” rồi lại “bao túc ma hoàn” – một vòng lặp tuần hoàn. Những vòng quay lặp lại ấy đang vun vút xay ngô còn thời gian đang trôi dần đi trong tĩnh lặng. Con người trong thơ Bác chẳng tĩnh lặng, buồn tẻ như trong thơ bà Huyện Thanh Quan:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Mà con người ở đây dù trời xế tà thì họ vẫn đang vận động, đang lao động trong cuộc sống hằng ngày. Chính hành động ấy đã góp phần làm tăng thêm tính sống động, góp thêm hơi ấm con người cho bức tranh thiên nhiên thanh bình kia. Con người trong Chiều tối đã trở thành chủ thế làm chủ thiên nhiên chứ chẳng bị thiên nhiên bức ép như trong thơ cổ xưa nữa. Hai câu thơ tả thiên nhiên thật tĩnh lặng, im lìm đến nhường nào thì hai câu thơ này lại đột nhiên sôi nổi hẳn lên. Chính cuộc sống con người đã mang thêm phần hơi ấm cho khung cảnh thiên nhiên. Không chỉ vậy, Người còn gọi người con gái đang xay ngô bên bếp lửa kia là “sơn thôn thiếu nữ” – một từ thật gợi lên bao nhiêu cảm xúc. “Thiếu nữ” – một cô gái trẻ, tràn trề thanh xuân, đó là tiếng gọi thân thương, trìu mến, gợi tả niềm vui sướng, hân hoan khi bắt gặp con người chốn hoang sơ này.
Hơn thế nữa, hình ảnh “cô em xóm núi” không xuất hiện một mình đơn độc như cánh chim ở trên mà bên cạnh còn là một “lò than” nóng hổi đang dần “rực hồng”. Trong một buổi chiều tà dần tối, không khí đang dần trở lên cóng lạnh thì một bếp lửa hồng ánh lên kia thật làm người ta ấm lòng biết bao. Chẳng những nó sưởi ấm không khí mà còn sưởi ấm cả tâm hồn của người thi sĩ. Nó ấm áp và lan tỏa biết nhường nào. Bếp lửa “rực hồng” ấy qua con mắt tinh tế của người thi sĩ cũng thể hiện niềm lạc quan, niềm tin tưởng của người cộng sản rằng ngày mai sẽ luôn tươi sáng, rực hồng như bếp lửa kia.
Từng câu thơ trong Chiều tối của Hồ Chí Minh chẳng hề nhắc tới một khái niệm thời gian, thế nhưng từ khi nhìn thấy bức tranh thiên nhiên rồi đến bức tranh con người, người đọc vẫn nhận thấy sự luân chuyển của thời gian theo cánh chim, theo làn mây, theo cả những vòng quay xay ngô của cô thôn nữ. Cô thôn nữ xay xong ngô thì lò than cũng hồng rực lên, tức là trời đã sập tối hẳn. Buổi chiều qua rồi buổi tối đến nhưng cái tối của buổi đêm không hề âm u mà lại rất ấm áp, rất sáng bởi có bếp lửa hồng đã làm rực lên tất cả. Sự vận động, luân chuyển liên tục từ sáng vào tối rồi lại từ tối trở lại sáng. Nếu cả bài thơ là một bầu trời lẻ loi, cô đơn buồn tủi thì hai câu thơ cuối với sự xuất hiện của con người, của bếp lửa đã làm ấm lòng người thi sĩ và người đọc chúng ta rất nhiều. Cô thôn nữ và bếp lửa hồng đã châm lên ngọn lửa sưởi ấm cả khung cảnh cô đơn của người tù xa quê nơi xứ người. Cũng từ đó, nó như tiếp thêm cho con người đang bị xiềng xích kia niềm tin và sức mạnh, niềm lạc quan để vượt qua nghịch cảnh khó khăn này.
Bài thơ Chiều tối là sự kết hợp của bức tranh thiên nhiên và bức tranh con người lao động. Bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng nhưng bức tranh con người lại sinh động, chân thực và ấm áp vô cùng. Tổng thể của bức tranh ấy là tâm hồn yêu thiên nhiên, niềm lạc quan, tin tưởng của người tù xa quê vào cuộc sống, vượt lên trên nghịch cảnh.
Bằng thể thơ cổ thất ngôn tứ tuyệt cùng với các biện pháp chấm phá, ước lệ cổ điển, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh Chiều tối thật hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Có thể nói, đây là một trong những bài thơ hay nhất trong các tác phẩm thơ ca của Hồ Chủ tịch. Không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, niềm tin cuộc sống mà nó còn thể hiện một tinh thần, ý chí sắt đá trong tâm hồn thi sĩ của Hồ Chí Minh.
Phân tích thiên nhiên và con người trong Chiều tối – Mẫu 3
Một buổi chiều tối, vào cuối mùa thu năm 1942, trên con đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, dù đã trải qua một ngày dài gian lao, vất vả nhưng bác vẫn còn tiếp tục bị bọn lính áp giải trên đường và trước mắt là một đêm trong nhà giam chặt hẹp, bẩn thỉu, lại “Được cùm chân mới yên bề ngủ/ Không được cùm chân biết ngủ đâu”. Những đày đọa ban ngày chưa qua, những đày đọa ban đêm đã sắp đến. Vậy mà trong hoàn cảnh ấy, người vẫn vượt lên trên tất cả để ghi lại một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống thật đẹp:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng).
Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người gần gũi, sinh động trong cảm nhận của một người tù cách mạng.
“Chiều tối” mở đầu bằng hai câu thơ miêu tả thiên nhiên vừa gần gũi lại vừa khác lạ. Cũng giống như trong thơ ca cổ điển phương Đông, khung cảnh thiên nhiên trong hai câu thơ đầu đã được phác họa bằng những nét chấm phá. Nhà thơ không nghiêng về tả mà chỉ gợi ra một vài nét để bắt lấy cái hồn của tạo vật. Toàn bộ khung cảnh miền thiên nhiên sơn cước hiện ra đơn sơ qua cánh chim chiều mệt mỏi đang vỗ cánh bay về nơi trú ngụ, và trong áng mây lẻ loi, lững lờ trôi giữa tầng không. Nghệ thuật lấy điểm vẽ diện, lấy động tả tĩnh được vận dụng sáng tạo, Nhìn cánh chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Thiên nhiên ở khắc họa ở hai nét rất cơ bản nhưng hiện lên đầy ấn tượng về cảnh sắc và xúc cảm. Nó gợi ta nhớ đến những câu thơ rất hay cũng viết về cảnh chiều tà như vậy. Ca dao từng có câu: “Chim bay về núi tối rồi”. Và đó cũng là cánh chim của buổi chiều tà trong thơ Nguyễn Du: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Câu thơ của Người vì thế mà cũng vừa gợi ý niệm về không gian vừa gợi ý niệm về thời gian. Mặc dù vậy, hình tượng cánh chim trong thơ Bác không chỉ được quan sát ở trạng thái vận động bên ngoài như trong thơ xưa (cánh chim bay) mà còn được cảm nhận rất sâu ở tâm trạng (cánh chim mỏi mệt). Có thể thấy một sự tương đồng gần gũi giữa hình ảnh cánh chim ấy với người tù trên đường chuyển lao mệt mỏi. Nhưng hành trình của cánh chim có thế’ coi như đến đấy là đã tạm ngừng để nghỉ ngơi thì người tù cách mạng vẫn phải tiếp tục những đày đọa. Nhưng ý thơ không vì vậy mà mất đi sự hoà hợp đồng điệu, giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật. Bởi cội nguồn của nó chính là tình yêu thương mênh mông Bác dành cho mọi sự sống trên đời.
Hình ảnh chòm mây gợi ta nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng Hạc lâu”: “Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” và câu thơ của Nguyễn Khuyến: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu), vẫn là một thi liệu quen thuộc nhưng “mây” trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn hay cái khắc khoải mơ hồ của con người trước hư không mà là một chòm mây cô đơn đang chậm chạp trôi giữa bầu trời bao la. Chòm mây như có hồn người. Nó như mang cái tâm trạng lẻ loi, đơn độc, băn khoăn, trăn trở, cha biết tương lai sẽ đi đến đâu của người tù nơi đất khách. Khi Lý Bạch, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc đời Đường “Độc tọa Kính Đình sơn” (Một mình ngồi trên núi Kính Đình) nhìn thấy cảnh:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”.
(Bầy chim một loạt bay cao
Lưng trời thơ thẩn, đám mây một mình).
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Để cánh chim bay mất hút vào cõi vô tận thì trong thơ Bác, cánh chim là của đời sống hiện thực, nó bay theo cái nhịp điệu bất tận của cuộc sống: Sáng đi ăn, tối về rừng ngủ. Áng mây của Lí Bạch bay nhàn tản gợi cảm giác thoát tục, còn áng mây trong bức tranh “chiều tối” của Bác toát lên vẻ yên ả, thanh bình của cuộc sống thường ngày, ở trong cảnh đày đọa “Năm mươi ba cây số một ngày/ Mũ áo dầm mưa rách hết giày” vậy mà hồn thơ ấy vẫn vượt lên trên tất cả để cảm nhận và đón nhận vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, tạo vật. Tình yêu thiên nhiên và “chất thép” trong tâm hồn người tù cách mạng ấy đã làm nên sức mạnh để chiến thắng hoàn cảnh. Từ bức tranh thiên nhiên, ta bắt gặp một cái nhìn trìu mến dõi theo từng biểu hiện của tạo vật. Không có chân dung người tù khổ ải mà chỉ hiện lên dáng vẻ phong độ của bậc tao nhân mặc khách đang ung dung thư thái thưởng ngoạn cảnh về chiều ở rừng núi.
Nếu như trong hai câu thơ đầu, cảnh vật hiện ra trong những nét vẽ chấm phá phần nào mang tính chất ước lệ cổ điển thì hình ảnh cô thôn nữ trong hai câu thơ còn lại lại được gợi tả một cách chân thực, sinh động và cụ thể như một bức tranh hiện thực. Bức tranh di chuyển điểm nhìn vào cuộc sống con người. Chính nét vẽ đời thường ấy đã làm cho bài thơ tăng thêm dáng vẻ hiện đại. Hình ảnh người con gái nổi bật lên, trở thành trung tâm của bài thơ. Thời khắc đầu đêm nơi xóm núi đã làm người tù quên đi cảnh ngộ khổ đau của mình để cảm nhận cuộc sống của nhân dân. Bác đã vượt qua những khoảng cách về không gian, đẳng cấp, dân tộc để đón nhận vẻ đẹp con người ở ngay nơi mà mình bị đày đọa. Đó là điều không phải ai cũng có thể làm được. Hai câu thơ nói lên sự quan tâm và tình cảm yêu thương của Bác đối với người lao động nghèo mà sự làm việc mệt nhọc thể hiện qua âm điệu khắc khổ của bài thơ. Đến đây bài thơ có sự vận động từ bức tranh thiên nhiên sang bức tranh đời sống. Cũng là sự xuất hiện của con người nhưng không phải là cảnh “Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông chợ mấy nhà” chỉ làm tăng thêm nỗi buồn và sự cô đơn của nhân vật trữ tình trong thơ Bà huyện Thanh Quan, con người trong thơ Bác xuất hiện chỉ một mình nhưng lại mang theo sức ấm nóng của sự sống Hành động xay ngô gợi đến những bữa ăn gia đình đông đúc và vui vẻ, gợi cuộc sống lao động bình dị. Hơn thế nữa, nó lại đi liền với “lô dĩ hồng”, cái ấm nóng của bếp lửa. Trong một đêm mùa thu giá rét phương Bắc, một bếp lửa rực hồng thật có ý nghĩa. Nó trở nên ấm áp và có sức lan tỏa hơn bao giờ hết. Cô thôn nữ được miêu tả trong sự lao động cần mẫn. “Ma bao túc” rồi “ma túc bao hoàn” vòng quay của cối xay ngô cứ đều đặn không ngừng nghĩ trong thái độ lao động hăng say của con người. Trong sự vận động của câu thơ có sự vận động của thời gian. “Nguyên văn không nói đến tối mà tự nhiên nói đến: thời gian cứ trôi dần theo cánh chim và làn mây, theo những vòng quay của cối ngô, quay quay mãi, “ma bao túc… bao túc ma hoàn” và đến khi côi xay dừng lại thì “lô dĩ hồng”, lò đã rực hồng, tức là trời tôi, trời tôi thì lò rực lên” (Lê Trí Viễn). Như vậy, bếp lửa của cô gái xay ngô đã hồng lên, nghĩa là buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối, nhưng lại không phải đêm tối lạnh lẽo, âm u mà là đêm tối ấm áp, bừng sáng bởi ngọn lửa hồng. Nếu hình dung cả bài thơ là một bức tranh thì chính cái châm lửa đỏ mà người nghệ sĩ tài hoa đã châm lên đó đã mang lại thần sắc cho toàn cảnh, dường như nó làm tăng thêm niềm vui và sức mạnh cho người đang cất bước trên đường xa. Giữa cái hoang sơ hùng vĩ của thiên nhiên đất trời, hình ảnh cô gái xay ngô và bếp lửa rực hồng của cô toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, sống động, đáng quý và đáng trân trọng biết bao.
Bài thơ là sự kết hợp của hai mảng màu chính: mảng màu của thiên nhiên và mảng màu của cuộc sống con người. Cái làm nên sự hài hoà giữa hai mảng màu ấy là tấm lòng thiết tha yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của người tù cách mạng. Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ buồn đến vui. Sự vận động này cho thấy cái nhìn tràn đầy niềm lạc quan yêu đời, thể hiện tâm hồn luôn vận động hướng ra ánh sáng, hướng ra sự sống, một “chất thép” đáng khâm phục trong tâm hồn thi sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh.
Phân tích thiên nhiên và con người trong Chiều tối – Mẫu 4
Chiều tối được Hồ Chí Minh sáng tác vào mùa thu năm 1942 khi Bác đang bị giam giữ bởi nhà tù Tưởng Giới Thạch. Trong một lần chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, Bác đã viết bài thơ Chiều tối để ghi lại khung cảnh thiên nhiên trên đường chuyển lao, đồng thời gửi gắm những tâm sự, cảm xúc thầm kín. Qua bài thơ độc giả có thể phần nào cảm nhận được nét đẹp trong tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản ấy.
Sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt khi Bác bị xiềng xích chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm về tự do, phải trải qua vô vàn những đọa đầy về thân xác nhưng xuyên suốt bài thơ Bác không một lần thể hiện sự bi quan hay than thở về hoàn cảnh là lại hướng tâm hồn tự do của mình đến cảnh sắc của tự nhiên, sự sống của con người. Thế mới thấy chính quyền Tưởng Giới Thạch chỉ có thể giam cầm tự do nhưng sức sống tinh thần lại chẳng sức mạnh bạo tàn nào có thể giam giữ nổi.
Trên đường chuyển lao, Bác đã ghi lại khung cảnh thiên nhiên chiều tối rộng lớn nhưng tịch mịch của vùng sơn cước:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây nhẹ trôi giữa tầng không
Cánh chim mỏi mệt, đám mây cô đơn là những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ điển. Cũng giống như những thi nhân xưa, mượn hình ảnh cánh chim, đám mây để diễn tả nỗi cô đơn, lạc lõng thì trong bài Chiều tối, sự xuất hiện của những hình ảnh quen thuộc này góp phần làm cho không gian vũ trụ trở nên rộng lớn, gia tăng nỗi buồn, sự cô đơn của người tù nơi đất khách quê người.
Cánh chim mỏi mệt trong thơ Bác vừa gợi ra cái rộng lớn, tịch mịch của không gian vừa gợi ấn tượng về chiều thời chiều tà, khi bóng tối bắt đầu bao trùm không gian. Hướng theo cánh chim mỏi mệt bay về rừng Bác đã gửi vào đó tình yêu, sự lưu luyến bất tận với từng dấu hiệu nhỏ nhoi của sự sống, cánh chim mỏi mệt còn tạo ra sự kết nối với hoàn cảnh của người tù. Sự mỏi mệt của cánh chim hô ứng với sự mỏi mệt của đôi chân người tù trên hành trình chuyển lao đầy vất vả.
Không gian mênh mông của vùng sơn cước còn được điểm xuyết bởi hình ảnh đám mây cô đơn đang lặng lẽ trôi vô định trên bầu không. Hình ảnh này gợi cho người đọc liên tưởng đến hình ảnh đám mây đơn độc trong thơ Thôi Hiệu “Ngàn năm mây trắng bây giờ con bay”.
Nếu đám mây trong thơ Thôi Hiệu gợi đến sự phiêu diêu, mênh mang mang ý vị vĩnh hằng thì trong thơ Bác đám mây cô đơn lại gợi ra trạng thái ung dung, tự tại nhưng lại đơn độc, cô đơn của người tù khi lưu lạc nơi đất khách, khi lý tưởng làm cách mạng, cứu dân cứu nước của người chiến sĩ bị gián đoạn.
Bức tranh thơ vẫn không ngừng chuyển động, từ không gian rộng lớn của thiên nhiên, Bác đã hướng sự chú ý đến sự sống của con người:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Dịch:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Ngô vừa xay xong lò than đã rực hồng
Hình ảnh thơ giản dị mang những nét đời thường, tuy nhiên chính cái đời thường ấy lại gợi ra bao cảm xúc nồng nhiệt trong tâm hồn của người thi sĩ. Hình ảnh cô gái xay ngô tối thể hiện sức sống mạnh mẽ, dáng vẻ trẻ trung sống động đã xua đi ấn tượng về không gian tịch mịch, về nỗi cô đơn, nỗi buồn triền miên trước đó. Sự xuất hiện của con người như dấu hiệu của sự sống, nó mang đến hơi ấm của sự sống, mang đến niềm vui và niềm tin trong tâm hồn của người chiến sĩ.
Bếp lửa rực hồng được coi là ánh sáng hy vọng, là nhãn tự của cả bài thơ, sự xuất hiện của ánh hồng bếp lửa báo hiệu cho độc giả biết về thời gian chiều tà đã bị bóng tối của màn đêm bao phủ, một dấu hiệu về thời gian độc đáo. Tuy nhiên, bóng tối không mang đến những lãnh lẽo, âm u như ấn tượng thông thường bởi hơi ấm của lò lửa có thể xua đi mọi u tối, mang đến ánh sáng của hy vọng, hơi ấm của sự sống.
Bài thơ Chiều tối viết về không gian chiều tà nhưng không mang đến cảm nhận về sự cô đơn, lạc lõng mà thắp sáng trong lòng mỗi độc giả bằng sự ấm áp của ngọn lửa hồng đầy yêu thương, cùng niềm tin mạnh mẽ vào cuộc đời của tâm hồn lạc quan của Bác.
Phân tích thiên nhiên và con người trong Chiều tối – Mẫu 5
Bài thơ “Chiều tối” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất nằm trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh Người đang trên đường bị áp giải chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Có thể nói bài thơ như một bức tranh hài hòa, giao quyện giữa bức tranh thiên nhiên và cuộc sống của con người, hay chính là sự kết hợp giữa bức tranh hiện thực đời sống và tinh thần thép của người tù cộng sản Hồ Chí Minh.
Có người nào được như Bác, có tinh thần nào lạc quan và yêu đời hơn tinh thần của Bác? Dù trong hoàn cảnh bị chuyển lao cực khổ nhưng trên đường đi Bác vẫn dùng tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của mình để ghi lại những khung cảnh thiên nhiên và con người để rồi qua đó gửi gắm những nỗi niềm, tâm sự và cảm xúc thầm kín của mình. Mở đầu bài thơ là cảm xúc của người thi sĩ trước cảnh thiên nhiên vùng rừng núi khi chiều tà sẩm tối:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Cảnh chiều tối vùng sơn cước hiện lên rộng lớn, mênh mông nhưng hoang vắng, tĩnh mịch, người thi sĩ đã sử dụng bút pháp chấm phá của thơ cổ điển để tạo nên vẻ đẹp của bức tranh. Bằng những hình ảnh như cánh chim, chòm mây vốn đã quen thuộc trong thơ ca cổ, tác giả đã gợi lên không gian cuối ngày, một ngày đang dần tan trôi từ từ vào đêm tối, thời khắc cuối cùng của mọi hoạt động ban ngày. Trong không gian mênh mông, bóng đêm đang dần bao trùm xuống vạn vật ấy, những hình ảnh này tuy nhỏ bé, mờ nhạt nhưng lại làm tăng thêm sự trống trải, hoang vắng của cảnh núi rừng, đồng thời khắc họa rõ sự cô đơn của người tù cách mạng đang một thân một mình nơi đất khách quê người. Cánh chim mệt mỏi bởi chính không gian rộng lớn làm nó bay mải miết, về rừng tìm chốn ngủ đã nhấn mạnh đến thời điểm kết thúc ngày, cánh chim đã mỏi sau một ngày hoạt động, phải tìm nơi dừng chân, chỗ trú ngụ. Còn người chiến sĩ cách mạng dù cũng đã mệt mỏi nhưng biết bao giờ mới được dùng chân và cũng không biết sẽ dừng chân tại đâu. Hình ảnh “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” gợi ra sự lững lờ, ung dung tự tại nhưng lại có phần đơn độc, lẻ loi của người tù cách mạng đang lưu lạc. Mây trôi nhẹ giữa không gian rộng lớn còn gợi sự chậm chạp, khắc khoải trong mơ hồ, cũng giống như Người, trên đường chuyển lao Người băn khoăn trăn trở không biết được tương lai sẽ đi đến đâu, còn cả sự nghiệp cách mạng phía trước sẽ ra sao.
Bỗng trong không gian thiên nhiên ấy hiện lên bóng dáng của con người, sự sống của con người đã làm sống dậy bức tranh, trở thành tâm điểm của cả bức tranh. Sự xuất hiện của cuộc sống con người đã xua tan đi nỗi cô đơn, lẻ loi của người tù cách mạng:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng)
Nơi thôn quê miền sơn cước có bóng dáng của một thiếu nữ đang xay ngô chuẩn bị cho bữa tối, quả thực đây là một hình ảnh – cảnh tượng hết sức đời thường, bình dị và dân dã. Thế nhưng chính cái đời thường ấy lại là chất xúc tác mạnh mẽ mang đến những cảm xúc phi thường trong tâm hồn người thi sĩ. Nơi miền sơn cước khi chiều tối vắng vẻ lại hiện lên hình ảnh cô gái thôn nữ đang mải miết xay ngô, một hình ảnh tuyệt đẹp về con người trong lao động. Chính vẻ trẻ trung, hăng say lao động ở cô thôn nữ đã xua tan đi cái âm u, tĩnh mịch và hoang vắng của núi rừng khi vào đêm. Những hoạt động sinh hoạt đời thường gợi lên trong lòng tác giả cảm giác ấm cúng hạnh phúc và no đủ, hơn thế hoạt động của con người chính là hơi ấm của sự sống, không chỉ xua tan đi nỗi cô đơn mà còn mang đến niềm vui trong lòng người tù trên miền đất xa lạ. Hình ảnh “lô dĩ hồng” – lò than rực hồng kết thúc bài thơ và cũng chính là nhãn tự của bài thơ, từ điểm nhìn này bức tranh đời sống con người trở nên ấm áp hơn, màu hồng của lò than là ánh sáng của hy vọng, của niềm tin và sức sống. Điểm nhìn này cũng quay ngược trở lại khắc họa rõ thời khắc chuyển giao từ ngày sang tối của thời gian, không gian. Màn đêm đã bao phủ toàn bộ cảnh vật, đến nỗi chỉ một lò than có thể rực hồng nổi bật trong đêm tối của rừng núi sơn cước.
Bài thơ “Chiều tối” thực sự là một bức tranh tuyệt đẹp, hài hòa giữa những mảng sáng và tối, thiên nhiên và con người. Người tù cộng sản Hồ Chí Minh đã bằng những nét tinh tế, trong trẻo nhất của tâm hồn yêu thiên nhiên, cuộc sống để có thể vẽ nên một bức tranh kỳ diệu trong hoàn cảnh đặc biệt – trên đường đi chuyển lao tù.
Phân tích thiên nhiên và con người trong Chiều tối – Mẫu 6
Chiều cũng tựa như mùa thu, từ xưa đến nay vẫn là nguồn cảm hứng vô tận đối với các thi nhân. Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn nên chẳng đáng ngạc nhiên khi hồn thơ ấy đã ngập tràn rung động trước cảnh chiều hôm. Ngay trong tập “NKTT” ta cũng bắt gặp nhiều bài thơ viết về cảnh chiều hôm: Hoàng hôn, Cảnh chiều hôm nhưng quen thuộc hơn cả là ” Chiều tối” ( Mộ). Qua bài thơ, ta thấy được vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người cũng như tâm hồn cao đẹp của Bác.
Nhật kí trong tù (1942 – 1943) tỏa sáng tâm hồn cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Tâm hồn tha thiết yêu con người, đất nước bao nhiêu thì cũng thiết tha yêu thiên nhiên cuộc sống bấy nhiêu. Tâm hồn ấy trong những tháng ngày tù đày tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, sự sống và tương lai. Trên đường bị giải đi trong chiều buồn ở tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc lòng nhà thơ – người tù bỗng ấm lên và phấn chấn vui vẻ trước thiên nhiên đẹp và hình ảnh cuộc sống bình dị ấm cúng. Cảm xúc nhà thơ viết bài thơ Mộ. Bài thơ được sáng tác cuối thu 1942.
Bài thơ có hai bức tranh rõ nét: hai câu đầu là cảnh hoàng hôn, hai câu sau là cảnh sinh hoạt.
Trên con đường thanh vắng, thiên nhiên như một hồng thơ đang đón đợi:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Bức tranh hoàng hôn đã được xác định thời gian lúc chiều đang trôi chậm và không gian là bầu trời bao la lúc ánh nắng chỉ còn le lói rồi nhường chỗ cho bóng tối lan dần. Phía xa là cánh chim bay mải miết về tổ, trên cao là chòm mây trắng lẻ loi trôi lơ lửng. Thiên nhiên được miêu tả với vài nét chấm phá nhưng đã gợi ra khung cảnh bát ngát, trong sáng êm đềm của hoàng hôn vùng rừng núi. Thiên nhiên có vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng nhưng quạnh quẽ đượm buồn. Vẻ đẹp ấy rung cảm bởi tâm hồn xao xuyến yêu thương của Bác.
Hai câu thơ sử dụng bút pháp chấm phá miêu tả, nhất là cách sử dụng thi liệu mang đậm sắc cổ điển: lấy cánh chim biểu tượng cho hoàng hôn, còn hoàng hôn thì biểu tượng cho nỗi buồn, nhất là đối với người tha hương càng gợi thêm nỗi buồn xa xứ, lòng thương nhớ cố hương, Thôi Hiệu viết:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Hoàng Hạc lâu)
Và người đi trên đường xa trong cảnh hoàng hôn ấy dễ cảm thấy cô đơn và chạnh lòng.
Bài thơ có cách cảm thụ thế giới quen thuộc của thơ xưa, thiên nhiên như đồng cảm với tâm sự của con người. Hình ảnh con chim sau một ngày kiếm ăn vất vả như ẩn dụ hình ảnh người tù mỏi mệt sau một ngày đường bị áp giải. Chòm mây buồn như ẩn dụ tâm trạng cô đơn buồn bã của tù nhân. Tứ thơ cổ điển mà vẫn hiện đại, vì thiên nhiên với con người có sự đồng cảm chứ không đồng nhất. Thiên nhiên mệt mỏi còn có chốn nghỉ, cô đơn mà được tự do, còn người tù không biết đi về đâu và mất tự do không biết đến bao giờ. Nên nhà thơ đang khao khát tự do và một mái ấm gia đình. Tả cảnh mà chứa tình, hàm ý sâu xa, đó là vẻ đẹp hàm súc dư ba của thơ cổ điển.
Tóm lại, hai câu thơ gợi tả cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn, vì ‘‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Buồn vì xa Tổ quốc, buồn vì bị bắt tù oan, buồn vì mất tự do không biết đến bao giờ. Nhưng trước vẻ đẹp của cảnh ấy lòng người ít nhiều cũng tìm được niềm vui thư thái.
Điểm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ là chỉ miêu tả không gian với hai hình ảnh đang vận động: cánh chim bay và chòm mây trôi nhưng diễn tả được sự luân chuyển của thời gian: chiều đang trôi chầm chậm về đêm.
Không gian thay đổi, khung cảnh sinh hoạt của một bản làng miền núi được mở ra một cách tự nhiên:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Hai câu thơ sử dụng bút pháp điểm nhãn của thơ cổ điển, nhưng hình ảnh thơ bình dị, chân thực lại được ghi bởi bút pháp hiện thực. Hình ảnh cô gái mải miết xay ngô và xay xong bên lò lửa rực hồng gợi bức tranh đời sống có vẻ đẹp bình dị, ấm cúng, yên vui. Riêng đối với người tù mệt mỏi, mất tự do thì cảnh ấy trở nên vô cùng hấp dẫn, quý giá, thiêng liêng, vì nó lệ thuộc về thế giới tự do. Chỉ có ai đã từng trải qua những cánh đời đau khổ đầy giông bão mới thấy hết giá trị của từng phút giây cảnh đời bình yên. Do đó bức tranh đời sống trở thành nguồn thơ dạt dào, thể hiện niềm xao xuyến, sự rung động mãnh liệt hồn thơ.
Lò lửa hồng là hình ảnh nổi bật trung tâm của bức tranh thơ, làm nổi rõ hình ảnh của cô gái. Nó sưởi ấm bức tranh thiên nhiên hiu hắt. lạnh lẽo và sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Vậy là, hình ảnh cuộc sống con người là điểm hội tụ vẻ đẹp bài thơ, tỏa sáng ánh và hơi ấm xung quanh. Hình ảnh lò lửa hừng hực đặt bên cạnh cô gái tạo ra vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của cảnh thơ. Hoàng Trung Thông cho rằng chữ hồng là nhãn tự của bài thơ là vì vậy. Ý thơ cuối khỏe, đẹp bộc lộ niềm vui, lòng yêu đời, yêu cuộc sống. tinh thần lạc quan của Bác.
Như vậy hai câu thơ là sự quan sát của người đi đường nhưng là cái nhìn của người đang khao khát tìm về cuộc sống bình yên giản dị. Thế nên khi bắt gặp hình ảnh cuộc sống con người giữa miền sơn cước, tình yêu và niềm vui đã tràn ngập cõi lòng. Không phải ngoại cảnh tác động đến con người mà chính cảm xúc của con người trùm lên ngoại cảnh. Thiên nhiên đẹp nhưng chưa đủ mang đến niềm vui. Cuộc sống đẹp đã mang đến niềm vui chan chứa. Điều ấy đã thể hiện phẩm chất nhân văn cao đẹp của nhà thơ.
Nguyên tác chữ Hán không có từ tối, bản dịch thơ thừa từ. Không miêu tả đêm tối mà vẫn cảm nhận được là nhờ ánh lửa lò than. Lấy ánh sáng để làm nổi bóng tối, nghệ thuật là ở đó.
Hình tượng thơ vận động rất tự nhiên, bất ngờ, khỏe khoắn: từ lạnh lẽo, hắt hiu đến ấm nóng, sum vầy, từ tối đến sáng, từ buồn sang vui… đó là điểm đặc sắc trong phong cách thơ của Bác, thể hiện niềm tin yêu cuộc đời dù đang ở trong những tháng ngày đau khổ nhất.
Bài thơ Chiều tối có sự hài hòa giữa phong cách cổ điển với hiện đại, giữa thiên nhiên với tâm hồn. Bài thơ đã cho người đọc thưởng thức bức tranh thiên nhiên đẹp và cảm nhận được vẻ đẹp của tâm hồn lớn. Một tâm hồn phong phú, giàu cảm xúc, một tình cảm hồn hậu, thiết tha với thiên nhiên, cuộc sống con người; luôn hướng về sự sống và ánh sáng, một tinh thần lạc quan trong gian khổ.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 11: Phân tích thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối 2 Dàn ý & 6 bài văn hay lớp 11 của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.