Bạn đang xem bài viết ✅ Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 42 Cánh diều Ngữ văn lớp 9 trang 42 sách Cánh diều tập 1 ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Wikihoc.com sẽ cung cấp bài Soạn văn 9: Thực hành tiếng Việt trang 42, hướng dẫn giải bài tập trong SGK.

Soạn bài Thực hành tiếng Việt (trang 42)
Soạn bài Thực hành tiếng Việt (trang 42)

Bạn đọc hãy cùng tham khảo nội dung chi tiết của tài liệu sẽ được chúng tôi đăng tải ngay sau đây.

Soạn bài Thực hành tiếng Việt (trang 42)

Điển cố, điển tích

Câu 1. Ghép các điển cố, điển tích (in đậm) ở bên A với nguồn gốc và nghĩa nêu ở bên B:

A. Điển cố, điển tích

B. Nguồn gốc, nghĩa

a) Giường kia treo cũng hững hờ, (Nguyễn Khuyến)

1) Điển tích, lấy từ chuyện xưa bên Trung Quốc: “Vua Vũ Hán Đế kén phò mã, cho công chúa ngồi trên lầu ném quả cầu xuống, ai cướp được thì được làm phò mã”. Câu thơ mượn chuyện này để ngụ ý: Cha mẹ Thuý Kiều mong muốn gả con vào nơi xứng đáng.

b) Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn (Nguyễn Khuyến)

2) Điển tích, dẫn theo chuyện xưa: “Trần Phồn thời hậu Hán (Trung Quốc) sắm chiếc giường dành riêng cho người bạn thân là Từ Trĩ. Khi bạn đến chơi thì mang giường xuống, khi bạn về thì lại treo cất đi.”.

c) Một hai nghiêng nước nghiêng thành / Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai (Nguyễn Du)

3) Điển tích, lấy từ chuyện xưa: “Tương truyền Bá Nha và Chung Tử Kỳ là hai người bạn tri âm, sống vào thời Xuân Thu, Chiến Quốc (Trung Quốc xưa). Bá Nha chơi đàn giỏi. Tử Kỳ nghe tiếng đàn của Bá Nha mà như hiểu tâm can của bạn. Sau khi Tử Kỳ chết, bá Nha đập bỏ đàn vì cho rằng trên đời không còn ai hiểu được tiếng đàn của mình nữa.”.

d) Nuôi con những ước về sau,/ Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi. (Nguyễn Du)

4) Điển cố, lấy từ bài ca của Lý Diên Niên (Trung Quốc): “Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc” (Ngoảnh lại một cái làm xiêu thành trì của người, ngoảnh lại cái nữa làm xiêu nước của người.). Câu thơ mượn từ ngữ của bài thơ xưa để diễn tả vẻ đẹp của Thuý Kiều.

Tham khảo thêm:   Thiết kế web Tài liệu học thiết kế web

Hướng dẫn giải:

1 – d

2 – a

3 – b

4 – c

Câu 2. Dựa vào chú thích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, giải thích nguồn gốc và ý nghĩa của các điển cố, điển tích (in đậm) trong những câu dưới đây:

a. Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

b. Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?

Hướng dẫn giải:

– bể dâu: Theo sách Thần tiên truyện, thời Đông Hán, có ông Vương Phương Bình thông minh học giỏi, thi đỗ cao và được bổ làm quan đến chức Trung tán đại phu. Nhưng ông sớm từ quan để tu tiên học đạo. Khi đắc đạo, Phương Bình giáng xuống nhà Thái Kinh, cho sứ giả mời tiên nữ Ma Cô (vị thọ tiên trong thần thoại Trung Hoa) đến để hỏi về thời gian cách biệt. Ma Cô tiên nữ trả lời rằng: “Từ khi biết ông đến nay, đã thấy ba lần biển xanh biến thành ruộng dâu”.

– Mắt xanh: Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn (265- 419) là người rất thích rượu và đàn. Khi tiếp khách, nếu khách thuộc hạng người ông thích, ông vừa lòng thì nhìn thẳng để lộ tròng mắt xanh; trái lại tiếp người ông không ưa thích thì ông nhìn ngang (lườm) để lộ lòng mắt trắng. Câu hỏi của Từ Hải “mắt xanh chẳng để ai vào có không” tức là nàng chưa tiếp ai bằng mắt xanh, có nghĩa là nàng chưa thấy ai là người vừa ý vừa lòng phải không?

Tham khảo thêm:   Đề cương ôn tập giữa học kì 2 môn Công nghệ 6 sách Cánh diều Ôn thi giữa học kì 2 môn Công nghệ 6 năm 2022 - 2023

Câu 3. Tìm trong sách, báo (hoặc trên Internet) câu chuyện Tái Ông thất mã (Tái Ông mất ngựa). Viết một đoạn văn (khoảng 10 – 12 dòng) kể lại chuyện đó và nêu ý nghĩa của điển tích “ngựa Tái Ông”.

Hướng dẫn giải:

Xưa có ông lão sống ở phía Bắc Trung Quốc giáp với nước Hồ (tái ông). Ông nuôi một con ngựa. Một lần, con ngựa chạy sang địa phận nước Hồ. Ai nấy đều đến chia buồn với ông, nhưng ông lại bảo: “Không chừng lại có chuyện tốt!”. Một thời gian sau, con ngựa của ông quay và dẫn theo một ngựa cao lớn. Mọi người đến chúc mừng ông, nhưng ông lại nói: “ Biết đâu lại là tai họa!”. Con trai của ông lão thích cưỡi ngựa. Một hôm, anh ta cưỡi con ngựa to khỏe kia, bị ngã. Hàng xóm đến thăm nom, ông lão bảo: “Trong họa lại có phúc!”. Quân Hồ sang xâm lược, các chàng trai trong vùng phải đi lính. Con trai ông vì bị thương nên không phải đi. Ý nghĩa của điển tích “ngựa Tái Ông” là cuộc đời khó lường, không thể biết được đâu là họa, đâu là phúc. Vì vậy, mỗi người cần dũng cảm đối mặt, luôn giữ được lạc quan để vượt qua mọi thử thách.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 42 Cánh diều Ngữ văn lớp 9 trang 42 sách Cánh diều tập 1 của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

Tham khảo thêm:   Nghị quyết 51/NQ-CP Chủ trương giải pháp cơ cấu lại ngân sách quản lý nợ công

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *