Bạn đang xem bài viết ✅ Soạn bài Cô Gió mất tên – Chân trời sáng tạo 6 Ngữ văn lớp 6 trang 98 sách Chân trời sáng tạo tập 1 ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Tác phẩm Cô Gió mất tên sẽ được giới thiệu đến các bạn học sinh trong chương trình học môn Ngữ Văn lớp 6, thuộc sách Chân trời sáng tạo, tập 1.

Soạn bài Cô Gió mất tên
Soạn bài Cô Gió mất tên

Wikihoc.com muốn cung cấp bài Soạn văn 6: Cô Gió mất tên. Hãy cùng theo dõi nội dung chi tiết được chúng tôi giới thiệu ngay sau đây.

Soạn bài Cô gió mất tên – Mẫu 1

Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

– Xuân Quỳnh sinh năm 1942 và mất năm 1988, tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh.

– Quê ở làng An Khê, ven thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).

– Bà là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc của Việt Nam, được mệnh danh là nữ hoàng thơ tình yêu của Việt Nam.

– Thơ của Xuân Quỳnh thường viết về những tình cảm gần gũi, bình dị, trong sáng của đời sống gia đình và cuộc sống hàng ngày, biểu lộ những rung cảm và khát vọng của một trái tim phụ nữ chân thành, tha thiết và đằm thắm.

– Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật vào năm 2011.

– Một số tác phẩm tiêu biểu:

  • Các tập thơ: Chồi biếc (1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Lời ru trên mặt đất (1978), Chờ trăng (1981), Tự hát (1984). Trong đó có một số bài thơ đặc biệt nổi tiếng: Thuyền và biển, Sóng, Tiếng gà trưa, Thơ tình cuối mùa thu…
  • Một số tác phẩm viết cho thiếu nhi: Mùa xuân trên cánh đồng (truyện thiếu nhi, 1981), Bầu trời trong quả trứng (thơ văn thiếu nhi, 1982)…

2. Tác phẩm

– Xuất xứ: Cô Gió mất tên được in trong tập “Những câu chuyện hay viết cho thiếu nhi” (NXB Kim Đồng, 2014)

– Tóm tắt: Người ta gọi cô là Gió. Cô đi khắp nơi giúp đỡ mọi người. Ai cũng yêu quý cô. Cô giúp cho thuyền trên sông đi nhanh hơn, giúp cây cỏ và hoa kết trái, đưa mây về làm mưa trên cánh đồng khô cạn. Bố mẹ Đào đi công tác, chỉ có Đào và bà ở nhà. Bà lại đang ốm. Trời nóng, Đào ngồi quạt cho bà. Cô Gió thấy vậy nên đã đến giúp hai bà cháu. Sau đó, cô còn giúp chú Ong nhỏ về nhà. Trên đường trở về, cô vô tình lạc vào căn nhà, cô nói chuyện với chị Hũ. Cuộc trò chuyện kiến cô nhận ra mình không có hình dáng, màu sắc nên không ai biết tên mình. Cô buồn bã nhưng rồi vẫn tiếp tục bay đi để mang hy vọng tìm thấy cái tên mình ở một nơi nào đó. Rồi cô Gió nhận ra nhờ có mình mà thuyền được nhổ neo, hoa tỏa ngát hương và tiếng mẹ gọi con về ăn cơm vang xa ra tận cánh đồng. Cô Gió hạnh phúc khi được giúp đỡ mọi người.

Đọc – hiểu văn bản

1. Giới thiệu về cô Gió

– Tên gọi: Gió.

– Hình dáng, màu sắc: không có.

– Công việc: Đi lang thang khắp đó đây, lúc nhanh lúc chậm tùy thời tiết và giúp đỡ mọi người (giúp cho những chiếc thuyền đi nhanh hơn, đưa mây về làm mưa trên các miền đất khô cạn).

=> Mọi người rất yêu quý cô.

b. Chuyện cô Gió hay giúp đỡ mọi người

* Cô Gió giúp đỡ bạn Đào:

– Hoàn cảnh: bố mẹ đều đi công tác vắng, chỉ có hai bà cháu ở nhà, trời nóng hầm hập và bà ốm, Đào phải ngồi quạt cho bà.

– Cô Gió giúp đỡ Đào:

  • Từ xa cô Gió nghe tiếng và biết hết mọi việc. Cô từ chối cuộc vui để vội đi giúp đỡ bạn Đào: “Lát nữa nhé! Tôi còn vội đi giúp đỡ bạn Đào bên kia một chút”.
  • Nhanh chóng đến giúp đỡ: “Đến cửa sổ nhỏ nhà Đào, cô dừng lại một giây rồi từ từ thổi hơi mát vào giường bà. Vì đối với người ốm mà làm mạnh quá thì nguy hiểm”.
  • Giúp đỡ rất nhiệt tình: “Cô Gió quanh quẩn ở nhà Đào cho tới khi bà Đào khỏi ốm”.
  • Luôn sẵn sàng khi Đào cần: “Khi nào bạn cần, bạn cứ gọi tôi, tôi sẽ đến giúp bạn ngay…”.

* Cuộc trò chuyện với các bạn ngô, lau, sậy trên bãi:

– Hoàn cảnh: sau khi giúp bé Đào, đang vừa đi vừa hát thì gặp.

– Các bạn ngô: “Ai mà chả biết cô. Mỗi lần cô đến là tất cả họ hàng nhà ngô chúng em xôn xao cả lên”

– Các bác lau sậy: “Cứ cô đến là chúng tôi mới hát, không có cô chúng tôi buồn lắm đấy. Nhưng có bao giờ giữ được cô lâu đâu. Chỗ nào cũng cần đến cô nên cô cứ đi luôn”.

– Cô Gió: chưa kịp trò chuyện vì phải đi giúp đỡ chú Ong nhỏ về nhà.

* Chuyện đưa Ong vàng về nhà:

  • Hoàn cảnh: gặp ở trên đường, chú ong lạc đàn, cứ bay vơ vẩn mà khóc mãi.
  • Trên đường đi, cô chui qua một ngôi nhà và bị mắc kẹt.
  • Đến khi cô thoát được ra thì chú Ong đã không còn ở đó nữa.

c. Chuyện cô Gió mất tên

– Hoàn cảnh: trên đường đưa Ong vàng về, cô Gió chui qua một ngôi nhà.

– Cô vào nhà nhưng không ai biết đến:

  • Mọi người quây quần bên mâm cơm không biết cô vào.
  • Cô cảm thấy hơi buồn, lòng thầm nghĩ: “Nếu mình có hình dáng cụ thể như cái ấm, cái lọ hoa hoặc như ngọn lửa trên bếp thì có phải thích không”.
  • Cô thấy những điều mới lạ: đài truyền hình, nhiều dây dợ và núi bấm lằng nhằng; tiếng đàn, hát vẫn tự nhiên vang lên không cần cô truyền đi.
  • Cô Gió chui vào chui vào một cái hũ tối mò, mùi hôi bốc lên nồng nặc và không thể chịu nổi phải kêu lên: “Trời ơi! Tối quá, tối quá! Cho tôi ra với”.
  • Chị Hũ không biết đến sự xuất hiện và cái tên của cô Gió: “Tôi chưa nghe tên bao giờ”, “Thế công việc của cô là gì mà cô lại mò mẫm vào đây?”
  • Chị Hũ khuyên cô quay về những nơi mà cô có ích để tìm lại tên của mình.

– Tâm trạng cô Gió sau khi thoát khỏi Hũ: lòng buồn phiền quanh quẩn suy nghĩ “Có nhẽ chị Hũ nói đúng, mình đã bỏ quên mất tên thật rồi!”.

Tham khảo thêm:   Thông tư 02/2019/TT-BLĐTBXH Sửa đổi nội dung xác nhận chế độ ưu đãi người có công với cách mạng

=> Cảm thấy bất lực mà khóc òa lên nhưng nước mắt cũng không có dáng hình màu sắc nên không một ai biết đến để an ủi cô.

d. Cô Gió đi tìm lại tên

– Hoàn cảnh: sau khi bị mất tên, cô Gió hốt hoảng bay đi; cô mang hy vọng tìm thấy tên mình ở một nơi nào đó.

– Cô bay đến mặt biển, tìm lại được công việc của mình:

  • Thổi các ngọn khói bay trên tầng ống khói nhà máy.
  • Tỏa hơi mát của dòng suối ra bờ cây.
  • Đưa mùi thơm của hoa tràn ra đồng cỏ.
  • Đưa tiếng gọi ra xa đồng ruộng, đến tai em bé.
  • Thổi bay phấp phới hai dải mũ thủy thủ. Thổi lá cờ bay phần phật. Gió giúp thuyền ra khơi.
  • Thổi quay tít cái chong chóng nhỏ sặc sỡ trên tay em bé.

=> Cô Gió đã tìm lại được tên gọi của mình.

Soạn bài Cô Gió mất tên – Mẫu 2

Câu 1. Chỉ ra những đặc điểm của thể loại đồng thoại được thể hiện trong văn bản Cô gió mất tên.

Đặc điểm của truyện đồng thoại:

– Nhân vật là các loài vật, đồ vật đã được nhân hoá: cô Gió, hoa tầm xuân, chị Hũ, bạn ngô, bác lau sậy, chú Ong vàng có lời nói, cử chỉ như con người.

– Thể hiện đặc điểm sinh hoạt của sự vật như các chi tiết: cô Gió vừa vội vã bay đi, cô dừng lại một vài giây rồi từ từ thổi hơi mát vào giường bà… Đồng thời cũng thể hiện đặc điểm tính cách của con người (sự tốt bụng, quan tâm và giúp đỡ mọi người xung quanh).

Câu 2. Thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc qua văn bản này là gì?

Dù cô Gió không có dáng hình, chẳng ai nhìn thấy nhưng mọi người vẫn nhận ra và yêu quý cô vì sự tốt bụng, nhiệt tình của cô. Qua đó, truyện gửi gắm bài học về sự quan tâm, giúp đỡ trong mọi người xung quanh.

Soạn bài Cô Gió mất tên – Mẫu 3

I. Mở bài

Giới thiệu đôi nét về tác giả Xuân Quỳnh, tác phẩm Cô Gió mất tên.

II. Thân bài

1. Giới thiệu về cô Gió

– Tên gọi: Gió.

– Hình dáng, màu sắc: không có.

– Công việc: Đi lang thang khắp đó đây, lúc nhanh lúc chậm tùy thời tiết và giúp đỡ mọi người (giúp cho những chiếc thuyền đi nhanh hơn, đưa mây về làm mưa trên các miền đất khô cạn).

=> Mọi người rất yêu quý cô.

2. Cô Gió hay giúp đỡ mọi người

a. Cô Gió giúp đỡ bạn Đào:

– Hoàn cảnh: Bố mẹ đều đi công tác vắng, chỉ có hai bà cháu ở nhà. Trời nóng hầm hập. Bà ốm, Đào phải ngồi quạt cho bà.

– Cô Gió giúp đỡ Đào:

  • Từ xa cô Gió nghe tiếng và biết hết mọi việc. Cô từ chối cuộc vui để vội đi giúp đỡ bạn Đào: “Lát nữa nhé! Tôi còn vội đi giúp đỡ bạn Đào bên kia một chút”.
  • Nhanh chóng đến giúp đỡ: “Đến cửa sổ nhỏ nhà Đào, cô dừng lại một giây rồi từ từ thổi hơi mát vào giường bà. Vì đối với người ốm mà làm mạnh quá thì nguy hiểm”.
  • Giúp đỡ rất nhiệt tình: “Cô Gió quanh quẩn ở nhà Đào cho tới khi bà Đào khỏi ốm”.
  • Luôn sẵn sàng khi Đào cần: “Khi nào bạn cần, bạn cứ gọi tôi, tôi sẽ đến giúp bạn ngay…”.
Tham khảo thêm:   Bộ đề kiểm tra 1 tiết môn Địa lý lớp 12 học kì 1 6 Đề kiểm tra 45 phút môn Địa lý lớp 12

b. Cuộc trò chuyện với các bạn ngô, lau, sậy trên bãi:

– Hoàn cảnh: Sau khi giúp bé Đào, đang vừa đi vừa hát thì gặp.

– Các bạn ngô: “Ai mà chả biết cô. Mỗi lần cô đến là tất cả họ hàng nhà ngô chúng em xôn xao cả lên”

– Các bác lau sậy: “Cứ cô đến là chúng tôi mới hát, không có cô chúng tôi buồn lắm đấy. Nhưng có bao giờ giữ được cô lâu đâu. Chỗ nào cũng cần đến cô nên cô cứ đi luôn”.

– Cô Gió: chưa kịp trò chuyện vì phải đi giúp đỡ chú Ong nhỏ về nhà.

c. Chuyện đưa Ong vàng về nhà:

  • Hoàn cảnh: Gặp ở trên đường, chú ong lạc đàn, cứ bay vơ vẩn mà khóc mãi.
  • Trên đường đi, cô chui qua một ngôi nhà và bị mắc kẹt.
  • Đến khi cô thoát được ra thì chú Ong đã không còn ở đó nữa.

3. Cô Gió đánh mất tên

– Hoàn cảnh: Trên đường đưa Ong vàng về, cô Gió chui qua một ngôi nhà.

– Cô vào nhà nhưng không ai biết đến:

  • Mọi người quây quần bên mâm cơm không biết cô vào.
  • Cô cảm thấy hơi buồn, lòng thầm nghĩ: “Nếu mình có hình dáng cụ thể như cái ấm, cái lọ hoa hoặc như ngọn lửa trên bếp thì có phải thích không”.
  • Cô thấy những điều mới lạ: Đài truyền hình, nhiều dây dợ và núi bấm lằng nhằng. Tiếng đàn, hát vẫn tự nhiên vang lên không cần cô truyền đi.
  • Cô Gió chui vào chui vào một cái hũ tối mò, mùi hôi bốc lên nồng nặc và không thể chịu nổi phải kêu lên: “Trời ơi! Tối quá, tối quá! Cho tôi ra với”.
  • Chị Hũ không biết đến sự xuất hiện và cái tên của cô Gió: “Tôi chưa nghe tên bao giờ”, “Thế công việc của cô là gì mà cô lại mò mẫm vào đây?”
  • Chị Hũ khuyên cô quay về những nơi mà cô có ích để tìm lại tên của mình.

– Tâm trạng cô Gió sau khi thoát khỏi Hũ: lòng buồn phiền quanh quẩn suy nghĩ “Có nhẽ chị Hũ nói đúng, mình đã bỏ quên mất tên thật rồi!”.

=> Cảm thấy bất lực mà khóc òa lên nhưng nước mắt cũng không có dáng hình màu sắc nên không một ai biết đến để an ủi cô.

4. Cô Gió đi tìm lại tên

– Hoàn cảnh: Sau khi bị mất tên, cô Gió hốt hoảng bay đi. Cô mang hy vọng tìm thấy tên mình ở một nơi nào đó.

– Cô bay đến mặt biển, tìm lại được công việc của mình:

  • Thổi các ngọn khói bay trên tầng ống khói nhà máy.
  • Tỏa hơi mát của dòng suối ra bờ cây.
  • Đưa mùi thơm của hoa tràn ra đồng cỏ.
  • Đưa tiếng gọi ra xa đồng ruộng, đến tai em bé.
  • Thổi bay phấp phới hai dải mũ thủy thủ. Thổi lá cờ bay phần phật. Gió giúp thuyền ra khơi.
  • Thổi quay tít cái chong chóng nhỏ sặc sỡ trên tay em bé.

=> Cô Gió đã tìm lại được tên gọi của mình.

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung của tác phẩm Cô Gió mất tên.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Soạn bài Cô Gió mất tên – Chân trời sáng tạo 6 Ngữ văn lớp 6 trang 98 sách Chân trời sáng tạo tập 1 của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *