Hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu đến tất cả quý thầy cô và các bạn học sinh tài liệu bài văn mẫu lớp 10: Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ của Ngô Sĩ Liên.
Hy vọng rằng với tài liệu này thì các bạn học sinh có thể củng cố lại kiến thức môn Ngữ văn lớp 10 của mình. Dưới đây sẽ là dàn ý và 6 bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ, xin mời các bạn cùng tham khảo.
Dàn ý phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ
I. Mở bài:
– Sử là tác phẩm viết về các sự kiện và nhân vật lịch sử. Mục đích của sử là ghi chép sự thật, không hư cấu như văn học nghệ thuật, nhằm cung cấp những sự kiện lịch sử của dân tộc và bày tỏ thái độ khen chê của sử gia đối với các nhân vật lịch sử để đời sau lấy đấy làm gương. Đặc điểm nổi bật của sử là tính xác thực của sự kiện, chiều sâu của tư tưởng đã kết hợp chặt chẽ với trình độ nghệ thuật cao của sự trình bày, diễn đạt sử xưa có hai thể: biên niên và kí sự. Biên niên là lối viết sử theo trình tự thời gian (Đại Việt sử lược – khuyết danh. Đại Việt sử ký – Lê Văn Hưu, Đại Việt sử ký toàn thư – Ngô Sĩ Liên). Kí sử là lối viết sử theo các sự kiện hoặc theo từng sự việc của nhân vật lịch sử (Đại Việt thông sử – Lê Quý Đôn, Sử ký – Tư Mã Thiên).
– Bài Thái sư Trần Thủ Độ được trích từ sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển V, phần Ban kí, của nhóm tác giả Ngô Sĩ Liên chủ biên là một bài văn lịch sử xuất sắc. Bài viết vừa giúp người đọc hiểu rõ thêm phẩm chất chí công vô tư, biết khích lệ cấp dưới giữ vững kỷ cương phép nước của Trần Thủ Độ – vị danh quan nhà Trần, vừa cho thấy một lối viết sử trung thành, hấp dẫn của tác giả.
II. Thân bài:
* Nội dung:
– Kể về cuộc đời của Trần Thủ Độ, tác giả chọn ra bốn sự kiện phản ánh bốn khía cạnh về nhân cách của vị quan nổi tiếng. Lối viết sử của tác giả hấp dẫn bởi gây được yếu tố bất ngờ, khiến người đọc hồi hộp đợi chờ. Cả bốn sự kiện, bao giờ kết quả cũng ngược với dự đoán của người đọc.
– Đối với người hạch tội mình: Thông thường, người ta ghét kẻ vạch tội lỗi hoặc khuyết điểm của mình. Nhưng Trần Thủ Độ không như vậy. Trước hết, ông nhận “Đúng như lời người ấy nói” và bất ngờ hơn: Lấy tiền lụa thưởng cho anh ta. Đó không chỉ là sự thẳng thắn, nghiêm khắc với bản thân mà còn khích lệ người trung trực, dũng cảm dám vạch sai lầm hoặc tội lỗi của kẻ bề trên là chính mình.
– Sự kiện người quân hiệu giữ thềm cấm cũng vậy. Người đọc hồi hộp chờ đợi khi Thủ Độ giận, sai đi bắt anh ta. Kết quả là Thủ Độ nói: “Người ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa”. Không những như vậy, ông còn lấy vàng lụa ban thưởng rồi cho về.
– Sự kiện người xin chức câu đương càng thú vị. Thực ra câu đương chỉ là một chức xã quan trong thôn xóm, nếu như Quốc mẫu (vợ của Trần Thủ Độ) có xin cho người nhà thì cũng chẳng có gì quá đáng lắm. Hơn nữa, Trần Thủ Độ lại gật đầu và biên lấy họ tên quê quán của người đó. Hành động này khiến người đọc nghĩ ông đồng ý. Khi xét duyệt ông lại còn gọi người kia đến. Tiếng cười bật ra ở nghịch cảnh người ấy mừng chạy đến, tin chắc mình nhất định sẽ được giữ chức câu đương. Nhưng kết quả thì ngược lại, qua một câu nói của Trần Thủ Độ mà không ai có thể đoán trước được: “Người vì có Công chúa xin cho được làm chức, không ví như người câu đương khác được”. Đến đây, người đọc vẫn tin rằng, người nhà của Công chúa không chỉ được giữ chức câu đương mà chắc còn được ân sủng hơn. Nào ngờ Trần Thủ Độ hạ một câu: “phải chặt một ngón chân để phân biệt…”. Và kết quả là tên kia phải van xin thôi, hồi lâu mới tha cho. Việc làm của Trần Thủ Độ khiến cho từ đó không ai dám đến nhà thăm riêng nữa.
– Thủ Độ cũng chống lại việc đưa anh em, họ hàng vào nắm chức vụ quan trọng trong triều đình, kéo bè kết đảng. Cách so sánh của ông, giữa mình và người anh thật bất ngờ nhưng cũng thật khảng khái, thể hiện sự chí công vô tư, tất cả vì lợi ích của quốc gia, khiến vua cũng phải tâm phục nghe theo.
* Nghệ thuật:
– Lối viết sử của tác giả rât hấp dẫn, gây được yếu tố bất ngờ khiến người đọc hồi hộp chờ đợi. Cả bốn sự kiện trên có kết quả luôn ngược với dự đoán của người đọc. Mở nút mỗi sự kiện chỉ bằng hai câu: một câu kể lại lời nói của Trần Thủ Độ. một câu kể về hành động của ông. Sự kiện người giữ thềm cấm cũng vậy. Người đọc hồi hộp chờ đợi khi Trần Thủ Độ giận, sai đi bắt anh ta. Kết quả là Trần Thủ Độ nói: “Người ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa?”. Không những như vậy, ông còn lấy vàng lụa ban thưởng rồi cho về.
– Lối viết sử như thế là rất kiệm lời, không miêu tả, phân tích tâm lí mà tính cách nhân vật vẫn thể hiện sâu sắc và thái độ khen chê của tác giả cũng bộc lộ rõ ràng. Hơn nữa, người viết hoàn toàn ngợi ca, khâm phục Trần Thủ Độ nhưng không có một câu ca tụng nào. Người ta gọi lối viết sử như vậy là theo bút pháp Xuân Thu.
III. Kết bài:
– Qua bốn sự kiện và bốn cách ứng xử trong cuộc đời Trần Thủ Độ, tác giả Đại Việt sử ký toàn thư đã khắc họa sinh động chân dung một nhân cách chí công vô tư, cao thượng, bao dung, không để tình riêng lấn át, luôn giữ kỷ cương phép nước và khuyến khích cấp dưới làm như mình, đồng thời cũng không kém phần thông minh, hóm hỉnh.
– Đại Việt sử ký toàn thư nói chung, trích đoạn Thái sư Trần Thủ Độ nói riêng quả đã đạt tới vẻ đẹp của lối văn sử. Nó giúp người đọc càng tự hào về con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam và thêm quý trọng những di sản văn hóa do cha ông ta để lại.
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ – Mẫu 1
Khi nhắc đến nhà Trần, chúng ta sẽ không thể nào không nhắc đến Thái sư Trần Thủ Độ. Để nhà Trần được thành lập và được phồn thịnh qua hai đời vua, Trần Thủ Độ có thể được coi là khai quốc công thần, là trụ cột không thể thiếu của nhà Trần. Con người của ông được rất nhiều thế hệ nhà sử học nghiên cứu, khai thác và viết thành nhiều bài sử khác nhau. Trong đó tiêu biểu là Ngô Sĩ Liên với Đại Việt sử ký toàn thư. Qua đoạn trích, Thái sư Trần Thủ Độ, Ngô Sĩ Liên đã thể hiện trọn vẹn toàn bộ con người của Thái sư ở trên các phương diện khác nhau, từ chốn quan trường cho tới các mối quan hệ trong gia đình.
Mở đầu bài sử, bằng giọng văn hết sức trang nghiêm, tôn kính, tác giả thông báo về cái chết của Thái sư Trần Thủ Độ.
“Giáp Tý, năm thứ bảy.
Mùa xuân, tháng giêng.
Thái sư Trần Thủ Độ chết, truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương.”
Có thể nói, cái chết của ông là một sự mất mát, đau đớn quá lớn của không chỉ người nhà mà của cả dân tộc ta thời bấy giờ nữa.
Xuyên suốt bài viết, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã chọn ra bốn tình huống làm cho chúng ta thấy rõ được con người thật của Thái sư. Qua những tình huống đó, dù cho nhiều người không quen, không biết đến ông hay chưa từng gặp mặt ông cũng có thể hiểu rõ Trần Thủ Độ là con người như thế nào.
Ở tình huống đầu tiên, nếu Trần Thủ Độ không biết cách xử lý, thì có thể mâu thuẫn của ông với vua Thái Tông sẽ không thể nào gỡ bỏ được, có thể dẫn đến những hậu quả hết sức khôn lường. Ông là một Thái sư “quyền hơn cả vua” nên người hặc đã sợ ông sẽ cướp mất thiên hạ hoặc cũng có thể lấy tay che trời để làm nhiều việc hại dân hại nước, vì lúc này vua còn quá trẻ để xử lý hết được công việc triều chính. Vua lập tức dẫn theo người hạch tội đến nhà Trần Thủ Độ để hỏi rõ ngọn ngành. Trái với những gì vua và người hặc đó nghĩ, rằng Thái sư sẽ chối tội, sẽ nổi giận, trị tội người hặc. Nhưng thật ngạc nhiên, Trần Thủ Độ đã làm ngược lại. Khi nghe nhà vua nói xong, đầu tiên là ông nhận lỗi ngay “đúng như lời người ấy nói”. Rồi ông tiếp tục làm cho họ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác bằng cách lấy tiền lấy lụa thưởng cho anh ta. Vậy là với tình huống đầu tiên, mâu thuẫn giữa Thái sư và vua đã được giải quyết một cách nhẹ nhàng, dứt khoát. Ông đúng là một con người khác thường, sự khác thường này không phải là dị biệt, mà chính là sự ngay thẳng, thẳng thắn thừa nhận lỗi lầm, không những không ghen ghét, thù hằn kẻ đã vạch tội mình, mà ông còn có cách khích lệ động viên cho người vạch tội và cả những người khác sau này nữa. Cho dù người làm sai có quyền cao chức trọng, có quyền uy hơn cả vua thì cũng không nên vì thế mà xum xoe nịnh nọt. Nhưng ông chỉ làm vậy với những người có ý tốt, không lợi dụng việc này để làm tổn hại đến đất nước.
Tới tình huống thứ hai, lúc này Ngô Sĩ Liên chọn một khía cạnh khác, gần gũi với chúng ta hơn – đó là gia đình. Vợ ông – Linh Từ Quốc Mẫu vốn là hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông, khi nhà Lý mất bà bị giáng chức làm công chúa, rồi lấy Trần Thủ Độ. Trong một lần ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm, người quân hiệu (đây là một chức quan võ nhỏ) lại đứng ra ngăn cản, không cho bà đi qua. Về tới nhà, bà khóc lóc kể tội viên quan đó cho Trần Thủ Độ, nói rằng người ta khinh thường, không tôn trọng bà. Thái sư nghe vợ nói xong thì giận lắm, sai người đi bắt viên quan đó. Người quân hiệu kia chắc mẩm lần này thì mình chết chắc rồi. Thế nhưng không ngờ, mọi việc lại diễn ra hoàn toàn trái ngược lại hết. Vẻ mặt lúc đi của người quân hiệu là sợ sệt, hoang mang thì lúc về lại rạng ngời, hớn hở. Vì người ngày được thưởng vàng lụa và lại được khen là “người ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa?”. Đó là bởi sau khi căn vặn, tra hỏi, nghe viên quan võ đó nói rõ tất cả mọi chuyện. Ông không vì người đó là vợ mình mà thiên vị cho người nhà để xử phạt viên quan đó. Ông vẫn rất công chính liêm minh, tôn trọng kỷ cương phép nước, tôn trọng những người luôn làm đúng phép nước dù cho người đó là quan cao chức lớn hay người đó là những người lính nhỏ bé.
Tiếp theo đó là tình huống phu nhân của ông xin cho một người họ hàng làm chức câu đương, một chức dịch nhỏ trong xã và lo việc bắt giữ và áp giải phạm nhân, đó là chức câu đương. Thủ Độ không hề suy nghĩ gì mà gật đầu đồng ý luôn, còn lấy giấy bút ra để biên lấy họ tên quê quán của người đó. Đọc tới đây, hẳn ta rất bất ngờ, trong đầu không thể không suy nghĩ, không lẽ Thái sư Trần Thủ Độ chỉ làm ra vẻ bề ngoài như thế nhưng thật ra cũng như những vị quan quyền cao chức trọng thối nát trước đây. Thật đúng là “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Và cái kết đầy kịch tính nhưng cũng khiến không ít người phải trầm trồ, thán phục. Ông nói “Ngươi vì có Công chúa xin cho được làm câu đương, không ví như người câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt”. Ông không làm trái ý vợ, không muốn vợ phật lòng, nhưng ông cũng không làm trái với trọng trách, với trách nhiệm mà mình đang gánh vác trên vai. Trần Thủ Độ làm vậy một mặt là để răn đe,làm gương cho những người có ý ỷ lại rằng mình có người thân làm quan thì chắc chắn mình cũng sẽ được thơm lây, có khi còn được làm quan nữa. Mặt khác, ông còn cho mọi người thấy rằng, ông luôn đặt lợi ích của quốc gia, của dân tộc lên trên hết, luôn giữ gìn sự công bằng, minh bạch. Không vì đó là người thân thích mà chấp nhận thói xu nịnh, quà biếu đút lót để được thăng quan tiến chức, để phục vụ cho lợi ích của mình.
Tình huống cuối cùng có thể được coi là tình huống cao trào và hay nhất khi vua Thái Tông đề nghị phong tướng cho anh trai của Trần Thủ Độ là An Quốc. Ông đã không chút suy nghĩ mà nói: “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, còn như cho thần là hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng thì việc trong triều sẽ ra sao?”. Với tài thao lược hơn người, với sự suy tính kỹ càng, ông đã lường trước được việc để cả hai anh em cùng giữ trọng trách lớn trong triều hẳn sẽ hết sức phức tạp và sẽ có không ít lời dị nghị.
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ – Mẫu 2
Trong triều đại nhà Trần đã có rất nhiều cái tên đã đi vào lịch sử, sẽ là một sự thiếu sót nếu ta không nhắc đến Thái sư Trần Thủ Độ. Ông là bậc khai quốc công thần,là trụ cột không thể thiếu của nhà Trần.Đã có rất nhiều các thế hệ nhà sử thi với nhiều bài nghiên cứu, khai thác và viết nhiều bài sử thi khác nhau về ông. Trong đó có lẽ không thể không nhắc đến Ngô Sĩ Liên với Đại việt sử ký toàn thư. Qua đoạn trích, hình ảnh của thái sư Trần Thủ Độ hiện lên chân thực, trên nhiều phương diện khác nhau, từ chốn quan trường đến những mối quan hệ gia đình.
Xuyên suốt bài viết, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã chọn ra bốn tình huống làm cho chúng ta thấy rõ được con người thật của Thái sư. Qua những tình huống đó, dù cho nhiều người không quen, không biết đến ông hay chưa từng gặp mặt ông cũng có thể hiểu rõ Trần Thủ Độ là con người như thế nào.
Ở tình huống đầu tiên, nếu Trần Thủ Độ không biết cách xử lý, thì có thể mâu thuẫn của ông với vua Thái Tông sẽ không thể nào gỡ bỏ được, có thể dẫn đến những hậu quả hết sức khôn lường. Ông là một Thái sư “quyền hơn cả vua” nên người hặc đã sợ ông sẽ cướp mất thiên hạ hoặc cũng có thể lấy tay che trời để làm nhiều việc hại dân hại nước, vì lúc này vua còn quá trẻ để xử lý hết được công việc triều chính. Vua lập tức dẫn theo người hạch tội đến nhà Trần Thủ Độ để hỏi rõ ngọn ngành. Trái với những gì vua và người hặc đó nghĩ, rằng Thái sư sẽ chối tội, sẽ nổi giận, trị tội người hặc. Nhưng thật ngạc nhiên, Trần Thủ Độ đã làm ngược lại. Khi nghe nhà vua nói xong, đầu tiên là ông nhận lỗi ngay “đúng như lời người ấy nói”. Rồi ông tiếp tục làm cho họ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác bằng cách lấy tiền lấy lụa thưởng cho anh ta. Vậy là với tình huống đầu tiên, mâu thuẫn giữa Thái sư và vua đã được giải quyết một cách nhẹ nhàng, dứt khoát. Ông đúng là một con người khác thường, sự khác thường này không phải là dị biệt, mà chính là sự ngay thẳng, thẳng thắn thừa nhận lỗi lầm, không những không ghen ghét, thù hằn kẻ đã vạch tội mình, mà ông còn có cách khích lệ động viên cho người vạch tội và cả những người khác sau này nữa. Cho dù người làm sai có quyền cao chức trọng, có quyền uy hơn cả vua thì cũng không nên vì thế mà xum xoe nịnh nọt. Nhưng ông chỉ làm vậy với những người có ý tốt, không lợi dụng việc này để làm tổn hại đến đất nước.
Tình huống thứ hai không liên quan đến quyền lợi của sơn hà xã tắc mà chỉ là chuyện riêng trong gia đình. Phu nhân của Thái sư Trần Thủ Độ vốn là hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông. Sau khi Lý Huệ Tông bị bức tử, bà bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa và ép gả cho Trần Thủ Độ. Một lần, bà ngồi trên kiệu để vào cung, người lính quân hiệu bắt bà phải xuống kiệu trước thềm cấm. Tình huống này chứa đựng mâu thuẫn giữa phu nhân của Trần Thủ Độ và người lính. Đỉnh điểm của mâu thuẫn là chi tiết phu nhân cho rằng mình bị coi thường nên khóc lóc, kể tội người lính và giận dữ nói với chồng rằng: Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu khinh nhờn như thế.Lúc đầu, Thủ Độ giận, sai đi bắt Người quân hiệu kia chắc mình phải chết. Khi đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt. Anh ta đem sự thực trả lời. Thủ Độ nói: Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa? Điều đó cho thấy ông không thiên vị người thân và rất tôn trọng phép nước, tôn trọng người giữ đúng phép nước, dù đó là kẻ dưới quyền.
Tình huống thứ ba là phu nhân xin ông cho một người trong họ của bà được làm câu đương, tức là một chức dịch nhỏ trong xã chuyên lo việc bắt giữ và áp giải phạm nhân. Chi tiết này tạo ra mâu thuẫn giữa tính cách liêm chính của Trần Thủ Độ với lời đề nghị của phu nhân. Tác giả gây chú ý bằng chi tiết: Thủ Độ gật đầu và biên lấy họ tên quê quán của người đó, khiến người đọc lầm tưởng là sự việc sẽ diễn ra đúng theo ý muốn của phu nhân, để rồi hoàn toàn bất ngờ trước cách xử lý của Thái sư cũng như thú vị trước cách giải quyết cao trào xung đột của tác giả. Trần Thủ Độ yêu cầu hắn muốn làm câu đương thì phải chặt một ngón chân để phân biệt với những câu đương khác, khiến hắn ta sợ hãi, kêu van xin thôi, hồi lâu mới tha cho.
Tình huống cuối cùng có thể được coi là tình huống cao trào và hay nhất khi vua Thái Tông đề nghị phong tướng cho anh trai của Trần Thủ Độ là An Quốc. Ông đã không chút suy nghĩ mà nói: “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, còn như cho thần là hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng thì việc trong triều sẽ ra sao?”. Với tài thao lược hơn người, với sự suy tính kỹ càng, ông đã lường trước được việc để cả hai anh em cùng giữ trọng trách lớn trong triều hẳn sẽ hết sức phức tạp và sẽ có không ít lời dị nghị.
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ – Mẫu 3
Ngô Sĩ Liên là một nhà viết sử tài năng và ông đã cho ra đời bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” được xem là một trong những tác phẩm có giá trị trên cả lĩnh vực văn học và lịch sử. “Thái sư Trần Thủ Độ” là một đoạn trích hay của tác phẩm tên tuổi này.
Thật dễ nhận thấy xuyên suốt bài viết, nhà sử học Ngô Sĩ Liên dường như đã chọn ra bốn tình huống làm cho người đọc chúng ta thấy rõ được con người thật của Thái sư. Và cũng thông qua những tình huống đó, và cho dù cho nhiều người không quen, không biết đến ông hay cũng chưa từng gặp mặt ông cũng có thể hiểu rõ Trần Thủ Độ là con người như thế nào.
Có thể thấy ở trong tình huống đầu tiên, nếu như nhân vật Trần Thủ Độ không biết cách xử lý, thì dường như có thể mâu thuẫn của ông với vua Thái Tông sẽ không thể nào gỡ bỏ được. Chính những điều này có thể dẫn đến những hậu quả hết sức khôn lường. Ông được xem là một Thái sư “quyền hơn cả vua” nên người hặc đã sợ ông sẽ cướp mất thiên hạ hoặc dường như cũng có thể lấy tay che trời để làm nhiều việc hại dân hại nước, vì lúc này vua còn quá trẻ, quá trẻ để có thể mà xử lý hết được công việc triều chính. Vua đã ngay lập tức dẫn theo người hạch tội đến nhà Trần Thủ Độ để hỏi rõ ngọn ngành. Trái ngược với những gì vua và người hặc đó nghĩ, rằng Thái sư sẽ chối tội, sẽ nổi giận, trị tội người hặc. Nhưng thật ngạc nhiên thay, ở Trần Thủ Độ đã làm ngược lại. Và khi mà nghe nhà vua nói xong, đầu tiên là ông nhận lỗi ngay “đúng như lời người ấy nói”. Rồi ông lúc này dường như cũng như đã lại tiếp tục làm cho họ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác bằng cách lấy tiền lấy lụa thưởng cho anh ta.
Cũng chính vì vậy là với tình huống đầu tiên, mâu thuẫn giữa Thái sư và nhà vua dường như cũng đã được giải quyết một cách nhẹ nhàng và trở lên thật dứt khoát. Ông được xem đúng là một con người khác thường, có lẽ chính vì sự khác thường này không phải là dị biệt, mà chính là sự ngay thẳng. Và chính sự thẳng thắn thừa nhận lỗi lầm, không những không ghen ghét, thù hằn kẻ đã vạch tội mình, mà ông còn có cách khích lệ động viên cho người vạch tội và cả những người khác sau này nữa. Có lẽ rằng cho dù người làm sai có quyền cao chức trọng, có quyền uy hơn cả vua thì cũng không nên vì thế mà xum xoe nịnh nọt. Nhưng dường như ở ông chỉ làm vậy với những người có ý tốt, những người dường như lại không lợi dụng việc này để làm tổn hại đến đất nước.
Khi mà tới tình huống thứ hai, lúc này thì ở Ngô Sĩ Liên chọn một khía cạnh khác, gần gũi với chúng ta hơn – đó là gia đình. Vợ của ông – Linh Từ Quốc Mẫu vốn được xem là hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông. Và khi nhà Lý mất bà bị giáng chức làm công chúa, rồi lấy Trần Thủ Độ. Có thể nói trong một lần ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm, và những người quân hiệu (đây là một chức quan võ nhỏ) dường như cũng đã lại đứng ra ngăn cản, không cho bà đi qua. Khi đi về tới nhà, bà khóc lóc kể tội viên quan đó cho chính Trần Thủ Độ, và đã nói rằng người ta khinh thường, không tôn trọng bà. Và khi mà thái sư nghe vợ nói xong thì giận lắm, thái sư đã sai người đi bắt viên quan đó. Có lẽ rằng chính người quân hiệu kia chắc mẩm lần này thì mình chết chắc rồi. Thế nhưng dường như ta lại không ngờ, mọi việc lại diễn ra hoàn toàn trái ngược lại hết.
Với một vẻ mặt lúc đi của người quân hiệu là sợ sệt, hoang mang thì lúc về lại rạng ngời, hớn hở. Và chính vì là những người ngày được thưởng vàng lụa và lại được khen rằng là “người ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa?”. Đó cũng chính là bởi sau khi căn vặn, tra hỏi, nghe viên quan võ đó nói rõ tất cả mọi chuyện. Ông không vì người đó là vợ mình mà thiên vị cho người nhà để xử phạt viên quan đó. Ông dường như vẫn rất công chính liêm minh, ông luôn luôn tôn trọng kỷ cương phép nước, và thêm nữa là ông luôn tôn trọng những người luôn làm đúng phép nước dù cho rằng người đó là quan cao chức lớn hay người đó là những người lính nhỏ bé đi chăng nữa.
Tiếp theo đó không thể không nhắc đến là tình huống phu nhân của ông xin cho một người họ hàng làm chức câu đương, đó chính là một chức dịch nhỏ trong xã và lo việc bắt giữ và áp giải phạm nhân, đó là chức câu đương. Thái sư Thủ Độ không hề suy nghĩ gì mà gật đầu đồng ý luôn,mà dường như lại còn lấy giấy bút ra để biên lấy họ tên quê quán của người đó. Và khi người đọc tới đây, hẳn ta rất bất ngờ, trong đầu không thể không suy nghĩ, và ta không khỏi phân vân không lẽ Thái sư Trần Thủ Độ chỉ được làm ra vẻ bề ngoài như thế nhưng thật ra cũng như những vị quan quyền cao chức trọng thối nát trước đây. Và thông qua đây ta như thấy được thật đúng là “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Và có thể nói rằng chính cái kết đầy kịch tính nhưng dường như cũng đã khiến không ít người phải trầm trồ, thán phục. Ông nói rằng “Ngươi vì có Công chúa xin cho được làm câu đương, không ví như người câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt”.
Ông lúc này như đã không làm trái ý vợ, không muốn vợ phật lòng, nhưng ông cũng không làm trái với trọng trách, với trách nhiệm mà mình đang gánh vác trên vai. Trần Thủ Độ làm vậy có lý do riêng của mình vì một mặt là để răn đe,làm gương cho những người có ý ỷ lại rằng khi mà mình đã có người thân làm quan thì chắc chắn mình cũng sẽ được thơm lây, và may mắn hơn lại có khi còn được làm quan nữa. Mặt khác, ông còn cho mọi người thấy rằng, ông cũng đã luôn luôn đặt lợi ích của quốc gia, của dân tộc lên trên hết, luôn giữ gìn sự công bằng, minh bạch. Và cũng không vì đó là người thân thích mà chấp nhận thói xu nịnh hay tất cả những món quà biếu đút lót để được thăng quan tiến chức, để phục vụ cho lợi ích của mình.
Có thể nhận thấy những tình huống cuối cùng để có thể được coi là tình huống cao trào và hay nhất là khi vua Thái Tông cũng như đã đề nghị phong tướng cho anh trai của Trần Thủ Độ là An Quốc. Ông dường như cũng đã không chút suy nghĩ mà nói: “An Quốc là anh thần,và nếu như là người hiền thì thần xin nghỉ việc, còn như cho thần được xem là hiền hơn An Quốc thì dường như việc này không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng thì việc trong triều sẽ ra sao?”. Và quả thực với tài thao lược hơn người, cũng với sự suy tính kỹ càng, ông dường như cũng đã lường trước được hết những sự việc để cả hai anh em cùng giữ trọng trách lớn trong triều hẳn sẽ hết sức phức tạp và dường như là cũng sẽ có không ít lời dị nghị.
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ – Mẫu 4
Có thể nói Đại Việt sử ký toàn thư là bộ sách chính sử cổ nhất, được viết bằng văn phong Việt Nam, còn tồn tại nguyên vẹn cho đến ngày hôm nay, là di sản vô cùng quý giá của dân tộc nói chung và ngành sử học nói riêng. Mà theo như Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn nhận xét: “Đối với thời kỳ lừng danh như thời Đại Việt, nó là cả một bản anh hùng ca, cái gì có liên quan đến nó, dẫu là một câu, một dòng chữ tự tay nhân vật đã sống hoặc đã chứng kiến những giờ phút huy hoàng viết ra, mà ta được đọc hay được nghe, đều là tiếng nói thân thiết từ ngàn xưa vọng lại, làm rung động tâm hồn của chúng ta biết bao.” Chúng ta có thể lấy ví dụ đoạn trích Thái sư Trần Thủ Độ để minh chứng cho điều ấy.
Tuy chỉ là một đoạn trích ngắn, nhưng bằng ngòi bút tài hoa của sử quan Ngô Sĩ Liên hình ảnh của Thái sư Trần Thủ độ đã được lột tả một cách chân thực, thông qua những mẩu chuyện nhỏ. Tất cả tài năng, đức độ của ngài đều được nhìn nhận một cách khách quan nhất. Trần Thủ Độ là người tuy không có học vấn uyên thâm, nhưng lại có tài lược hơn người, khi còn làm quan dưới triều Lý được rất nhiều người nể phục. Đỉnh cao của sự tài lược ấy đã được lịch sử ghi lại một cách ấn tượng khi ông đã giúp nhà Trần giành được ngôi vua mà không phải đổ một giọt máu nào. Ông cho cháu của mình là Trần Cảnh cưới công chúa Lý Chiêu Hoàng (vị vua cuối cùng của triều Lý), rồi ép nàng nhường ngôi cho chồng, từ ấy nhà Trần thành lập và vững bền tận gần 200 năm. Đây phải nói là cuộc thay đổi triều đại yên bình nhất từ trước tới nay, tất cả cũng nhờ tầm nhìn xa trông rộng và lòng nhân nghĩa, đức độ của Trần Thủ Độ.
Vua Thái Tông, lúc mới lên ngôi chỉ mới 10 tuổi, chưa nắm rõ chính sự chỉ đành nhờ cậy cha là Thái thượng hoàng Trần Thừa và Thái sư Trần Thủ Độ cáng đáng việc nước. Vì quyền thế quá lớn, nên trong triều thường có người e sợ Trần Thủ Độ có ý đồ bất chính, nên đã khóc lóc, tâu với nhà vua. Nhưng thật hay cho đấng anh hùng có khí khái hiên ngang của thời đại, khi vua hỏi thực hư chuyện chuyên quyền nhiếp chính, Trần Thủ Độ đã không ngần ngại thừa nhận, lại còn cho thưởng vàng bạc, châu báu cho kẻ dám nói thật, ấy là đáng khen vô cùng. Bởi vốn dĩ chuyện có thật thì chẳng việc gì phải che đậy, vua còn nhỏ tuổi, nếu không có người đứng ra nguyện gánh vác thì há phải bao công sức mưu đồ nay thành bóng nước? Trần Thủ Độ sống là người ngay thẳng chính trực, có đạo đức, lại là công thần khai quốc bậc nhất, cũng chẳng phải sợ những lời gièm pha, bởi trong thâm tâm ngài luôn mong muốn xây dựng một triều đại thái bình, thịnh trị, nay triều đình còn non yếu, không phải là lúc bận tâm đến việc ai hơn ai, mà việc cần nhất là quân thần đồng lòng, Trần Thủ Độ hy vọng nhà vua sẽ hiểu điều đó.
Lại có chuyện vợ ông là Linh Từ Quốc Mẫu, lúc ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm bị người quân hiệu ngăn lại, bà này về giận dỗi trách hờn bản thân bị khinh nhờn, lúc đầu Trần Thủ Độ nghe xong cũng lấy làm bực dọc, nhưng sau khi tra hỏi rõ ràng, phát hiện người quân hiệu nọ chỉ làm đúng quy định thì thả và còn thưởng cho vàng lụa. Điều ấy chứng tỏ Thái sư là người chí công vô tư, tôn trọng luật pháp, quốc có quốc pháp gia có gia quy, một điều cũng không thể trái, cho dù ông đã là người dưới một người trên vạn người thì nguyên tắc ấy không bao giờ có thể thay đổi, không vì chút tình riêng mà làm ảnh hưởng đến bộ mặt đất nước, triều đình.
Thêm một chuyện nữa liên quan đến vợ ông, bà có ý xin cho người họ hàng làm chức câu đương, quả thực việc này chẳng có gì khó khăn. Nhưng với tấm lòng chí công vô tư, người vô công thì không thụ lộc, không phải hiền tài thì ông không dễ cất nhắc. Ông vừa không muốn làm vợ buông lòng, chuyện nhà lục đục, vừa muốn giữ trọn nguyên tắc, nên đã nghĩ ra một cách rất thông minh, ấy là đòi chặt bỏ 1 ngón chân để phân biệt giữa vị họ hàng xa của vợ và những người khác, người thấy thế tự biết sợ mà rút lui. Thế là chuyện được giải quyết một cách khéo léo, vừa răn đe kẻ khác, vừa khiến vợ không thể oán trách gì, bởi việc ông làm đâu có chỗ nào vô lý. Người nam nhi phải tề gia trị quốc bình thiên hạ là như thế.
Vì có nhiều công lao, đức độ nên Trần Thủ Độ rất được tin dùng, nhà vua ưu ái muốn cho anh trai của ông là An Đức cùng vào triều làm tướng, nhưng Trần Thủ Độ không lấy thế làm vui mừng bởi ông thưa rằng: “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, còn như cho là thần hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng thì việc trong triều sẽ như thế nào?”. Trần Thủ Độ là người kiên định, chí công vô tư, lại có tài mưu lược, nên trong chuyện tuyển chọn hiền tài hẳn là rất khắt khe, việc nhà vua chỉ vì mối quan hệ thân tình mà cho anh trai mình làm tướng, điều ấy là không nên, bởi chỉ người hiền tài mới có thể đứng ra gánh vác trọng trách, huống chi lại còn làm đến chức tướng.
Nếu chuyện thăng quan tiến chức dễ vậy thì còn gì là kỷ cương phép nước, liệu sẽ có thêm bao nhiêu kẻ theo lệ này mà làm càn? Với lại luật Hồi tỵ (luật quy định, những người thân như anh em, cha con, thầy trò, bạn bè cùng học, những người cùng quê… thì không được làm quan cùng một chỗ) vẫn còn đấy, sao có thể để anh em cùng làm quan chung một chỗ, sẽ gây ra hiềm nghi, thân là bậc công thần lại càng không được làm trái, phải là tấm gương sáng cho bề tôi thấy mà nể sợ.
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ – Mẫu 5
Nhà thơ Nguyễn Trãi từng viết:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường,Tống, Nguyên mỗi bên xưng để một phương
Tuy mạnh yếu có khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Quả đúng là Việt Nam ta tuy nhỏ nhưng hào kiệt hiền thì đời nào cũng có, điều đó đã được lịch sử chứng minh. Trong cuộc sống có những người sinh ra chẳng ai biết đến nhưng lại có những người sinh ra khi mất đi rồi lại khắc tên mình theo dòng lịch sử mà ngàn đời sau ai cũng biết. Dù không biết mặt dù không chứng kiến nhưng nhắc đến tên họ thì ai cũng biết. Thái sư Trần Thủ Độ là một người như thế. Phải chăng ông là một người tuyệt vời, phải chăng chính vì thế Ngô Sỹ Liên đã hạ bút để viết về con người tài giỏi này qua Đại việt sử kí toàn thư.
Đại việt sử kí toàn thư hoàn thành năm 1498 dựa trên cơ sở là bộ Đại việt sử kí của Lê Văn Hưu và Sử kí tục biên của Phan Phu Tiên. Bộ sử kí này gồm có hai phần là ngoại kỉ và bản kỉ. Phần ngoại kỉ viết về lịch sử nước ta thời Hồng Bàng đến thế kỉ 10. Phần bản kỉ viết từ thời Đinh Tiên Hoàn đến thời Hậu Lê. Ban đầu thì có 15 quyển sau đó Phạm Công Trứ viết thêm năm quyển là 20 quyển. Bài thái sư Trần Thủ Độ được trích từ quyển năm thuộc phàn bản kỉ. Đoạn trích này khắc tạc lên một bức tượng đài về một con người không chỉ có phẩm chất của một vị tướng giỏi mà còn có đức. Tài năng của ông không ai không công nhận còn tích cách nhân phẩm đạo đức của ông thật sự phải đọc đoạn trích này mới thấy hết được.
Đoạn trích bắt đầu bằng những mốc thời gian lịch sử cụ thể chính xác: “Giáp Tý (1264), năm thư 7 niên hiệu Thiên Long đời vua Trần Thánh Tông, mùa xuân, tháng giêng. Trần Thủ Độ mất, thọ 71 tuổi. Ông được vua truy tặng “ Thượng phụ Thái sư Trung Vũ đại vương” tắc giả mở đầu bằng sự kiện Trần Thủ Độ qua đời và sự truy tặng của nhà vua đối với ông. Hai chữ “thượng phụ” là cha vua, hai chữ “thái sư” có nghĩa là thầy của vua, đó là tước bậc cao nhất của thời phong kiến lúc bấy giờ. Vậy mục đích của tác giả khi mở đầu bằng sự kiện đau buồn đáng tiếc này là gì?. Phải chăng tác giả muốn nhắc đến những công lao mà Trần Thủ Độ đã đạt được trong cuộc đời của mình? Trần Thủ Độ là người có công lớn trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi vai trò lịch sử từ thời nhà Lý sang thời nhà Trần. Không những tế ông là người có tài đầy mưu trí trong triều đình trung thành tận tụy với vua, giúp vua dựng việc lớn chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Tuy ông là người không có học vấn nhưng lại tài lược hơn người.
Tiếp đến tác giả kể về bốn sự việc khi ông còn sống để thể hiện tính cách của vị thái sư này. Qua đó ta càng thêm hiểu thêm những phẩm chất đáng quý của ông. Thứ nhất, là việc có người hặc ông là “ Trần Thủ Độ quyền hơn cả vua”. Dẫu biết rằng con người vẫn cứ dạy nhau rằng ai chê mới là bạn ai khen thì là thù, nhưng đó chỉ là lý thuyết. Ai chúng ta cũng muốn được khen còn chê thì lại không thích, ai cũng muốn mình đẹp cả cho nên không thể chấp nhận những lời không hay về mình. Ở đây tác giả dùng từ “hặc người” có nghĩa là kẻ tội vạch tội mình. Qua hành động của người đó ta tưởng Trần Thủ Độ se lôi ra chém đầu ngay lập túc, cũng như mỗi chúng ta khi bị vạch tội thì coi người ta là kẻ thù thế nhưng Trần Thủ Độ lại chấp nhận lời vạch tội của người đã hặc tội mình. Không những thế ông còn tặng tơ lụa cho người đó. Qua đó ta thấy Trần Thủ Độ là người biết phục thiện, công minh, đọ lượng và có bản lĩnh biết nhận cái sai của mình.
Thứ hai, là việc giữa Trần Thủ Độ và người lính giữ thềm cấm. Đó là việc phu nhân của Trần Thủ Độ không được cho đi qua vùng thềm cấm. Khi vợ khóc lóc bào chúng “khinh nhờn”. Trần Thủ Độ giân lắm bèn sai quân đi bắt tên lính đó vào, cứ tưởng rằng tay lính đó khôn giữ nổi đầu nhưng sự việc lại không xảy ra như thế. Sau khi trả lời câu “ vặn hỏi” cua ông thì tên lính kia không những không bị mất đầu mà còn được thưởng tiền, vàng, lụa. Trần Thủ Độ khen:” Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa”. Như vậy có thể thấy ở Trần Thủ Độ toát lên vẻ chí công vô tư, tôn trọng phép nước và không thiên vị tình thân.
Thứ ba là sự việc vợ của ông nhờ ông xin cho một người làm “câu đương’. Hắn cứ nghĩ vụ này được trăm phần trăm nhưng mà ông trời có mắt và con người kia cũng có mắt. Những kẻ không có tài mà đòi làm này nọ thì thật là dành chỗ của những người có học. Trần Thủ Độ sử lý rất tế nhị đó là ghi tên rồi nhưng với một yêu cầu là phải chặt một ngón chân. Tên kia sợ hãi xin thôi. Câu đương thật ra cũng chỉ là một chức quan nhỏ nhưng cũng không để những kẻ không biết gì nhờ quen biết mà xin xỏ làm được. Việc làm ấy thể hiện sự đề cao công bằng phép nước, bài trừ tệ nạn đút lót, chạy chọt chức quan.
Thứ tư là việc vua định đem anh em Trần Thủ Độ cùng nắm chức quan trọng trong triều đình nhưng ông tán thành. Ông thẳng thán bày tỏ quan điểm của mình về việc đó. theo ông thì chỉ cần những người tài giỏi nhất làm là được chứ nhiều người thì tài chính sẽ rối ren. Theo lẽ thường anh em được nhạn chức thì phải cảm ơn mới phải nhưng ông nhất định từ chối bởi để tránh việc kéo bè kết đảng làm khó cho vua. Điều đó thể hiên Trần Thủ Độ là người không tư lợi, hết mình về việc chung của đất nước, không thiên vị anh em, chung thành và làm mọi điều tốt cho vua.
Để làm nổi bật chân dung nhân cách Trần Thủ Độ, tác giả đã có lối viết sử hấp dẫn, tạo những yếu tố bất ngờ, kịch tính nhưng lại rất kiệm lời. Qua mỗi sự kiện, người đọc đều thấy rõ điều đó. Kết quả các sự kiện luôn ngược với dự đoán của người đọc. Trước người hặc tội mình, ta tưởng Trần Thủ Độ sẽ nổi giận rồi trừng phạt nhưng ngược lại, thật bất ngờ khi ông trả lời: “Đúng như lời người ấy nói” và bất ngờ hơn nữa, thưởng tiền lụa cho người ấy. Tác giả đưa người đọc đi hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, bất ngờ sau lớn hơn bất ngờ trước.
………….
Mời các bạn tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ của Ngô Sĩ Liên (Dàn ý + 5 mẫu) Những bài văn mẫu lớp 10 của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.