Bạn đang xem bài viết ✅ Bài tuyên truyền về ngày 30/4 – 1/5 Bài tuyên truyền ngày Giải phóng Miền Nam & Quốc tế lao động ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Bài tuyên truyền về ngày 30/4 – 1/5 mang tới 3 mẫu đề cương tuyền truyền ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và Quốc tế lao động cho các bạn tham khảo, nhằm tuyên truyền về ngày lễ này.

Bên cạnh đó, còn có thể tham khảo thêm lời dẫn chương trình, bộ câu hỏi trắc nghiệm 30/4 để chuẩn bị thật tốt cho ngày lễ trọng đại này. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Wikihoc.com:

Bài tuyên truyền về ngày 30/4 – 1/5 – Mẫu 1

KỶ NIỆM NGÀY MIỀN NAM HOÀN TOÀN GIẢI PHÓNG (30/4)
VÀ NGÀY QUỐC TẾ LAO ĐỘNG (1/5)

1. MIỀN NAM THÀNH ĐỒNG TỔ QUỐC

Ngay từ đầu tháng 4 năm 1975, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền đã ra chỉ thị cho mặt trận đồng bằng sông Cửu Long chuẩn bị gấp cho tổng công kích và tổng khởi nghĩa phối hợp với mặt trận Sài Gòn – Gia Định. Chỉ thị quy định đồng loạt tiến công và nổi dậy từ ngày 29 tháng 4 theo phương châm đã nêu là tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã bằng lực lượng của địa phương mình.

Chiến dịch bắt đầu từ ngày 4 tháng 1 và kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975, chỉ trong 55 ngày đêm, với quyết tâm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tốc độ “một ngày bằng 20 năm” với sức mạnh áp đảo cả về quân sự và chính trị tích lũy từ nhiều năm, quân và dân ta đã giành toàn thắng bằng ba chiến dịch lớn: Chiến dịch giải phóng toàn bộ Tây Nguyên mở đầu bằng trận đánh Buôn Ma Thuột; Chiến dịch giải phóng Huế – Đà Nẵng, quét sạch địch ở ven biển miền Trung và kết thúc là Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn – Gia Định để dẫn tới giải phóng các tỉnh còn lại của Nam Bộ. Hơn một triệu quân ngụy và tất cả bộ máy ngụy quyền bị đập tan, chế độ thực dân mới được Mỹ dốc sức xây dựng trong hai chục năm sụp đổ hoàn toàn.

Chính những cuộc nổi dậy của nhân dân miền Nam dưới những hình thức khác nhau ở hầu khắp các địa phương trong Mùa Xuân 1975 đã góp phần có ý nghĩa quyết định vào “tốc độ thần tốc” của cả trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, cũng như nhịp độ tiến công vũ bão của các binh đoàn chủ lực. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 giành toàn thắng, đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

2. CẦN THƠ GIẢI PHÓNG.

Tháng 4.1975, quân dân miền Nam chiến thắng giòn giã trên khắp các mặt trận. Trước nguy cơ chính quyền Sài Gòn sắp sụp đổ, Mỹ- Ngụy dự định dời cả bộ máy chiến tranh xuống thành phố Cần Thơ – trung tâm đầu não vùng IV chiến thuật của địch – nơi quân số còn đông đủ, phương tiện chiến tranh còn nhiều, Mỹ Ngụy quyết tâm phòng thủ để hy vọng cứu vãn tình thế đang xấu, có thể bị sụp đổ hoàn toàn một cách nhanh chóng. Cần Thơ được Khu ủy chọn làm trọng điểm của chiến dịch giải phóng hoàn toàn khu Tây Nam Bộ.

Ngày 10.4.1975, Bộ tư lệnh quân khu IX ra lệnh đưa Sư đoàn 4 và các trung đoàn phối thuộc tiến về Cần Thơ, vượt lộ Vòng Cung, áp sát sân bay Trà Nóc. Tiểu đoàn Tây Đô I cùng bộ phận biệt động thành phố cũng tiến vào áp sát thành phố Cần Thơ. Lúc này, các cơ sở cách mạng trong nội thành cũng được tổ chức, chỉ đạo công tác chuẩn bị băng cờ, khẩu hiệu, phương tiện thông tin để phát động quần chúng nổi dậy và phục vụ sau khi khởi nghĩa thành công.

Về phía địch, ngày 18.4.1975, Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống Ngụy Sài Gòn phải tuyên bố từ chức trốn chạy ra nước ngoài, giao quyền tổng thống cho phó tổng thống Trần Văn Hương đã già yếu. Tuần sau, Trần Văn Hương lại giao quyền tổng thống cho đại tướng Dương Văn Minh.

Đúng 17h ngày 26.4.1975, dưới sự lãnh đạo chỉ huy của Đảng uỷ – Bộ tư lệnh quân khu IX, quân ta nổ súng tiến công vào Cần Thơ, phối hợp chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Ngày 27.4.1975, lực lượng vũ trang tỉnh Cần Thơ chia làm 3 cánh quân tiến công áp sát thành phố Cần Thơ.

Ngày 28.4.1975, toà lãnh sự Mỹ ở thành phố Cần Thơ rút chạy. Lúc này, tên Nguyễn Khoa Nam chỉ định tên đại tá Trần Cửu Thiên lên nắm quyền tỉnh trưởng Phong Dinh, kiêm thị trưởng thành phố Cần Thơ. Hắn ra lệnh tử thủ và ban hành lệnh giới nghiêm 24/ 24 giờ trên toàn thành phố Cần Thơ, chúng gấp rút điều lực lượng về giữ tuyến lộ Vòng Cung.

Suốt 02 ngày đêm hành quân thần tốc, 10g sáng ngày 30.4.1975; bộ đội chủ lực đánh tan 2 trung đoàn Ngụy án ngữ lộ Vòng Cung, tiến vào thành phố Cần Thơ.

10h30 ngày 30.4.1975, Dương Văn Minh, tổng thống Ngụy ở Sài Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều kiện lực lượng trong thành phố Cần Thơ bắt đầu nổi dậy.

11h00 ngày 30.4.1975, ta giải thoát trên 4.000 thanh niên bị bắt lính ở Trung tâm nhập ngũ số 4. Với nhịp độ tiến công “ thần tốc, táo bạo”, với sức mạnh tổng hợp quân sự, chính trị, ngoại giao và sự nỗ lực của cả nước, 11h30 ngày 30.4.1975, tại Sài Gòn, ngọn cờ giải phóng được cắm trên dinh luỹ cuối cùng của chế độ Ngụy quyền.

Tại Cần Thơ, tin chiến thắng dồn dập bay về: 12h00 ngày 30.4.1975, Bác sĩ Lê Văn Thuấn, tổng thư ký Hội Hồng Thập Tự ngụy, là cơ sở cách mạng, hướng dẫn lực lượng vũ trang ta chiếm 2 trại giam: Khám lớn và trại giam Cầu Bắc.

14h30 ngày 30.4.1975, đồng chí Nguyễn Văn Lưu cùng với đồng chí Trương Văn Biên và cán bộ tự vệ vũ trang, nhiếp ảnh, cơ sở mật gồm 12 đồng chí từ Tham Tướng tiến thẳng vào chiếm Đài phát thanh Cần Thơ, kho Hậu Cần, trại Cửu Long, Dinh tỉnh trưởng…

15h00 ngày 30.4.1975, bản tuyên bố của chính quyền cách mạng do đồng chí Nguyễn Văn Lưu (Năm Bình) đại diện Uỷ ban khởi nghĩa thành phố Cần Thơ đọc, được phát đi trên làn sóng của Đài phát thanh thành phố Cần Thơ.

18h00 ngày 30.4.1975, Trung đoàn 20 làm chủ sân bay Trà Nóc, trung đoàn 10 chiếm sân bay Lộ Tẻ.

20h30 ngày 30.4.1975, Trung tướng Nguyễn Khoa Nam – tư lệnh quân đoàn 4 và vùng IV chiến thuật cùng thiếu tướng Lê Văn Hưng phó tư lệnh tự sát tại Bộ tư lệnh quân đoàn 4 và vùng IV chiến thuật Ngụy – thành phố Cần Thơ hoàn toàn giải phóng.

9h00 sáng ngày 01.5.1975, ta bao vây và bắt sống tên tỉnh trưởng Hồ Ngọc Cẩn, lực lượng Ngụy quân ở Chương Thiện buông súng đầu hàng. Các huyện thị trong tỉnh cũng lần lượt được giải phóng.

3. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG 30/4:

Đồng chí Phạm Hùng, Chính uỷ, thay mặt Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh đã nói:

– Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng là đỉnh cao cuộc Tổng tiến công và nổi dậy long trời lở đất của quân và dân ta từ đầu tháng 3 đến ngày 30 tháng 4, đã nhanh chóng đập tan hang ổ cuối cùng của địch, giải phóng Sài Gòn trong một thời gian rất ngắn, tiêu diệt, làm tan rã và bắt toàn bộ lực lượng của địch, đánh đổ toàn bộ hệ thống chính quyền tay sai từ trung ương đến địa phương, kết thúc toàn thắng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của toàn miền, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Nếu trước đây, với Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta đã đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ, thì ngày nay, với Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, chúng ta đã kết thúc chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ ở nước Việt Nam ta, thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu.

Kể từ khi có Đảng, qua gần nửa thế kỷ liên tục đấu tranh, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến nay đã hoàn thành trong cả nước. Đại tướng Văn Tiến Dũng. Tư lệnh chiến dịch đã đúc kết: Thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 là một thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, mở ra một kỷ nguyên mới đầy hứa hẹn cho Tổ quốc ta. Thắng lợi này tạo ra đầy đủ những điều kiện cơ bản thuận lợi để nhân dân ta xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.

4. VỀ NGÀY QUỐC TẾ LAO ĐỘNG

Hằng năm, người lao động trên toàn thế giới lại cùng nhau kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5. Tại Việt Nam, đây là một ngày mà mọi người dân ai ai cũng được nghỉ ngơi, vui chơi không phải làm việc. Tuy vậy, không phải ai cũng biết được lịch sử cũng như ý nghĩa trọng đại của ngày Quốc tế Lao động, nhất là các bạn trẻ thế hệ 8X, 9X.

Tại Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản I họp tại Gieneve (Thụy Sĩ) tháng 9/1866, vấn đề đấu tranh cho ngày làm việc 8 giờ được coi là nhiệm vụ quan trọng. Khẩu hiệu ngày làm 8 giờ sớm xuất hiện trong một số nơi của nước Anh, nước có nền công nghiệp phát triển sớm nhất. Yêu sách này dần lan sang các nước khác.

Năm 1884, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago, Đại hội Liên đoàn Lao động Mỹ thông qua nghị quyết nêu rõ: “…Từ ngày 1/5/1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ”. Sở dĩ ngày 1/5 được chọn bởi đây là ngày bắt đầu một năm kế toán tại hầu hết các nhà máy, xí nghiệp ở Mỹ. Vào ngày này, hợp đồng mới giữa thợ và chủ sẽ được ký. Giới chủ tư bản có thể biết trước quyết định của công nhân mà không kiếm cớ chối từ.

Ngày 1/5/1886, do yêu cầu của công nhân không được đáp ứng một cách đầy đủ, giới công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago. Khoảng 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức mittinh, biểu tình trên thành phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!” Cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia. Cũng trong ngày hôm đó, tại các trung tâm công nghiệp khác trên nước Mỹ đã nổ ra 5.000 cuộc bãi công với 340 nghìn công nhân tham gia. Ở Washington, New York, Baltimore, Boston… hơn 125.000 công nhân giành được quyền ngày chỉ làm 8 giờ. Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản II đã quyết định lấy ngày 1/5 hàng năm làm ngày biểu dương lực lượng và đấu tranh chung của tầng lớp vô sản các nước.

Từ đó, ngày 1/5 trở thành Ngày Quốc tế Lao động, ngày đấu tranh của giai cấp công nhân, ngày nghỉ ngơi và biểu dương lực lượng, ngày hội của công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.

Năm 1920, dưới sự phê chuẩn của Lê Nin, Liên Xô (cũ, nay là Liên bang Nga) là nước đầu tiên cho phép người dân được nghỉ làm vào ngày Quốc tế Lao động 1/5. Sáng kiến này dần dần được nhiều nước khác trên thế giới tán thành.

Tham khảo thêm:   Bài thơ Ngày xưa Tác giả Vũ Cao

Tại Việt Nam, sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (1930), giai cấp công nhân Việt Nam đã lấy ngày l/5 hàng năm làm ngày đỉnh cao của phong trào đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc lập – tự do – dân chủ, giành những quyền lợi kinh tế – xã hội.

Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp và Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày Quốc tế Lao động lần đầu tiên được tổ chức công khai tại Hà Nội, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Đặc biệt, ngày 1/5/1938, một cuộc biểu tình lớn gồm hàng chục ngàn người đã diễn ra ở khu Đấu xảo Hà Nội với sự tham gia của 25 ngành, giới: thợ hoả xa, thợ in, nông dân, phụ nữ, người cao tuổi, nhà văn, nhà báo… Đây là cuộc mittinh lớn nhất trong thời kỳ vận động dân chủ (1936 – 1939), một cuộc biểu dương sức mạnh đoàn kết của nhân dân lao động do Đảng lãnh đạo. Nó đánh dấu một bước trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật tổ chức và lãnh đạo của Đảng ta.

Ngày nay, ngày Quốc tế Lao động đã trở thành ngày hội lớn của hai giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đây cũng là ngày biểu thị tình đoàn kết hữu nghị với giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, cùng đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Bài tuyên truyền về ngày 30/4 – 1/5 – Mẫu 2

Kính thưa các đồng chí cán bộ và toàn thể nhân dân trong xã.

Cách đây ….năm, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từ đây tập trung sức lực và trí tuệ hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng cuộc sống mới; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chiến thắng 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng, chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc. Quân và dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, chúng ta mãi tự hào và biết ơn sự hy sinh to lớn của các anh hùng, các thế hệ cha ông đã chiến đấu hy sinh anh dũng vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Chúng ta càng tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, vào tinh thần quật cường bất khuất và trí thông minh, sáng tạo của dân tộc ta, của quân đội ta. Mỗi người dân Việt Nam nguyện tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm vươn lên hoàn thành tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh – quốc phòng theo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đề ra.

Hòa chung không khí vui tươi phấn khởi chào mừng 45 năm Ngày Giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, trong những ngày này cả nước cũng đang hân hoan chào mừng ….năm Ngày Quốc tế Lao động 01/5 là dịp để giai cấp công nhân và nhân dân lao động cả nước ôn lại truyền thống đấu tranh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc đồng thời tiếp tục phát huy vai trò của mình và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo tinh thần Nghị quyết Ðại hội XII của Ðảng xác định: Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nhà ở, các công trình phúc lợi phục vụ công nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp…nhằm bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.

Chào mừng ….năm Ngày Giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, ….năm Ngày Quốc tế Lao động 1/5 và ….năm Ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ. Là dịp thiết thực cổ vũ, động viên toàn đảng, toàn quân và toàn dân ra sức thi đua thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm …., chào mừng lễ công bố quyết định xã đạt chuẩn nông thôn mới và Đại hội Đảng bộ xã Khuyến Nông lần thứ ………

Bài tuyên truyền về ngày 30/4 – 1/5 – Mẫu 3

“Đại thắng Mùa xuân năm 1975 đã và sẽ mãi mãi là trang sử vàng chói lọi, nguồn cổ vũ to lớn cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Việt Nam ta tiến tới thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước”.

Hôm nay trong không khí tưng bừng của cả nước hướng về ngày kỷ niệm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thầy và trò Trường ………….. cùng nhau xin ôn lại những chiến công vang dội của quân và dân ta trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại. đây cũng là dịp để thầy trò chúng ta tôn vinh, ghi nhớ công lao của những thế hệ đi trước, thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa”, đó cũng là đạo lý sống của dân tộc ta bao đời nay.

Đúng 17 giờ ngày 26/4/1975, chiến dịch mang tên Bác Hồ vĩ đại giải phóng Sài Gòn – Gia Định bắt đầu. Các quân đoàn chủ lực tinh nhuệ của ta cùng lúc tiến công với tinh thần ” Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” đồng thời với sự nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng ở nội, ngoại thành Sài Gòn – Gia Định, quân và dân ta đã nhanh chóng khống chế toàn bộ lực lượng của địch từ Trung ương đến cơ sở. Ngày 30/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng, miền Nam và cả nước ngập tràn sắc đỏ cờ, hoa mừng ngày hội lớn – ngày hội đại thắng của toàn dân tộc Việt nam.

Ngày 30/4/1975, đại thắng mùa xuân đã làm thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh cứu nước lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV tháng 12/1976 đánh giá: “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Hay đánh giá của đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Trong quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, ba cái mốc chói lọi bằng vàng: Tổng khởi nghĩa tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến thắng mùa xuân 1975, đại thắng mãi mãi sáng ngời trong sử sách. Nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kì tưởng chừng không thể làm được giữa thế kỷ XX. Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển, đánh thắng những cường quốc, đế quốc chủ nghĩa chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu một tấm gương anh dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trước toàn thế giới”.

Đại thắng mùa xuân năm 1975, như nhận định của Đảng ta là một sự kiện quan trọng có tầm quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc, làm nức lòng bạn bè và nhân dân tiến bộ khắp năm châu bốn biển. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội lần thứ IV cũng chỉ rõ: “Đối với thế giới, thắng lợi của nhân dân ta đã đập tan cuộc phản công lớn nhất của tên đế quốc đầu sỏ chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đẩy lùi trận địa của chủ nghĩa đế quốc, mở rộng trận địa của CNXH, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy, làm yếu hệ thống đế quốc chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của các trào lưu cách mạng thời đại, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi cho hàng trăm triệu người trên khắp trái đất đang đấu tranh vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và CNHX”.

Chiến thắng 30/4/1975 là trang sử hào hùng, một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Đại thắng xuân 1975 mở ra thời kỳ mới đất nước thống nhất cả nước đi lên xây dựng CNXH cho đến ngày nay.

Trong lễ kỷ niệm này, chúng ta tưởng nhớ tới Chủ tịch Hồ Chí Minh vị cha già của Dân tộc Việt Nam, người đã đưa Cách mạng và các cuộc kháng chiến nước ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác; tưởng nhớ, biết ơn tới các anh hùng liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các thương binh, bệnh binh cùng nhân dân cả nước đã đóng góp cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước giành độc lập tự do, hòa bình hạnh phúc cho thế hệ hôm nay. Nhìn về quá khứ đau thương và hào hùng của dân tộc, chúng ta- thế hệ trẻ hôm nay càng biết ơn, trân trọng vô cùng cuộc sống thanh bình, yên ấm – cuộc sống không có chiến tranh. Bác Hồ đã từng nói “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” . Thời đại của chúng ta hiện nay là thời đại CNH- HĐH, thời đại của những tầm cao tri thức, cha ông ta khẳng định với thế giới bằng tinh thần thép khi đánh giặc thì nay chúng ta phải vươn ra thế giới bằng sự cần cù, ham học hỏi, bằng đỉnh cao trí tuệ. Có như thế mới xứng đáng là con Rồng, cháu Tiên.

Bài tuyên truyền kỷ niệm ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 30/4 – Mẫu 4

I. CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ, CHIẾN CÔNG OANH LIỆT CỦA SỰ NGHIỆP CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

1. Bối cảnh quốc tế và trong nước

Trên thế giới, sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ nổi lên cầm đầu phe đế quốc, có tiềm lực rất mạnh, hiếu chiến và âm mưu bá chủ thế giới. Mỹ từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương và sau thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay gắt bằng cuộc chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao. Việt Nam trở thành tiêu điểm hội tụ những mâu thuẫn của thời đại. Trong nước, sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Nhiệm vụ tranh đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc

Tham khảo thêm:   Nói và nghe: Trải nghiệm đáng nhớ - Tiếng Việt 4 Kết nối tri thức Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức tập 1 Bài 10

2. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã trải qua gần 21 năm, là cuộc chiến tranh cứu nước dài ngày nhất, ác liệt nhất và phức tạp nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Có thể phân kỳ cuộc kháng chiến thành năm giai đoạn chiến lược, mỗi giai đoạn có những chuyển biến về tương quan lực lượng, cục diện chiến tranh để đến giai đoạn cuối tạo bước nhảy vọt lớn đi đến giành thắng lợi hoàn toàn

a) Giai đoạn thứ nhất từ tháng 7 năm 1954 đến hết năm 1960: Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ

Tháng 5 năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Tháng 7 năm 1954, tại Hội nghị ký kết Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được diễn ra, nhưng Mỹ là một trong những nước dự hội nghị đã không ký tuyên bố cuối cùng của hội nghị “Thừa nhận về nguyên tắc độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”. Mỹ nhanh chóng xúc tiến kế hoạch xâm nhập miền Nam nước ta để thay thế thực dân Pháp, thực chất là xâm chiếm miền Nam bằng chính sách thực dân mới. Mỹ dựng lên chính phủ bù nhìn Ngô Đình Diệm ở miền Nam với âm mưu tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công miền Bắc và các nước xã hội chủ nghĩa.

Ngay từ trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá đúng bản chất, âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 7 năm 1954) chỉ rõ “Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới và hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương”. Đảng ta luôn nhất quán tinh thần chỉ đạo tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Bắc nhanh chóng tổ chức cuộc sống mới, trong ba năm (1958 – 1960), ta đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị về quân sự cho cách mạng cả nước giai đoạn mới. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng.

Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (tháng 01 năm 1959) đã xác định con đường tiến lên của cách mạng miền Nam và chỉ rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam – Bắc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Nghị quyết số 15-NQ/TW của Trung ương đã phản ánh đúng nhu cầu lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam trong tình thế thực sự chín muồi, định hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng lên trong phong trào Đồng khởi (1959 – 1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, đáp ứng nguyện vọng tha thiết lúc này của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam cũng như cả nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang cách mạng đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền ở nhiều vùng nông thôn. Lực lượng vũ trang và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp của ta từng bước hình thành, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thành lập. Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam đã được khởi động một cách độc đáo, khéo léo, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới.

b) Giai đoạn hai từ năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ

Từ cuối năm 1960, Mỹ áp dụng hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm nhưng đã liên tiếp bị thất bại. Để đối phó với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng miền Nam, chiếm lại những địa bàn, vùng dân cư đã mất sau cuộc Đồng khởi của ta, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Đây là chiến lược đầu tiên trong ba loại chiến tranh nằm trong chiến lược quân sự toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ.

Để đối phó với chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, Đảng ta chủ trương chuyển cách mạng giải phóng miền Nam lên giai đoạn mới. Từ đây, cuộc khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành cuộc chiến tranh cách mạng quy mô toàn miền. Trong những năm 1961 – 1964, nhân dân miền Nam vừa đấu tranh, vừa chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng với sự chi viện đắc lực từ miền Bắc. Nhiều trung đoàn chủ lực miền Nam được thành lập. Tích cực mở rộng căn cứ cách mạng, phát triển chiến tranh du kích, tăng cường đánh phá các căn cứ quân sự xung yếu của địch như sân bay, kho tàng, bến cảng, phá hệ thống ấp chiến lược do địch lập ra, liên tiếp giành thắng lợi trên các chiến trường. Điển hình là trận Ấp Bắc (tháng 01 năm 1963), chiến dịch Bình Giã (tháng 12 năm 1964 – tháng 01 năm 1965), Ba Gia (tháng 5 năm 1965 – tháng 7 năm 1965), Đồng Xoài (tháng 5 năm 1965 – tháng 7 năm 1965).

Sau khi dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Ngày 5 tháng 8 năm 1964, chúng dùng 64 lần máy bay mở cuộc tiến công “Mũi tên xuyên” đánh ồ ạt ở các khu vực sông Gianh (Quảng Bình), Cửa Hội (Vinh), Lạch Trường (Thanh Hóa), Bãi Cháy (Quảng Ninh). Các đơn vị hải quân, phòng không, dân quân tự vệ đã nâng cao cảnh giác, hiệp đồng chặt chẽ, mưu trí dũng cảm, chiến đấu ngoan cường, bắn rơi 8 máy bay. Ngày 05 tháng 8 trở thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam. Chiến thắng ngày 5 tháng 8 năm 1964 cổ vũ mạnh mẽ khí thế chiến đấu, củng cố niềm tin và khẳng định ý chí quyết tâm đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đế quốc Mỹ của nhân dân ta. Trên miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng đều có bước phát triển mới; quân và dân miền Bắc vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.

c) Giai đoạn ba từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân chống Mỹ, cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc

Thực chất của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” là sử dụng quân Mỹ làm lực lượng cơ động, chủ yếu để tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta; quân ngụy làm lực lượng chiếm đóng, bình định, kìm kẹp nhân dân hòng đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 – 30 tháng (từ giữa năm 1965 đến năm 1967). Chúng đưa vào miền Nam hơn nửa triệu quân Mỹ và quân đội một số nước chư hầu. Đồng thời sử dụng không quân và hải quân mở chiến dịch “Sấm rền”, đánh phá ác liệt với mưu đồ “đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá”, hòng ngăn chặn chi viện từ miền Bắc và quốc tế vào miền Nam.

Trước tình hình leo thang chiến tranh của địch và những khó khăn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3 năm 1965) và lần thứ 12 (tháng 12 năm 1965) trên cơ sở phân tích một cách khoa học so sánh lực lượng giữa ta và địch, Trung ương khẳng định sự thất bại không tránh khỏi của đế quốc Mỹ và hạ quyết tâm động viên lực lượng cả nước giữ vững chiến lược tấn công, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi lịch sử, kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước.

Trước tình hình đó, các lực lượng vũ trang cách mạng đã tăng cường xây dựng lực lượng ba thứ quân, đẩy mạnh tác chiến của bộ đội chủ lực kết hợp với hoạt động tác chiến rộng khắp của bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Chiến thắng Núi Thành của bộ đội địa phương tỉnh Quảng Nam (tháng 5 năm 1965), chiến thắng Vạn Tường (tháng 8 năm 1965), thắng lợi của các chiến dịch Plây – me (tháng 11 năm 1965) và tiếp đó là các chiến công vang dội đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 – 1966, 1966 – 1967) của Mỹ ở miền Nam, đẩy Mỹ vào thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược.

Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 nhằm giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 01 năm 1968 (tức đêm Mùng 1, rạng sáng Mùng 2 Tết Mậu Thân) các lực lượng vũ trang và nhân dân miền Nam đã tiến công và nổi dậy trên toàn miền, đồng loạt tiến công địch ở 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, đánh vào hầu hết cơ quan đầu não Trung ương, địa phương của Mỹ lẫn ngụy. Quần chúng nhiều vùng nông thôn đã nổi dậy mạnh mẽ, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, phá vỡ hàng loạt “Ấp chiến lược”, bức rút nhiều hệ thống đồn bót, giải phóng và giành quyền làm chủ, xây dựng chính quyền cách mạng, mở rộng và củng cố hậu phương ta. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 của ta như “Một đòn sét đánh” đối với bọn trùm xâm lược Mỹ, làm choáng váng cả nước Mỹ và chấn động dư luận thế giới.

d) Giai đoạn thứ tư từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào, Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán

Thực chất của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” là “Đổi màu da trên xác chết”, “Dùng người Việt giết người Việt”, “Dùng người Đông Dương giết người Đông Dương” bằng tiền của và vũ khí của Mỹ, do người Mỹ chỉ huy. Chính quyền Ních-xơn vừa từng bước rút quân Mỹ, vừa ra sức củng cố và tăng cường ngụy quân, ngụy quyền, vừa phản công và tiến công quyết liệt để chống phá ta. Chúng tập trung hầu hết lực lượng của Mỹ – ngụy để bình định nông thôn, sử dụng phương tiện chiến tranh hiện đại, kể cả vũ khí hóa học, chiến tranh điện tử và không quân chiến lược để tiến hành chiến tranh hủy diệt, chiến tranh giành dân, đánh phá các căn cứ địa cách mạng và hậu phương của ta.

Tham khảo thêm:   Văn mẫu lớp 12: Tóm tắt văn bản Con gà thờ (3 mẫu) Văn mẫu lớp 12

Trước tình hình đó, Đảng ta nhận định: Đông Dương đã trở thành một chiến trường thống nhất, kẻ thù chung của cả ba nước Đông Dương lúc này là đế quốc Mỹ xâm lược. Miền Nam Việt Nam là chiến trường chính, Campuchia là chiến trường yếu nhất của địch, Lào ngày càng có vị trí hiểm yếu, miền Bắc Việt Nam là hậu phương chung của cả ba nước Đông Dương. Quân và dân ta phối hợp với Lào và Campuchia, đánh địch trên khắp chiến trường ba nước Đông Dương, đập tan cuộc hành quân “Lam Sơn 719” ở Đường 9 – Nam Lào, đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 01 năm 1971” ở Campuchia, đánh tơi tả lực lượng của địch ở ngã ba biên giới, tiêu diệt địch trong cuộc hành quân “Chen La II” ở Đông Bắc Campuchia, đập tan quá trình tiến công – phản kích bằng các cuộc hành quân lớn của Mỹ, ngụy trên chiến trường ba nước Đông Dương.

Ngày 06 tháng 4 năm 1972, Mỹ huy động không quân và hải quân ồ ạt đánh phá miền Bắc lần thứ hai (đây còn gọi là “Chiến dịch Lainơ Bếchcơ”), thả mìn phong tỏa các hải cảng và bờ biển miền Bắc Việt Nam. Với tinh thần dũng cảm và cách đánh mưu trí linh hoạt, qua bảy tháng chiến đấu quyết liệt, quân và dân miền Bắc, nòng cốt là Quân chủng Phòng không, không quân; Quân chủng Hải quân; Binh chủng Pháo binh, đã bắn rơi hơn 600 máy bay, trong đó có chiếc thứ 4.000 bị bắn rơi trên miền Bắc, bắn chìm và bắn cháy gần 100 tàu chiến Mỹ.

Ngày 22 tháng 10 năm 1972, “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” đã hoàn thành, nhưng ngay ngày hôm sau, Mỹ lại tìm cách tráo trở. Khi nối lại các cuộc họp, phía Mỹ đòi sửa lại nhiều điểm quan trọng thuộc nội dung Hiệp định, đồng thời chúng liều lĩnh tiến hành một nấc thang chiến tranh mới cực kỳ tàn bạo. Từ ngày 18 đến ngày 29 tháng 12 năm 1972, Ních-xơn ra lệnh mở cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô lớn nhất mang tên “Chiến dịch Lainơ Bếchcơ II” vào miền Bắc. Một lần nữa, quân và dân miền Bắc đã anh dũng, mưu trí, chiến đấu kiên cường, trừng trị thích đáng không quân Mỹ.

e) Giai đoạn thứ năm từ cuối năm 1973 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975: tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước

Sau khi ký Hiệp định Pari, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Mỹ tăng cường tiền, của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho quân ngụy, lấn đất giành dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5 năm 1973, xu thế chống phá Hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xóa bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.

Tháng 7 năm 1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam – Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đã giành được thắng lợi. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7 năm 1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 – 1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Đầu năm 1975, trên cơ sở đánh giá, so sánh lực lượng giữa ta và địch, nắm bắt thời cơ lịch sử, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược, giải phóng miền Nam, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975. Ngày 04 tháng 3 năm 1975 bộ đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên. Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11 tháng 3 năm 1975, quân ta tiến công bằng sức mạnh binh chủng hợp thành, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là trận đánh then chốt của chiến dịch, một trận điểm đúng huyệt, tiêu diệt nhiều lực lượng tinh nhuệ và khí tài chiến tranh của địch, làm rối loạn sự chỉ đạo chiến lược và đảo lộn thế phòng thủ ở chiến trường Tây Nguyên, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975.

Trên cơ sở những thắng lợi có ý nghĩa quyết định, ngày 14 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn – Gia Định và hoàn toàn miền Nam. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, các đơn vị chủ lực của quân đội ta đã thực hiện cuộc hành quân thần tốc, tiến về giải phóng Sài Gòn:

Hướng Tây Bắc có Quân đoàn 3 tăng cường phối hợp với lực lượng vũ trang Tây Ninh, Sài Gòn – Gia Định;

Hướng Bắc và Đông Bắc có Quân đoàn 1 tăng cường lực lượng đặc công, xe tăng, cao xạ;

Hướng Đông và Đông Nam có Quân đoàn 4 và Quân đoàn 2 tăng cường pháo binh, xe tăng, cao xạ, đặc công, biệt động;

Hướng Tây và Tây Nam có Đoàn 232 chủ lực miền Nam và chủ lực Quân khu 8, lực lượng tương đương một quân đoàn;

Vùng ven và nội thành Sài Gòn có các đơn vị đặc công, pháo binh kết hợp với lực lượng chính trị của quần chúng.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, các binh đoàn đột kích thọc sâu kết hợp với lực lượng bên trong nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch ở nội thành như: Sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, căn cứ Hải quân, Cảng Bạch Đằng, Đài Phát thanh, Tổng nha cảnh sát Trung ương. Binh đoàn hỗn hợp chủ lực của Quân đoàn 2 ta chiếm “Dinh Độc Lập” lúc 10 giờ 45 phút, bắt toàn bộ ngụy quyền Trung ương, buộc chúng tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cờ giải phóng đã tung bay trước tòa nhà chính “Dinh Độc Lập” lúc 11 giờ 30 phút, ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng; cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 thắng lợi hoàn toàn.

II. Ý NGHĨA, NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

1. Ý nghĩa thắng lợi

1.1. Đối với nhân dân ta

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:

– Đánh dấu bước ngoặt rất cơ bản, quyết định của con đường cách mạng mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra từ Chính cương vắn tắt 1930 – Con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tự do, ấm no, hạnh phúc.

– Kế tục Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954), là trận đánh quyết định nhất của cuộc chiến đấu 30 năm (1945 – 1975) gian khổ, ác liệt, giành lại và giữ vững nền độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc. Từ đây cả dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi nghèo nàn, lạc hậu, tạo lập cuộc sống ấm no, hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh.

– Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta, dân tộc ta và mỗi người Việt Nam được rèn luyện cả về phẩm chất và tài năng, càng nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn vị trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới.

– Nâng vị thế chính trị của Việt Nam trên thế giới lên một tầm cao mới và là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam trong thế kỷ XX và mai sau.

1.2. Đối với thế giới

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta:

– Là một thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.

– Đập tan cuộc phản công lớn nhất, kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai của chủ nghĩa đế quốc; là trào lưu cách mạng của thời đại, mà mũi nhọn là phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.

– Làm sáng tỏ tính hiện thực, tính phổ biến của xu thế phát triển của loài người tiến bộ, góp phần động viên cổ vũ các dân tộc dũng cảm, kiên cường, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và trực tiếp góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước láng giềng Lào và Campuchia anh em.

– Là biểu tượng mới về sức mạnh của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm tiêu tan huyền thoại về sức mạnh của đế quốc Mỹ.

– Nêu bật một chân lý: Trong thời đại ngày nay, một dân tộc mà nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song dân tộc ta đã đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mácxít-Lêninít, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược.

2. Nguyên nhân thắng lợi

– Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

– Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền sống của con người.

– Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

– Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.

– Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Camphuchia.

3. Những bài học kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

– Kiên định, quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

– Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ.

– Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo.

– Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc.

– Xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc, phát huy vai trò của hậu phương lớn và hậu phương vững chắc.

– Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia để cùng nhau đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

– Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại gắn với sức mạnh dân tộc.

– Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Bài tuyên truyền về ngày 30/4 – 1/5 Bài tuyên truyền ngày Giải phóng Miền Nam & Quốc tế lao động của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *