Bạn đang xem bài viết ✅ Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn 3 bài thơ Bình ngô Đại Cáo (Dàn ý + 7 Mẫu) Bình ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

TOP 7 bài Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi mà Wikihoc.com giới thiệu dưới đây sẽ là tư liệu cực kì hữu ích với các bạn học sinh lớp 10. Với 7 mẫu phân tích Bình ngô Đại cáo đoạn 3 giúp các bạn nắm được các luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch. Từ đó biết cách trình bày, sắp xếp các lí lẽ để làm nổi bật vấn đề cần phân tích.

Khổ 3 Bình ngô Đại cáo đã diễn tả chân thực quá trình khởi nghĩa, đánh đuổi quân xâm lược. Những hình ảnh bộc lộ sinh động sĩ khí của nghĩa quân khiến tác phẩm xứng đáng với cái tên là một thiên anh hùng ca của dân tộc, đất nước. Bên cạnh đó các bạn xem thêm bài văn mẫu: phân tích Bình ngô Đại cáo, phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo.

Dàn ý phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo

Dàn ý số 1

1. Mở bài

  • Giới thiệu ngắn gọn tác phẩm Bình Ngô đại cáo
  • Giới thiệu khái quát nội dung cần nghị luận: Khổ 3 của tác phẩm

2. Thân bài

* Khẳng định nhân tố quan trọng hàng đầu trong cuộc khởi nghĩa đó là chủ soái Lê Lợi:

  • Là người anh hùng yêu nước thương dân, có lòng tự tôn dân tộc, sự căm ghét giặc ngoại xâm sâu sắc “Ngẫm thù lớn… không cùng sống”
  • Lòng kiên trì, bền bỉ “Nếm mật nằm gai… mười mấy năm trời” để xây dựng lực lượng
  • Khả năng thu phục quân hùng, biết coi trọng nhân tài “Cỗ xe cầu hiền… phía tả”
  • Lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm dẫu còn nhiều gian khó “Tấm lòng… phía Đông”

* “Tường thuật” lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

– Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa:

  • Sự chênh lệch về mọi mặt so với quân giặc
  • Thiếu người hiền tài ra giúp nước “Tuấn kiệt như sao buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu”, thiếu binh sĩ tham gia khởi nghĩa giết giặc
  • Lương thực cạn kiệt, quân đội thưa thớt, giặc vẫn hoành hành ngang dọc ngày đêm

=> Khó khăn chồng chất khó khăn nhưng sĩ khí quân ta áp đảo kẻ thù, đồng lòng, đoàn kết, lạc quan.

– Giai đoạn quân ta phản công:

  • Trận thắng đầu tiên mở ra trường kì thắng lợi thật vang dội: “Trận Bồ Đằng… chẻ tro bay”
  • Các trận thắng tiếp theo ở Đông Đô, Tây Kinh: “Ninh Kiều máu chảy thành sông… nhơ để ngàn năm”

=> Hình ảnh có phần ghê rợn nhưng diễn tả chân thực hình ảnh những trận đánh lịch sử

– Hình ảnh quân ta hùng dũng, càng đánh lại càng hăng, đánh cho giặc tan tác, tuy thắng nhưng không đuổi cùng giết tận mà đã cho giặc một con đường lui, cấp thuyền, cấp ngựa cho chúng về nước => Tinh thần nhân nghĩa và kế sách hòa hoãn sáng suốt, tránh mối hiểm họa sau này của cha ông.

– Hình ảnh của giặc:

  • Hèn nhát “nghe hơi mà mất vía”, ham sống sợ chết “nín thở cầu thoát thân”, “bó tay để đợi bại vong… lực kiệt”… khác xa với hình ảnh ngang ngược hung hăng trước đó
  • Kẻ chịu”bêu đầu”, kẻ “đành bỏ mạng”, tên Vương Thông muốn gỡ thế nguy khốn nhưng “lửa cháy lại càng cháy”
  • “Liễu Thăng cụt đầu; Lương Minh bại trận tử vong; Lí Khánh cùng kế tự vẫn”…
  • Quân giặc đầu hàng, giẫm đạp lên nhau xin bỏ trốn…

* Nghệ thuật được sử dụng trong khổ thơ này:

  • Nghệ thuật cường điệu, phóng đại
  • Bút pháp tương phản, đối lập.

3. Kết bài

  • Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo.
  • Nêu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân sau khi học xong đoạn trích.

Dàn ý số 2

1. Mở bài:

  • Giới thiệu về tác giả tác phẩm Bình Ngô đại cáo
  • Dẫn dắt người đọc vào việc phân tích đoạn 3 của Bình Ngô đại cáo

2. Thân bài:

*Khẳng định quyết định thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa đó là người lãnh đạo: Lê Lợi:

– Là người anh hùng có lòng tự tôn dân tộc, yêu nước thương dân, sự căm ghét giặc ngoại xâm “Ngẫm thù lớn… không cùng sống”

– Lòng kiên trì “Nếm mật nằm gai… mười mấy năm trời” xây dựng lực lượng

– Khả năng thu phục, biết coi trọng nhân tài

– Sự quyết tâm đánh ngoại xâm dẫu gian khó “Tấm lòng… phía Đông”

“Tường thuật” diễn biến của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

*Giai đoạn đầu khởi nghĩa:

– Sự chênh lệch tất cả các mặt so với quân giặc

– Thiếu người tài ra giúp nước, thiếu binh sĩ tham gia giết giặc

– Lương thực cạn kiệt, giặc vẫn hoành hành ngày đêm, quân đội thưa thớt

=> Khó khăn chồng chất nhưng sĩ khí áp đảo kẻ thù, với sự đoàn kết, lạc quan.

*Giai đoạn phản công:

– Trận thắng đầu tiên thật vang dội: “Trận Bồ Đằng… chẻ tro bay”

– Các trận thắng tiếp theo: “Ninh Kiều máu chảy thành sông… nhơ để ngàn năm”

=> Hình ảnh diễn tả chân thực những trận đánh lịch sử

Quân ta hùng dũng, đánh cho giặc tan tác, nhưng không đuổi cùng giết tận mà cho giặc con đường lui, cho chúng về nước => Tinh thần nhân nghĩa và hòa hoãn sáng suốt, tránh mối họa sau này.

*Hình ảnh của giặc:

– Hèn nhát, ham sống sợ chết khác xa với hình ảnh ngang ngược trước đó

– Kẻ chịu”bêu đầu”, kẻ thì “đành bỏ mạng”, “lửa cháy lại càng cháy”

– Quân giặc đầu hàng, xin bỏ trốn…

*Nghệ thuật trong khổ thơ này:

– Nghệ thuật phóng đại

– Bút pháp tương phản

3 Kết bài:

– Khẳng định lại giá trị khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo.

Xem thêm: Phân tích đoạn 2 bài thơ Bình Ngô đại cáo 

Phân tích Đại cáo Bình ngô đoạn 3 – Mẫu 1

Nguyễn Trãi, một vị anh hùng dân tộc lẫy lừng của đất nước Việt Nam với nhiều công lao, sự cống hiến hết mình để bảo vệ Tổ quốc. Tình yêu nước giống như ngọn lửa luôn rực cháy và thổi bùng trong ông, lớn lên trong thời kì nước mất nhà tan do đó mà đã tôi luyện và hình thành nên Nguyễn Trãi với một lòng nồng nàn yêu nước. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn nổi tiếng bởi tài năng trong lĩnh vực văn học với những tác phẩm nổi tiếng.

Hầu hết, các tác phẩm của ông đều nói về tình yêu nước sâu sắc, lí tưởng cao cả. Điều đó được thể hiện đậm nét qua bài Bình Ngô đại cáo, mà điển hình ở đây là đoạn 3 của tác phẩm. Bình Ngô đại cáo Đoạn 3 giúp chúng ta hiểu hơn cuộc chiến chống quân xâm lược trường kỳ của lịch sử ông cha ta.

Nguyễn Trãi đã cho chúng ta thấy điều đó khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong buổi đầu sơ khai. Và hình ảnh đầu tiên xuất hiện là chủ tướng Lê Lợi:

Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.

Cách tự xưng gần gũi ta, xuất thân nơi núi, chốn hoang dã cũng bước ra từ nhân dân nhưng vì mến nghĩa mà đứng lên. Vị lãnh tụ mang theo trong mình tấm lòng căm thù giặc sâu sắc, há đội trời chung, thề không cùng sống với bao nhiêu trăn trở, ưu tư đau lòng nhức óc, quên ăn vì giận, những trằn trọc, nỗi băn khoăn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vượt qua những ngày tháng nếm mật nằm gai, thấu hiểu lẽ hưng phế ở đời, người anh hùng ấy đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. So với địch, tướng sĩ Lam Sơn khi bắt đầu hoàn toàn yếu thế. Đúng lúc khởi nghĩa là lúc quân thù đương mạnh, nhân tài, tuấn kiệt của ta lại hiếm hoi, thậm chí quân tiếp viện, lực lượng trực tiếp chiến đấu lẫn lương thảo đều ít ỏi, khó khăn. Vậy điều gì lại giúp Lê Lợi và cộng sự của mình thắng lợi? Đó chẳng phải là:

Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành về phía tả.

Người chủ tướng nhận mệnh lớn trời trao, biết khắc phục gian nan thì cũng tìm ra được con đường chiến đấu. Vì thế, có tinh thần đoàn kết nhân dân bốn cõi một nhà, tướng sĩ một lòng phụ tử; có kế sách lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều và trên hết ta có đại nghĩa, có chí nhân để:

Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Chính nhờ đó mà mỗi ngày, mỗi ngày lực lượng kháng chiến một lớn mạnh, lại biết tận dụng thời cơ, quân ta đã mở những chiến dịch phản công và giành thắng lợi vẻ vang.

Trong phạm vi hạn hẹp của bài cáo, nhưng với sự khéo léo tài tình của mình, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực, nhiều góc độ, giúp người đọc rất dễ hình dung ra toàn cảnh của chiến trường. Trước hết phải kể đến những trận đánh liên tiếp, nối dài, phủ rộng khắp mọi miền. Mở màn là chiến dịch là trận Bồ Đằng, miền Trà Lân ở xứ Nghệ, tiếp tục kéo đến Tây Kinh xứ Thanh, rồi thẳng tiến về Đông Đô với hai trận Ninh Kiều và Tốt Động, bảo vệ thành công Thăng Long. “Thằng nhãi con Tuyên Đức” là vua nhà Minh lúc bấy giờ phải động bình cứu viện, nhưng nghĩa quân Lam Sơn lại chặn đứng bọn viện binh bằng những trận đánh liên tiếp, mạnh mẽ:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.

Có thể nói, trong một đoạn văn dài người đọc không thể rời mắt, những trận đánh như sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, thừa thắng ruổi dài mà xông lên, cứ thuận đà mà:

Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông

Quân tướng thì khí thế hừng hực, quyết chiến, quyết thắng thật oai hùng:

– Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh
– Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn

Ta ở trong tư thế chủ động tấn công, lấn chiếm cả chiến trường. Từ không khí đến cảnh tượng đều để lại thật nhiều ấn tượng:

Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.

Nhìn lại từ buổi đầu khởi nghĩa mà thấy thật là một kì tích, một sức mạnh thật phi thường.

Nhưng quá trình lược thuật về cuộc khởi nghĩa, không dừng lại ở việc ca ngợi chiến thắng của ta, mà còn khắc họa một cách sống động, chân thực về sự thất bại của kẻ thù. Cứ nghĩ đến cảnh Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước ta không khỏi ghê rợn. Nếu ta chủ động thì giặc lại rơi vào bị động, thất thế. Chứng cứ liên tục gỡ thế nguy, cứu trận đánh, bó tay để đợi bại vọng, trí cùng lực kiệt… Lũ giặc cả tướng liên quân đều suy sụp về tinh thần, hao hụt về ý chí nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân, kẻ bêu đầu, kẻ bỏ mạng, bại trận tử vong, cùng kế tự vẫn… Thất bại nhục nhã, ê chề ấy là kết cục tất yếu của bọn chúng.

Tuy nhiên, đường nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi – Lê Lợi vạch ra từ ban đầu vẫn luôn luôn soi tỏ. Ta chiến thắng nhưng biết điểm dừng, không dồn giặc vào thế khốn cùng mà ngược lại còn mở đường hiếu sinh cho chúng một con đường sống, cũng là để toàn dân nghỉ ngơi, lấy sức. Ta đã cấp cho chúng thuyền, ngựa để trở về. Vì thế thắng lợi của ta là thắng lợi của tinh thần thượng võ, của lòng nhân ái, nhân văn. Cũng bởi vậy mà kẻ thù đã thua lại còn phục, sẵn sàng cởi giáp ra hàng, trói tay tự xin hàng, lê gối dâng tờ tạ tội, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Giọng điệu sục sôi, khí thế, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, bút pháp tương phản, mang tính sử thi, Đại cáo bình Ngô đã làm sống dậy những trang sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc. Niềm tự hào, kiêu hãnh không chỉ là ở những chiến công mà ở sức mạnh của toàn dân quyết chí một lòng để làm nên chiến thắng vẻ vang.

Tham khảo thêm:  

Sáng đến đoạn cuối giọng điệu có phần thư thái, mang không khí mừng vui phấn khởi khi nhắc đến vấn đề quan trọng nhất, đó là nền độc lập, cảnh thái bình.

Xã tắc từ đây vững bền

Ai nấy đều hay

Vậy là từ nay đã chấm dứt cảnh bạo tàn, khốc liệt, sẽ không còn những tháng ngày tăm tối, đau thương dưới ách quân thù. Lời tuyên bố độc lập như vang lên đầy hào sảng, mang tới niềm vui sướng, tự hào cho muôn triệu con dân. Bao khao khát bấy lâu nay, giờ cả non sông rạng rỡ, đến nhật nguyệt, càn khôn cũng sáng ngời. Dân tộc từ nay có thể ngẩng đầu kiêu hãnh và hướng tới một ngày mai tươi sáng, một kỷ nguyên xây dựng đất nước độc lập, hòa bình.

Đã sáu trăm năm trôi qua, lịch sử cũng đã lùi vào dĩ vãng, nhưng Đại cáo bình Ngô vẫn trọn vẹn sức sống như thuở ban đầu. Bản văn kiện lịch sử mang tầm tư tưởng vĩ đại, một luận văn tổng kết lịch sử yêu nước vô cùng xuất sắc, cũng là một áng văn chương tiêu biểu cho ngòi bút thần Nguyễn Trãi. Tác phẩm chính là nguồn cảm hứng bất tận cho bao thế hệ người Việt Nam về lòng yêu nước, về tinh thần đấu tranh bảo vệ và dựng xây đất nước.

Phân tích Bình Ngô đại cáo – Mẫu 2

Sau khi đánh tan giặc Minh, Nguyễn Trãi thay mặt cho Lê Lợi viết bài cáo để thông báo cho toàn thể nhân dân về trận đánh thắng lợi. Bài cáo không chỉ khẳng định được chủ quyền nước nhà, tố cáo tội ác của giặc Minh mà còn trình bày quá trình từ đấu tranh bất khuất đến thắng lợi của nhân dân Đại Việt. Đặc biệt vai trò lãnh đạo và ý chí quyết đánh tan quân giặc của vua Lê Lợi được thể hiện rõ.

Mở đầu phần ba tác giả nêu lên những khó khăn mà bản thân vua Lê Lợi nói riêng và nhân dân Đại Việt nói chung phải đối mặt:

“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.”

Đoạn thơ thể hiện những khó khăn và ý chí quyết tâm của vua Lê Lợi. Vì không chấp nhận được cảnh nhân dân trở thành nô lệ cho bọn giặc Minh quỷ dữ kia mà người anh hùng Lê Lợi đã quyết ở chốn hoang dã, nếm mật nằm gai mà chờ ngày dấy cờ khởi nghĩa. Vua Lê căm thù giặc, đau lòng đến nhức óc, mộng mị cũng trằn trọc chỉ vì một mục tiêu đánh bại quân Minh. Giữa lúc quân Minh đang còn mạnh vậy mà muốn khởi nghĩa người tài lại khó tìm:

“Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,”

Nghệ thuật so sánh càng cho thấy hoàn cảnh khó khăn của đất nước. Khó khăn chồng chất khó khăn, nhà vua không có ai để bàn bạc hay đỡ đần. Tuy nhiên, lòng người muốn cứu nước vẫn cứ đăm đăm hướng về phía Đông mong dẹp giặc. Trông người thì người vắng bóng nên Lê Lợi phải tự mình gắng sức, phần vì muốn dẹp giặc phần vì lo nỗi nước nhà. Cũng có những lúc lương hết, binh tan nhưng trăm dân như một, ý chí quật cường, vua Lê sử dụng kế sách lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.

Và sự thật cho thấy bằng những cố gắng vượt qua khó khăn và ý chí cũng chiến lược thao binh tuyệt vời Lê Lợi đã lãnh đạo nhân dân giành được chiến thắng và đánh đuổi quân Minh về nước:

“Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
……..
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp”

Bằng biện pháp nghệ thuật liệt kê các sự việc từng trận đánh được nhà văn thuật lại một cách chi tiết nhất. Những cái tên như Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính, Tuyên Đức, Liễu thăng…đều trở thành những cái tên làm trò cười cho thiên hạ. Vì tham công vì bạo ngược ngu dốt mà chuốc lấy. “Ngày mười tháng tám” rồi “ngày hai mươi” tác giả sử dụng thời gian để thuật lại diễn tiến của quá trình vua Lê Lợi và những binh sĩ của mình dành chiến thắng từng bước. Chúng ta lấy nhân nghĩa để trừ bạo ngược, lấy chính nghĩa để thắng hung tàn. Các trận đánh đều sấm vang chớp giật, tan tác tro bay. Đánh cho chúng không còn được rút lui phải bò ra mà xin hàng, xác người chất thành đống, máu tanh trôi đầy sông.

Không chỉ thắng trận liên tiếp, Lê Lợi và những binh sĩ của mình thể hiện sự nhân nghĩa nhân đạo kể cả khi chúng ta dành phần thắng:

“Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.”

Mặc dù thắng trận nhưng quân ta vẫn cấp cho chúng thuyền, ngựa để về. Theo Lê Lợi, họ đã muốn hòa thực lòng thì ta nên giữ lấy toàn quân, để nhân dân nghỉ sức.

Đây quả là một quá trình chiến đấu đầy gian khổ để có chiến thắng như ngày hôm nay. Chiến tranh của quân dân Đại Việt là chiến tranh chính nghĩa, lấy nhân nghĩa để chiến đấu với bạo ngược hung tàn, và kết quả là chính nghĩa dành chiến thắng. Đồng thời ta cũng tự hào về vua Lê Lợi – một người tài trí hơn người đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi. Đặc biệt không thể không kể đến tài năng và công lao của Nguyễn Trãi khi viết áng thiên cổ hùng văn này.

Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo – Mẫu 3

Nguyễn Trãi, bậc thi hào lỗi lạc của trên văn đàn văn học Việt Nam, với kiệt tác Bình Ngô đại cáo, nhà thơ đã để lại bản hùng ca thiên cổ cho thế hệ sau của dân tộc. Đặc biệt đoạn thơ thứ 3 chính là bản hùng ca hào hùng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”

Đại từ ta mở đầu đoạn thơ ba như một lời khẳng định chắc chắn, hào hùng, thể hiện rõ tâm thế của người thủ lĩnh Lê Lợi. Hơn ai hết, là một vị tướng dẫn quân đánh trận, cũng là một bậc tôi trung, ông hiểu hơn ai hết cảm giác căm thù giặc đến tận xương tủy, mà như trong đoạn thơ đã khẳng định hùng hồn: căm thù giặc thề không cùng chung sống. Nhưng nếu chỉ giữ trong lòng ngọn lửa hận, thì sẽ sớm trở nên mù quáng và hồ đồ, do đó, vị chủ tướng ấy không chỉ mang trong mình nỗi hận niềm đau, mà còn dồn nén, chất chứa biết bao nhiêu niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”, những trăn trở về kế sách binh lược, và cũng cả những âu lo về khó khăn thách thức trong chặng đường phía trước sắp phải trải qua. Bước đầu kháng chiến những khó khăn là vô vàn không thể kể xiết, nhân tài như lá mùa thu, kẻ tài trí đỡ đần việc lớn thiếu thốn, chẳng có người chủ lực cùng sát cánh trường kì, cả sự gian nan muôn trùng về binh lực so với đối thủ, ấy thế nhưng nó lại trở thành đòn bẩy để những người chiến sĩ kiên cường, quyết liệt kháng chiến. Cuối cùng, ông trời không phụ lòng người, không phụ sự hi sinh nếm mật nằm gai đớn đau, vất vả của nghĩa quân Lam Sơn, đại sự đã thành công.

“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.”

Hình ảnh thiên nhiên được sử dụng trong 4 câu thơ như một cách nói hình ảnh, khắc tạc chiến tích vĩ đại và sự hào hùng mà nghĩa quân Lam Sơn đã tạo ra. Hình ảnh gươm mài đá, đá núi cũng mòn, và voi uống nước, nước sông phải cạn, phải chăng muốn nhấn mạnh cho ta thấy tinh thần bền bỉ chiến đấu, sự kiên trì, hy sinh nhẫn nại của những người chiến sĩ nghĩa quân Lam Sơn, đồng thời chỉ ra cho ta một chân lí trong kháng chiến. Đó là kháng chiến trường kỳ, đồng thời cũng phần nào thấy được triết lý mà nhà thơ luôn tin tưởng, đó là những cuộc chiến đấu vì chính nghĩa luôn luôn giành chiến thắng xứng đáng. Các cụm từ miêu tả với động từ mạnh “sạch không kình ngạc, tan tác chim muông” đã cho thấy sức tiến công, chiến đấu và tinh thần quật cường, hào hùng của những binh lính tham gia chiến trận, chúng ta không chỉ giành chiến thắng mà còn giành chiến thắng vẻ vang, quét sạch nhuệ khí và sự hống hách, kiêu ngạo của kẻ thù:

“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run”

Cuối cùng, tác giả đã kết thúc đoạn ba của bài cáo với một giọng văn đầy từ hào khi tái hiện lại những thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Những thắng lợi góp phần lưu danh sử sách nghìn năm còn mãi, về một thời kì dân tộc, chiến sĩ của quân ta đã chiến đấu, chiến thắng, từ đó mà hun đúc nên tâm hồn yêu nước bất khuất, quật cường cho các thế hệ – cũng là nét đẹp riêng của con người Việt Nam lịch sử. Mở đầu cho chuỗi chiến tích lịch sử hào hùng của Nghĩa quân lam Sơn là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An,… và cứ thế, mạch thơ trở nên sôi nổi, đậm chất tráng ca khi liệt kê hàng loạt những chiến công lẫy lừng của vị chủ tướng Lê Lợi:

“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn”.

Tổng kết lại có thể thấy trong phần ba của bài cáo, Nguyễn Trãi chia làm ba phần lập luận chính, thứ nhất là tái hiện hình ảnh nghĩa quân Lam Sơn trong những ngày đầu kháng chiến khó khăn, gian khổ để có thể làm nên nghiệp lớn. Tiếp đó, là niềm tự hào và kiêu hãnh của tác giả khi không chỉ đánh thắng quân địch, mà còn làm chúng thua một cách tâm phục không phục bằng cách liệt kê những thất bại ê chề, nhục nhã của quân địch. Những câu thơ dài, với khí văn hào sảng đã toát lên rất rõ điều ấy. Những dòng thơ cuối, là dòng thơ khép lại, là dòng cảm xúc đã được lắng đọng, dồn nén, là bút lực sâu xa nhất mà nhà thơ gửi gắm, đó là niềm tin tưởng và khát mong một đất nước, giang sơn thiên thu còn mãi:

“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới

Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay”

Với giọng văn hào sảng, cùng cách lập luận sắc bén, sâu sắc, thuyết phục, Nguyễn Trãi đã biến Bình Ngô đại cáo như trở thành bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, là bản tổng kết lịch sử hào hùng, là khúc tráng ca vĩ đại bất tận về quá trình chiến đấu, về chiến công, và về hình tượng người chiến sĩ lúc bấy giờ.

Tham khảo thêm:   Tiếng Anh 7 Unit 9: Skills 1 Soạn Anh 7 trang 97, 98 sách Kết nối tri thức với cuộc sống

Xem thêm: Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 1

Phân tích khổ 3 Đại cáo Bình ngô – Mẫu 4

Bình Ngô đại cáo là một văn kiện tuyên ngôn nền độc lập của Đại Việt và về quyền quyền sống của con người và cũng là khúc thiên anh hùng ca của quân dân ta trong chiến tranh chống quân Minh xâm lược. Đặc biệt khi đọc đoạn thơ thứ ba khắc họa chân thực những trận đánh anh dũng của ta khiến địch máu chảy đầu rơi cả và cũng thấy được cái tinh thần nhân đạo của quân dân nhà Lê.

Trong Bình Ngô đại cáo, nhân tố quan trọng mang đến chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa đó là vị anh hùng Lê Lợi. Nguyễn Trãi miêu tả đó là vị anh hùng có lòng tự tôn dân tộc, căm ghét giặc Minh đến độ “Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống”. Đó chính là nguyên nhân để Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa lấy nơi hoang dã Lam Sơn làm căn cứ chờ thời cơ diệt giặc. Lê Lợi còn là vị lãnh tụ đáng kính với tinh thần kiên trì “Nếm mật nằm gai/chốc đà mười mấy năm trời” xây dựng lực lượng, thu phục quần hùng, coi trọng nhân tài và quan trọng là lòng quyết tâm đánh giặc ngoại xâm “Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về phía đông”, tiến về tương lai rực rỡ cho dân tộc.

Nghĩa quân ta lúc bấy giờ yếu kém về mọi mặt “Vừa lúc cờ nghĩa dấy lên/Chính là lúc quân thù đương mạnh”, ta thiếu người tài “Tuấn kiệt như sao buổi sớm/Nhân tài như lá mùa thu”, thiếu binh sĩ tham gia “Trông người người lại càng vắng bóng, mịt mù như chốn bể khơi”. Trong khi đó, bọn giặc ngày đêm tàn sát, vơ vét của cải, nước đã mất đến nơi, khiến Lê Lợi “vội vã như cứu người chết đuối”. Giặc vẫn hoành hành “hung đồ ngang dọc”, tình cảnh khó khăn chồng chất khó khăn.

Với lòng quyết tâm, căm thù giặc nghĩa quân ta đã khắc phục khó khăn ban đầu vừa hội tụ nghĩa quân, vừa đoàn kết “tướng sĩ một lòng phụ tử”. Ta sử dụng mưu lược “dùng quân mai phục”, thế trận “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu chống mạnh”, khiến quân dân ta bừng bừng khí thế, giành được nhiều chiến công vang dội. Điều này xuất phát bởi tấm lòng nhân nghĩa của nghĩa, chứng minh một chân lý chính nghĩa ắt phải thắng gian tà. Trận đầu tiên mở ra thắng lợi vang dội được Nguyễn Trãi tạo dựng với những hình ảnh thiên hùng vĩ, về sự mạnh mẽ hùng dũng của nghĩa quân. Trái với ta thì quân thù thật thảm hại “nghe hơi mà mất vía”, “nín thở cầu thoát thân” trái ngược hẳn với vẻ ngang tàn trước đây. Thừa thắng xông lên, quân ta liên tiếp giành cứ điểm quan trọng Đông Đô và Tây Kinh khiến “Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”. Đây là những hình ảnh chân thực về chiến tranh phải đổ tuy máu của ta và của địch đều đổ xuống, nhưng ta thắng sự chính nghĩa, tinh thần anh dũng hi sinh. Còn lũ giặc bại trận thì kẻ chịu “bêu đầu”,“bỏ mạng”, tên tướng cầm đầu Vương Thông muốn thay đổi tình nhưng “lửa cháy lại càng cháy”.

Trên tinh thần nhân nghĩa vốn quân ta đã mở cho giặc đường lui nhưng chúng lại cầu cứu một cách ngoan cố với việc cử mấy tên tướng Liễu Thăng, Mộc Thạnh Tuyên Đức. Nhưng nào đâu ngờ

“Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Ta sau lại đưa tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực”,

Khiến lũ giặc Minh gặp hậu quả là “Liễu Thăng cụt đầu/Lương Minh bại trận tử vong/Lí Khánh cùng kế tự vẫn” . Nghĩa quân ta trên đà lớn mạnh tiếp mở rộng quy mô tuyển thêm binh sĩ chuẩn bị cho trận chiến, quét sạch bóng quân thù,

“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông”

Khắp nơi xác giặc bỏ mạng với những hình ảnh “thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước mang tính phóng đại, cho thấy sự tàn khốc của chiến tranh. Cái chất bi tráng ấy phải lấy thiên hiên ra để diễn tả hết Cảnh quân giặc giẫm đạp lên nhau mà bỏ trốn thật là thảm. Xuất phát từ tấm lòng của quân dân ta “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại” ta đã “mở đường hiếu sinh” cho chúng. Hành động này vừa khiến giặc phải kính sợ, vừa để nước ta tập vào xây dựng đất nước và cũng là kế sách hòa hoãn cho muôn đời sau này.

Phần ba của Bình Ngô đại cáo đã diễn tả chân thực quá trình khởi nghĩa, đánh đuổi quân xâm lược của bằng giọng văn hào hùng, bi tráng, tiết tấu dồn dập cùng những hình ảnh giàu sức gợi. Những hình ảnh bộc lộ sinh động sĩ khí của nghĩa quân khiến tác phẩm xứng đáng với cái tên là một thiên anh hùng ca của dân tộc, đất nước.

Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo – Mẫu 5

Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn trong buổi đầu dấy nghiệp. Nguyễn Trãi đã phản ánh chân thực giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng bút pháp tự sự kết hợp với trữ tình. Tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng Lê Lợi trong buổi đầu dấy nghiệp đầy gian khổ:

Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.

Trong hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất hài hoà giữa con người bình thường và thủ tĩnh nghĩa quân. Lê Lợi xứng đáng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa bởi ông có khả năng tổ chức, tập hợp, đoàn kết mọi người, đồng thời có phẩm chất của một nhà quân sự, chính trị tài ba. Lê Lợi căm thù giặc sâu sắc và có quyết tâm cao độ để thực hiện lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước:

Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lễ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.

“Ngẫm thù lớn há đội trời chung, Căm giặc nước thề không cùng sống” là thái độ và chí hướng của lãnh tụ. Đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận… là sự rèn luyện, thử thách đối với bản thân, từ trái tim đến khối óc. Không phải một sớm một chiều mà là suốt mười mấy năm trời. Bởi vì trong tâm trí lúc nào cũng canh cánh mối lo toan cứu nước, cứu dân cho nên Lê Lợi luôn ở trong tâm trạng: Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Qua hình tượng Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã nói lên được tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Lúc đầu, so sánh tương quan lực lượng giữa hai bên thì ta yếu hơn giặc rất nhiều:

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.

Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa vô cùng gian nan, thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa quân đã phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Thiếu quân, thiếu lương nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng sĩ một lòng phụ tử mà cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn thử thách và ngày càng lớn mạnh, đủ sức tổng phản công giành thắng lợi.

Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua những khó khăn nói trên? Trước hết, nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của mục đích chiến đấu là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập và truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt. Sau đó, yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của Lê Lợi. Ông thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chủ: căm thù giặc sâu sắc, tự tin, tự nguyện đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình.

Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo – Mẫu 6

Bình Ngô đại cáo không chỉ là một văn kiện nhằm tuyên ngôn nền độc lập của Đại Việt, tuyên ngôn về quyền quyền sống của con người mà nó còn là khúc thiên anh hùng ca về cuộc kháng chiến của quân dân ta trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược. Ở đó, ta thấy hiện lên thật chân thực và hào hùng những trận đánh đi vào lịch sử, những trận đánh khiến địch máu chảy đầu rơi cả trăm năm sau vẫn còn kinh hãi, cũng thấy được cái tinh thần nhân nghĩa, nhân đạo của chủ, tướng nhà Lê.

Trong Bình Ngô đại cáo, trước hết phải nhắc đến nhân tố quan trọng hàng đầu trong cuộc khởi nghĩa đó là chủ soái Lê Lợi. Nguyễn Trãi miêu tả ông là người anh hùng có lòng yêu nước thương dân, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, thế nên ông căm ghét giặc Minh vô cùng “Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống”, ghét đến độ phải một mất một còn, ta và địch buộc một bên phải tiêu vong. Đó chính là nguyên nhân, là tiền đề đầu tiên để vị lãnh tụ Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chốn Lam Sơn, lấy nơi hoang dã làm căn cứ nương mình, chờ thời cơ diệt giặc. Hơn thế nữa, Lê Lợi còn hội tụ rất nhiều yếu tố khác để trở thành vị lãnh tụ đáng kính bao gồm lòng kiên trì bền bỉ “Nếm mật nằm gai/chốc đà mười mấy năm trời” để xây dựng lực lượng, có khả năng thu phục quần hùng, biết coi trọng nhân tài “cỗ xe cầu hiền thường chăm chăm còn dành phía tả” và quan trọng nhất đó là lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm dù có bao nhiêu gian khó “Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về phía đông”, tiến về mặt trời, về một tương lai tươi sáng rực rỡ cho dân tộc.

Thế nhưng dù có chủ soái giỏi, nhưng nghĩa quân ta lúc bấy giờ còn yếu kém về mọi mặt so với quân địch “Vừa lúc cờ nghĩa dấy lên/Chính là lúc quân thù đương mạnh”, về sĩ khí ta áp đảo quân thù, nhưng về mặt vật chất quân số rõ ràng ta nằm ở thế yếu, mọi khó khăn chồng chất cứ đổ dồn trong buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa khiến Lê Lợi phải “đau đầu nhức óc”. Thứ nhất là ta thiếu người hiền tài đứng ra giúp nước “Tuấn kiệt như sao buổi sớm/Nhân tài như lá mùa thu”, thiếu cả binh sĩ tham gia khởi nghĩa giết giặc “Trông người người lại càng vắng bóng, mịt mù như chốn bể khơi”. Trong khi đó, quân giặc vẫn ngày đêm tàn sát nhân dân, vơ vét của cải, không chuyện ác nào không làm, nước đã mất đến nơi, đến độ khiến Lê Lợi lo lắng, mất ăn mất ngủ “vội vã như cứu người chết đuối”. Lương thực thì cạn kiệt, quân đội thì thưa thớt, giặc vẫn hoành hành ngang dọc rêu rao làm việc “hung đồ ngang dọc”, phải nói khó khăn chồng chất khó khăn.

Nhưng bằng lòng quyết tâm cứu nước, bằng lòng căm thù giặc sâu sắc nghĩa quân ta bằng mọi cách để khắc phục khó khăn ban đầu. Hội tụ nghĩa quân, nêu cao tấm lòng chính nghĩa, đoàn kết “nhân dân bốn bể một nhà”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”. Vận dụng mưu lược trong chiến đấu “dùng quân mai phục”, tinh thần anh dũng hi sinh “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu chống mạnh”, khiến cho mỗi trận đánh của quân dân ta đều sĩ khí bừng bừng, thu được nhiều chiến công vang dội. Nguyên nhân xuất phát bởi tấm lòng nhân nghĩa, chính nghĩa của nghĩa quân “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân thay cường bạo”, chứng minh một chân lý không thể dời đổi, chính nghĩa ắt phải thắng gian tà. Những trận đầu tiên mở ra trường kỳ thắng lợi thật vang dội “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”, Nguyễn Trãi sử dụng những hình ảnh thiên hùng vĩ, tạo nên sức gợi về sự mạnh mẽ, oanh tạc hùng dũng trong từng trận chiến của nghĩa quân. Trái với hình ảnh oai hùng của nghĩa quân thì quân thù lại trông thật thảm hại, kẻ “nghe hơi mà mất vía”, kẻ thì “nín thở cầu thoát thân” thật hài hước, nực cười, cái bọn trước đây hung hăng ngang tàn là thế mà nay chẳng khác nào loài chuột lấm lem, chui lủi. Thừa thắng xông lên, vừa hành quân tiến đánh vừa tuyển binh, quân ta liên tiếp giành lại những cứ điểm quan trọng như Đông Đô, Tây Kinh. Giặc thất bại liên tiếp khiến “Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”, những hình ảnh có phần ghê rợn, nhưng diễn tả một cách thật chân thực những trận đánh lịch sử, chiến tranh ắt phải đổ máu là vậy. Máu của ta và máu của địch cùng đổ xuống, nhưng ta thắng ở tấm lòng kiên cường, anh dũng hi sinh, thề sống chết với giặc. Quân giặc trước thế khí hùng dũng của nghĩa quân ta thì khí thế tan tác, kẻ chịu “bêu đầu”, kẻ “đành bỏ mạng”, tên Vương Thông muốn gỡ thế nguy khốn nhưng “lửa cháy lại càng cháy”.

Tham khảo thêm:   Văn mẫu lớp 12: Suy nghĩ về hoạt động từ thiện của con người hiện nay Dàn ý & 14 bài văn mẫu lớp 12

Quân ta hăng lại càng hăng, giặc chỉ còn đường “Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt”, bởi con đường phản luân thường đạo lý chẳng bao giờ có thể đi xa. “Chẳng đánh mà người chịu khuất ta đây mưu phạt tâm công”, trên tinh thần nhân nghĩa vốn ta đã định cho giặc một đường lui cuối cùng, xin hàng mà rút lui về nước thế nhưng chúng lại âm mưu cầu cứu viện nhằm cứu vãn tình hình, thật ngoan cố không thôi. Chẳng thế lũ nhãi nhép chuột bọ Liễu Thăng, Tuyên Đức, Mộc Thạnh lại vấy vá, nhăm nhe tiến sang nước ta lần nữa nhằm lật ngược thế cờ đã sắp đến hồi kết. Nhưng nào đâu có dễ thế, bởi “Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong/ Ta sau lại đưa tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực”, để xem lũ giặc Minh còn huênh hoang, vênh váo được đến bao giờ. Cái âm mưu hèn mọn của chúng dẫn đến những hậu quả là “Liễu Thăng cụt đầu/Lương Minh bại trận tử vong/Lí Khánh cùng kế tự vẫn” thế có phải là tự rước họa chỉ vì cái lòng tham dơ bẩn của mình không. Địch càng tổn thấy, mất mát bao nhiêu, thì sĩ khí quân ta lại càng tăng, nghĩa quân tràn đầy nhiệt huyết chiến đấu, hứng chí bừng bừng tựa như tiếng ngựa phi, tiếng chân chạy rầm rập vang động cả núi rừng, “Thuận đà ta đưa lưỡi đao tung phá”, khiến quân giặc tan tác, “bí nước quay mũi giáo đánh nhau”, đúng là chó cùng rứt giậu. Nghĩa quân ta trên đà lớn mạnh.

“Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Tất cả là chuẩn bị cho trận chiến cuối cùng, quét sạch bóng quân thù, thế nên:

“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.”

Quân giặc phải hốt hoảng mà xin hàng kẻo không kịp, khắp nơi đâu đâu cũng là xác giặc bỏ mạng “thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước”, những hình ảnh có tính phóng đại, thể hiện được sự tàn khốc của cuộc chiến, đồng thời là cái hào hùng trong lịch sử phân tranh của dân tộc. Cái chất hào hùng, bi tráng ấy Nguyễn Trãi phải lấy thiên nhiên ra mới có thể diễn tả hết được: “Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi/ Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ”. Có thể thấy cái chết nào cũng đều đáng tiếc, trận đổ máu nào cũng buồn thảm và đau đớn, âu cũng là sinh linh cả, một chốc mấy ngàn mạng bỏ, thì trời đất cũng phải tối tăm vì đâu ai muốn cảnh “thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen”. Cảnh quân giặc rối rít xin hàng, giẫm đạp lên nhau mà bỏ trốn thật thảm hại, tan tác, xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại” nên nghĩa quân ta đã cho giặc con đường về nước “mở đường hiếu sinh”, cấp thuyền, cấp ngựa, cấp lương thực cho chúng. Vừa khiến giặc phải nể nang, kính sợ, vừa để quân ta dưỡng sức, tránh đổ máu nhiều hơn nữa, bắt tay vào xây dựng đất nước. Nếu đuổi cùng giết tận chắc chắn để lại mối thù lớn trong lòng giặc, sớm muộn cũng có ngày chúng sang trả thù thêm, lúc ấy ắt ta phải chịu thiệt thòi, nên là lùi một bước cũng nên, kế sách hòa hoãn của cha ông ta muôn đời luôn sáng suốt là vậy.

Phần ba của Bình Ngô đại cáo đã tái hiện lại một cách chân thực, sinh động quá trình khởi nghĩa, đánh đuổi quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Bằng giọng văn rất đỗi hào hùng, bi tráng, tiết tấu nhanh, dồn dập, những hình ảnh thiên nhiên giàu sức gợi, mang tính biểu tượng cao như mặt trời, mặt trăng, sông, núi hùng vĩ. Những hình ảnh đầy nhiệt huyết, sĩ khí bừng bừng của nghĩa quân được miêu tả bằng những cụm tính từ ở sắc thái cao nhất, đem so sánh với hình ảnh thiên nhiên to lớn, bao la. Luận điệu thuyết phục, dẫn chứng có thực trong lịch sử càng làm tăng sức lôi cuốn, đem đến một thiên anh hùng ca, một khúc tráng ca bất tận, vang động cả một thời, khẳng định sức mạnh và chân lý của dân tộc, đất nước.

Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 3 – Mẫu 7

Nguyễn Trãi là đại thi hào của nền văn học nước nhà. Bình Ngô đại cáo được xem là “áng thiên cổ hùng văn” thấm đẫm nhiều cảm xúc, ghi chép về một thời hào dùng của dân tộc. Đoạn 3 của bài cáo đã khắc họa một cách chân thực nhất cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống lại quân Minh dưới sự lãnh đạo của chủ soái Lê Lợi. Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 3 để hiểu rõ hơn về khởi nghĩa Lam Sơn.

Bình Ngô đại cáo, bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc ta. Vai trò chủ chốt của chủ soái Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ngay từ những câu đầu tiên của đoạn 3, chúng ta đã thấy Nguyễn Trãi đã dùng ngòi bút của mình để xây dựng lại hình tượng chủ soái Lê Lợi, người có công lớn nhất đem lại chiến thắng cho khởi nghĩa Lam Sơn:

“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”

Nguyễn Trãi sử dụng đại từ “Ta” như đang dẫn lại lời nói của chủ tướng Lê Lợi, khẳng định một tâm thế hào hùng, chắc chắn, cương quyết của người cầm quyền. Là vị tướng dẫn đầu một đội quân lớn, một bậc tôi tớ trung thành của nhân dân, Lê Lợi hiểu rất rõ những nỗi căm thù đối với giặc Minh xâm lược.

Lê Lợi, người chủ soái bản lĩnh, hy sinh hết mình vì độc lập dân tộc. Nỗi căm phẫn này ăn vào tận sâu trong xương tủy, thề không đội trời chung “không cùng sống” chung trên một mảnh đất. Hơn thế, chúng ta thấy được Lê Lợi đã nếm trải biết bao nhiêu đau thương, gian khổ để tìm ra sách lược đối phó, đánh đuổi quân phương Bắc xâm lược:

“Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”

Tác giả dùng những từ ngữ giàu cảm xúc, mang tính nhấn mạnh đến nỗi đau, niềm trăn trở suy tư của người cầm quân “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”. Thể hiện được những lo âu về các khó khăn sẽ gặp phải trong cuộc đấu tranh giành tự do cho dân tộc sắp tới. Đồng thời đó còn là nỗi trăn trở về kế sách, chiến lược binh pháp sử dụng trong cuộc chiến. Trong bất cứ cuộc kháng chiến nào cũng có muôn vàn những khó khăn, thiếu người tài để làm việc lớn, cũng không đủ nguồn nhân lực có thể cùng chung chí hướng, sát cánh cùng nhau đánh tan giặc ngoại xâm. Sự chênh lệch về binh lược so với đối thủ là rất lớn, nhưng đó lại là những tiền đề để người chiến sĩ quyết liệt, kiên cường hơn với cuộc kháng chiến, tìm mọi cách để giành độc lập, tự do cho nhân dân. Nhờ những sự hi sinh vất vả, vượt lên mọi gian khổ đó, mà khởi nghĩa Lam Sơn đã giành thắng lợi, quân Minh xâm lược đã bị đánh bại.

Qua Bình Ngô đại cáo đoạn 3 ta cảm nhận được cuộc khởi Nghĩa Lam Sơn là cuộc khởi nghĩa hào hùng, đi vào lịch sử dân tộc. Sau khi nhắc đến vai trò, những hi sinh của chủ tướng Lê Lợi, của quân dân ngày đêm rèn luyện binh lược. Tác giả tái hiện lại diễn biến đầy kịch tính của khởi nghĩa Lam Sơn:

“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.”

Để khắc họa chiến tích hào hùng của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã mượn hình ảnh của thiên nhiên. Thiên nhiên với sông núi thì luôn hùng vĩ như những chiến tích mà nghĩa quân Lam Sơn đã làm được. Tác giả sử dụng phép nhân hóa, phóng đại, “gươm mài đá, đá núi cũng mòn,” “voi uống nước, nước sông phải cạn” để nhấn mạnh sự kiên trì, bền bỉ trong chiến đấu, hy sinh cả tính mạng để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ. Dù cho cuộc chiến diễn ra trường kỳ, ác liệt nhưng tất cả quân và dân đều tin tưởng vào một chiến thắng vẻ vang, chính nghĩa sẽ luôn thắng gian tà. “Đánh một trận, sạch không kình ngạc” “Đánh hai trận tan tác chim muông” cho thấy sức mạnh khủng khiến của nghĩa quân Lam Sơn. Tất cả đều mang trong mình một tin thần quật cường, sức chiến đấu mạnh mẽ không chịu lùi bước trước quân thù, dập tắt tất cả sự kiêu ngạo, hống hách của quân địch.

Tác giả nhắc đến tất cả các địa danh mà quân Lam Sơn đã giành thắng lợi, như một sự khẳng định chúng ta đã đuổi tất cả bọn xâm lược phương Bắc ra khỏi bờ cõi nước Nam:

“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
……………………..
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run”
Niềm tự hào dân tộc sâu sắc trước chiến thắng vẻ vang chống quân Minh xâm lược

Khi phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 3 ở những câu văn cuối cùng, ta cảm nhận được sâu sắc niềm tự hào dân tộc trước chiến thắng vẻ vang của quân Lam Sơn. Đây là thắng lợi đã được lưu vào sử sách dân tộc, như một lời nhắc nhở thế hệ mai sau về sự hi sinh, quật cường của cha ông ta để giữ vững nền độc lập cho dân tộc. Từ đó, xây dựng lòng yêu nước, sự tự hào trong mỗi con người Việt Nam dù cho là thời bình hay thời chiến.

Nguyễn Trãi đã liệt kê đầy đủ những chiến tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dưới sự lãnh đạo tài tình của chủ tướng Lê Lợi: chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Mã An, Chi Lăng…:

“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn”.

Quân địch đã thất bại một cách ê chề dưới tay quân và dân ta, phải tìm đến bước đường cùng là “kế tự vẫn”. Trong vòng chưa đầy một tháng, nước Nam đã sạch bóng quân thù.

Như vậy, thông qua Bình Ngô đại cáo đoạn 3, ta thấy Nguyễn Trãi đã chia phần này thành ba nội dung tách biệt nhưng liền mạch. Qua đó khắc họa một cách chân thực nhất diễn biến của cuộc khởi nghĩa. Từ những ngày đầu chuẩn bị kháng chiến, tìm kiếm, lên kế hoạch sách lược chiến đấu cho đến thời điểm cuộc chiến tranh nổ ra, những chiến tích oanh liệt mà quân và dân ta đã làm được. Sau cùng là niềm kiêu hãnh tự hào sâu sắc về tinh thần quật cường, vượt mọi gian khó của nghĩa quân Lam Sơn. Chúng ta đã buộc quân Minh xâm lược phải nhận sự thất bại trong ê chề, hoảng loạn chạy trốn không kịp về phương Bắc, nước Nam sạch bóng quân thù. Những dòng thơ cuối như một lời khẳng định lặp lại, một cách chắc chắn rằng giang sơn đã thu về một mối:

“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới…
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay”

Qua Bình Ngô đại cáo Đoạn 3 giúp chúng ta hiểu hơn cuộc chiến chống quân xâm lược trường kỳ của lịch sử ông cha ta. Bằng ngòi bút đầy tự hào, lập luận sắc bén, giàu sức thuyết phục Nguyễn Trãi đã làm nên một Bình Ngô đại cáo “hùng văn thiên cổ”, xứng đáng với danh xưng bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt. Bình Ngô đại cáo trở thành bản tổng kết hào hùng của lịch sử dân tộc nước nhà trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược thời bấy giờ.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn 3 bài thơ Bình ngô Đại Cáo (Dàn ý + 7 Mẫu) Bình ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *