Bạn đang xem bài viết ✅ Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 4 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu Dàn ý + 11 bài Phân tích khổ 4 bài Việt Bắc ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Phân tích khổ 4 Việt Bắc của Tố Hữu mang đến gợi ý cách viết và 11 bài văn mẫu cực chất đạt điểm cao của các bạn học sinh giỏi trên cả nước. Phân tích Việt Bắc đoạn 4 giúp các em lớp 12 hiểu được trình tự làm bài, trình tự quan sát, biết cách liên tưởng, chỉnh sửa câu nói cho phù hợp với giọng văn của mình.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc thể hiện được nỗi nhớ của người ra đi dành cho người ở lại trước những kỉ niệm trong đời sống kháng chiến sẽ mãi lưu lại trong tâm trí của cán bộ chiến sĩ. Vậy sau đây là 11 bài văn phân tích khổ 4 Việt Bắc hay nhất mời các bạn cùng đón đọc nhé. Ngoài ra để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm: phân tích khổ 5 Việt Bắc, phân tích bài thơ Việt Bắc, kết bài Việt Bắc.

Dàn ý phân tích đoạn 4 bài Việt Bắc

I. Mở bài

– Việt Bắc là tập thơ xuất sắc của Tố Hữu nằm trong tập thơ Việt Bắc, sáng tác trong giai đoạn 1946 – 1954.

– Bằng lối đối đáp và cách sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình – ta” quen thuộc của ca dao, bài thơ như một bài hát giao duyên thể hiện ân tình sâu đậm giữa đồng bào Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến về xuôi.

– Đoạn thơ này là lời người cán bộ kháng chiến về xuôi đáp lại lời nhắn nhủ của đồng bào Việt Bắc. Trong đoạn thơ, ta thấy cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ người đi thật đẹp và cũng thật tình nghĩa. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha và sâu đậm, bao phủ cả không gian, thời gian và đầy ắp tâm trạng của người cán bộ kháng chiến.

II. Thân bài

1. Mở đầu đoạn thơ là lời đáp của người ra đi khẳng định tình cảm thuỷ chung của mình:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”

– Người ra đi đã khẳng định “mình đi, mình lại nhớ mình” là để trả lời cho câu hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc ở trên (“Mình đi mình có nhớ mình”…). Đây là lời khẳng định: người cán bộ kháng chiến về thành nhưng vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. Nói cách khác, đây là lời khẳng định phẩm chất đạo đức của người cán bộ kháng chiến.

– “Ta – mình”, “mình – ta” quấn quýt, quyện hoà, ta với mình là một. Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh. Đinh ninh là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi, gắn bó, thuỷ chung với Việt Bắc. Việt Bắc là cái nôi cội nguồn của cách mạng làm sao dễ dàng quên.

– Sự so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã khẳng định sự chung thuỷ son sắt với Việt Bắc như tình yêu đôi lứa bền chặt, mãi mãi, không bao giờ cạn như nguồn nước kia.

+ Trong tâm thức của người Việt Nam, nước nguồn được chảy ra vì công lao, tình nghĩa vô bờ bến của người mẹ, tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. Bao nhiêu nước thì bấy nhiêu nghĩa tình sâu nặng, như nghĩa mẹ tình cha.

+ “Bao nhiêu” được so sánh với “bấy nhiêu”. Đó là cách so sánh giữa một sự vô tận với một sự vô tận. Đọc câu thơ, ta có cảm giác dường như đó không còn là những dòng chữ im lặng nữa mà là tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong giây phút li biệt.

2. Nhớ thiên nhiên thanh bình, yên ả và thơ mộng:

– Nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc vừa đa dạng, vừa cụ thể. Trong cuộc đời, có mảnh đất nào đã đi qua, đã từng gắn bó mà khi ra đi lại không để thương nhớ cho lòng người. Trong hoài niệm của nhà thơ, Việt Bắc không chỉ là những ngày mưa rừng sương núi mà còn là một vùng đất thơ mộng, thanh bình, yên ả gợi bao nỗi nhớ niềm thương:

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

+ Nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như “nhớ người yêu”. Một nỗi nhớ cháy bỏng, tha thiết, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là phải xa nhau thì nỗi nhớ càng cồn cào, da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng với thiên nhiên, với đồng bào Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Vì vậy, cảnh và người phút chốc lại trở về vơi đầy trong tâm trí của người ra đi.

+ Nỗi nhớ ấy vừa được so sánh với “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, vừa gắn với không gian, thời gian đầy ắp kỉ niệm:

“Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” vừa là cảnh thật vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Trăng là ban đêm, nắng là ban ngày. Như vậy, nỗi nhớ ở đây bao trùm khắp cả không gian và thời gian.

Nỗi nhớ còn rộng lớn, bao phủ khắp không gian, “đầu núi”, “lưng nương”, từ “rừng nứa”, “bờ tre” đến “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”. Nhớ những đêm trăng sáng yên ả, thanh bình, những buổi chiều nắng trải vàng ấm áp trên nương. Nhớ cảnh núi đèo, bản làng chìm trong sương khói, cảnh bếp lửa bập bùng trong mỗi đêm đông và hình ảnh con người thân thương, tảo tần đi về hôm sớm.

+ Điệp từ “nhớ” đặt đầu các câu thơ làm nổi bật lên nỗi nhớ ngày càng mênh mông, bất tận. Ở đoạn thơ này, thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” mà ấp áp, vui tươi. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa đơn sơ vừa thi vị, gợi rõ nét sự riêng biệt, độc đáo, khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống, gắn bó máu thịt với Việt Bắc mới có cái nhìn toàn diện, có nỗi nhớ da diết và cảm nhận sâu sắc, thấm thía đến như thế:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”

(Chế Lan Viên)

Đối với những mảnh đất giàu tình nghĩa, khi ta sống ở đó rồi, lúc ra đi ta cảm thấy trái tim cứ dày lên biết bao nỗi vấn vương thương nhớ, nhớ cả những vật vô tri tầm thường nhất mà ta vô tình bắt gặp:

Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

3. Nhớ nhất là nếp sống của con người Việt Bắc vô cùng gian khổ nhưng nghĩa tình sâu nặng:

“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi

– Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó nhưng là những con người giàu tình nghĩa. Họ sẵn sàng chia sẻ cho người cán bộ kháng chiến từng “bát cơm”, “củ sắn lùi”, mảnh “chăn sui”. Hình ảnh thơ thật mộc mạc, giản dị như chính bản thân cuộc sống vậy. Ở đây không phải sẻ chia những gì lớn lao như tính mệnh hay xương máu, mà sẻ chia những sự vật bình thường nhỏ nhoi hàng ngày. Quả chẳng là đáng bao nhiêu nhưng nghĩa tình thì rất nặng. Cuộc sống những ngày ấy tình quân dân như cá với nước, thân tình như trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.

III. Kết bài

– Đoạn thơ là tiếng lòng của người cán bộ kháng chiến về xuôi đối cảnh vật và con người Việt Bắc. Trong nỗi nhớ của người ra đi, cảnh vật Việt Bắc hiện lên thật gần gũi thân thương và thật đẹp; con người Việt Bắc tuy đời sống thiếu thốn, gian khổ nhưng đầy tình nghĩa.

– Thể thơ lục bát quen thuộc và những hình ảnh được lấy ra từ đời sống thực tế, điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần góp phần thể hiện thành công nỗi nhớ vừa chân thành tha thiết, vừa mênh mông bất tận của người cán bộ về xuôi đối với Việt Bắc, tạo nên sự rung động sâu sắc trong lòng người đọc

………

Xem thêm dàn ý trong file tải về

Phân tích Việt Bắc đoạn 4 – Mẫu 1

Tố Hữu được coi như “lá cờ đầu” của thơ ca Cách mạng Việt Nam. Hồn thơ mang đầy tính dân tộc ấy đã sáng tác ra “Việt Bắc” – tác phẩm được coi là đỉnh cao của văn học thời kì kháng chiến. Trong đó, khổ 4 trong bài thơ là lời khẳng định về lòng thủy chung của người ra đi cùng nỗi nhớ Việt Bắc.

Trong những ngày tháng kháng chiến chống Pháp gian khổ, Trung ương Đảng và Chính phủ phải lui về ở khu vực Việt Bắc. Sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được kí, miền Bắc được độc lập, chính quyền lại quay trở về Hà Nội. Nhân dịp này, nhà thơ Tố Hữu đã viết bài thơ “Việt Bắc” để bày tỏ nỗi lòng của người ra đi, người ở lại và ca ngợi kháng chiến.

Bốn câu thơ đầu của khổ bốn là lời khẳng định tình nghĩa, sự thủy chung của người ra đi:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”

Không sử dụng những từ ngữ thường thấy khi đồng bào và những cán bộ chiến sĩ gọi nhau như “đồng chí”, “bộ đội”, “bà con”,… Tác giả chỉ dùng cặp đại từ xưng hô “mình” và “ta”. Rõ ràng, khi so sánh hai từ này với những từ khác thường dùng, ta thấy rõ sự thân thiết, hòa quyện giữa người đi và người ở. “Mình” đôi khi cũng là “ta”, “ta” cũng có thể là “mình”. “Mình” và “ta” tuy hai mà một, gắn bó với nhau không tách rời. Tình cảm này càng được khẳng định trong câu thơ “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”. “Sau trước” là một từ tiếng Hán mang nghĩa “thủy chung”. Đây là lời nói thể hiện tấm chân tình của người ra đi. Dù có đi xa nhưng họ sẽ mãi nhớ về nơi đã từng gắn bó sâu nặng. Ngoài ra, “sau trước” còn là từ ngữ chỉ thời gian dài từ quá khứ đến tương lai. Ý câu thơ muốn nói rằng cho dù trước đây, bây giờ hay hiện tại thì vẫn luôn yêu thương, mong nhớ Việt Bắc như quê hương của mình. Câu thơ “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” càng khẳng định sự thủy chung, tình cảm trong sáng, thuần khiết như nước trong nguồn mãi mãi không khô cạn. Cặp từ đối xứng “bao nhiêu” – “bấy nhiêu” cũng cho ta thấy cái vô cùng, vô tận của nỗi nhớ, sự thủy chung không tài nào đong đếm được.

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

Cả ba cặp thơ lục bát đều bắt đầu bằng từ “nhớ” cho ta thấy cảm hứng chung của đoạn thơ này chính là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc thanh bình, yên ả. Sắc thái tình cảm ấy cháy bỏng, da diết, mãnh liệt như “nhớ người yêu”. Tác giả đã liệt kê hàng loạt những địa điểm, khung cảnh để khơi gợi lại không gian của nơi núi rừng rộng lớn. Khi thì Việt Bắc thơ mộng với ánh trăng tròn bàng bạc thấp thoáng nơi đầu núi, khi thì ấm áp, rực rỡ dưới ánh nắng chiều chiếu trên nương rẫy. Cũng có những lúc, bản làng bốc lên chút khói bếp nấu cơm chiều hòa cùng làn sương mờ ảo, huyền hoặc. Người dân Việt Bắc giờ đây đã trở thành “người thương” trong lòng tác giả. Những cảnh vật quen thuộc như “rừng nứa”, “bờ tre”, “Ngòi Thia”, “sông Đáy”, “suối Lê” đã in đậm trong tâm trí người ra đi, trở thành nỗi nhớ không thể nào nguôi.

Như để trả lời câu hỏi ở đoạn trên “Mình đi có nhớ những ngày”, người ra đi cũng đã đáp lại “Ta đi ta nhớ những ngày/Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”. Cả người ra đi và người ở lại đều đã từng yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ nhau, chia sẻ “đắng cay ngọt bùi” trong suốt mười lăm năm” chống Pháp đầy gian khổ. Chính điều đó làm nên tình quân dân gắn bó keo sơn, thân thiết, thủy chúng. Đó cũng là nguyên nhân khiến cho người ra đi cứ ngập ngừng, bồn chồn chẳng muốn rời xa Việt Bắc.

Thành công mà “Việt Bắc” có được không chỉ nhờ nội dung sâu sắc ý nghĩa mà còn nhờ nghệ thuật đặc sắc. Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc cùng với những lời thơ đậm chất ca dao, dân ca. Ngoài ra, những hình ảnh trong bài thơ cũng rất đỗi giản dị, gần gũi, dễ hiểu. Những yếu tố trên đều giúp cho tác phẩm trở nên gần gũi, dễ đọc, dễ hiểu với độc giả mọi thế hệ.

Trong khổ 4 bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt, sâu nặng của người cán bộ chiến sĩ khi trở về xuôi. Họ sẽ vẫn luôn ghi nhớ khung cảnh yên bình thơ mộng và tình cảm trong suốt mười lăm năm gắn bó cùng với bà con nhân dân nơi núi rừng Việt Bắc. Tình quân dân thắm thiết, gần gũi như người nhà chính là điểm nổi bật ở đoạn thơ này. Đây cũng là một bài học cho những người lính khác, phải luôn biết yêu thương nhân dân, “lấy dân làm gốc” thì mới có thể làm được việc lớn.

Phân tích khổ 4 Việt Bắc – Mẫu 2

Việt Bắc là bản anh hùng ca mạnh mẽ, hào hùng cũng là khúc tình ca ngọt ngào, tha thiết về tình nghĩa quân dân trong kháng chiến. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ 4, nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện đầy xúc động tình cảm gắn bó, nghĩa tình thủy chung, son sắc giữa giữa người ra đi và người ở lại ; những người chiến sĩ cách mạng với con người, vùng đất chiến khu.

Mượn lối đối đáp trong ca dao cùng lối xưng hô “mình-ta”, nhà thơ Tố Hữu không chỉ mở ra trước mắt người đọc không khí lưu luyến, bịn rịn của buổi chia ly mà còn mang đến âm hưởng ngọt ngào, tha thiết tựa như một lời tâm tình:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”

“Ta với mình, mình với ta” tuy hai nhưng là một, câu thơ thể hiện sự đồng điệu, thống nhất trong tình cảm của người đi- người ở lại. Câu thơ cũng là lời hồi đáp chắc chắn nhất về tình cảm của người ta đi “sau trước mặn mà đinh ninh”. Những tình cảm gắn bó đã có với con người và vùng đất chiến khu sẽ mãi vẹn nguyên, sống động trong trái tim, tâm hồn của những người chiến sĩ cách mạng, trước đây như thế nào thì sau này cũng sẽ như vậy. Cách so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã bộc lộ trọn vẹn tấm lòng, tình cảm của người ra đi. “Nguồn” là nơi bắt đầu của dòng nước, bởi vậy mà lúc nào cũng dồi dào, mạnh mẽ, không bao giờ vơi cạn, nó cũng giống như tình cảm của người cách mạng, luôn sục sôi, đong đầy, không vì hoàn cảnh thay đổi mà trở nên đổi thay. Cách so sánh tự nhiên, mộc mạc nhưng lại thành công khơi dậy những tình cảm ấm áp, chân thành của người ở lại.

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Trong những câu thơ tiếp theo, nhà thơ Tố Hữu tiếp tục giãi bày nỗi nhớ, tình thương thông qua những câu thơ ngọt ngào, giàu hình ảnh. Nỗi nhớ vốn vô hình, khó diễn tả bằng lời lại được nhà thơ cụ thể hóa qua một cảm xúc cụ thể “như nhớ người yêu”. Cách so sánh độc đáo, dễ gợi những liên tưởng đã thể hiện được tình cảm tha thiết, trào dâng trong lòng mỗi người chiến sĩ khi chia tay con người, vùng đất chiến khu để trở về xuôi. Hình ảnh “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” không chỉ mở ra bức tranh đẹp của núi rừng Việt Bắc mà còn khéo léo diễn tả nỗi nhớ luôn sục sôi, thường trực ngày đêm, bao trùm cả không gian và thời gian.

Rời xa Việt Bắc, nhưng những hình ảnh thân quen của cuộc sống, con người vẫn đong đầy nơi trái tim của những người chiến sĩ trẻ. Đó là những làn khói bảng lảng, là không gian mờ sương của núi rừng, là hơi ấm bếp lửa, là hình ảnh người thương “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. Nỗi nhớ còn được cụ thể qua những hình ảnh, địa danh quen thuộc: rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…Tính từ “vơi đầy” trong câu thơ “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy” được sử dụng rất khéo, nó không chỉ gợi ra cái cáu đong đầy của nước nơi sông suối mà còn là cái đong đầy của tình cảm trong tâm hồn của người ra đi.

Tham khảo thêm:   11 cách chữa sổ mũi hiệu quả, nhanh chóng cho người lớn

“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Trở về miền xuôi, những người chiến sĩ không nhớ về hình ảnh quen thuộc của núi rừng, người thương Việt Bắc mà còn mang theo cả những kỉ niệm gắn bó trong những ngày tháng gian khổ nhất. “Đắng cay ngọt bùi” là những gian khổ, vất vả mà những người chiến sĩ đã cùng con người Việt Bắc trải qua. Tình cảm được khẳng định trong hoàn cảnh gian khó càng trở nên ý nghĩa hơn cả vì trong hoạn nạn mới thấy chân tình.

Sử dụng thể thơ lục bát đậm chất dân tộc kết hợp với lối đối đáp quen thuộc trong ca dao, nhà thơ Tố Hữu đã mang đến bức tranh đầy màu sắc về những ân tình thủy chung của người ra đi và người ở lại. Đó là những nghĩa tình được tạo dựng bởi sự chân thành, gắn bó trong những ngày tháng gian khổ nhất của cả dân tộc, bởi vậy dẫu có chia xa về địa lí, khoảng cách thì tình cảm của người ra đi vẫn luôn cháy bỏng, trước sau như một.

Phân tích khổ 4 Việt Bắc – Mẫu 3

Tố Hữu đã dành hết tình cảm của mình lên bài thơ Việt Bắc, những xúc cảm sâu sắc về hình ảnh của những người chiến sĩ cách mạng, họ gắn bó, nghẹn ngào nơi chiến trường xa xăm, nơi vùng núi Việt Bắc, nhưng tâm hồn của họ vẫn mang những nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ của sự thủy chung son sắt, cả bài thơ là nỗi nhớ và tấm lòng son sắt của những người chiến sĩ cách mạng.

Tấm lòng thủy chung son sắt thể hiện sâu sắc qua từng lời thơ của Tố Hữu với cách xây dựng hình tượng độc đáo, nỗi nhớ đang dần dâng trào trong từng lời thơ của tác giả, với biết bao nhiêu cảm xúc đó, nỗi nhớ dường như đang chế ngự toàn không gian trong tác phẩm. Tấm lòng của những người chiến sĩ trước sau như một, vẫn luôn giữ tấm lòng thủy chung, son sắt, mặn lòng trước khung cảnh của quê hương vùng núi Việt Bắc, tấm lòng đó thể hiện qua tình nghĩa, những nỗi nhớ da diết về khung cảnh, quê hương nơi đây:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Ta với mình, mình với ta, ở đây nó như hòa chung để nói một chỉnh thể, chỉnh thể đó nghẹn ngào, có tấm lòng trước sau như một, tấm lòng son sắt, mình đi nhưng mình lại mình lại nhớ mình, nguồn có bao nhiêu nước thì bấy nhiêu tấm lòng thủy chung, của con người…. Nỗi nhớ đó thể hiện cảm xúc chủ đạo trong toàn bộ tác phẩm, hình ảnh mang những cảm xúc, dâng trào, nỗi nhớ cho con người, người đọc như đang hình dung, tưởng tượng những cảm xúc, những nghĩa tình và kỉ niệm gắn bó với những gì đã xa xôi, nơi đây tất cả giờ chỉ là kỉ niệm.

Tác giả còn so sánh tấm lòng thủy chung đó như nước trong nguồn, nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu… tất cả đang dần hòa trộn trong tâm hồn của những người chiến sĩ, tình cảm, tấm lòng đó son sắt, to lớn, mang đậm trong tâm hồn của những người chiến sĩ cách mạng.

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương

Nỗi nhớ đó da diết được tác giả so sánh với nỗi nhớ người yêu, nó cồn cào, da diết, cháy bỏng trong tâm hồn của những người chiến sĩ, cảm xúc đó nghẹn ngào, mang đến cho người đọc biết bao nhiêu khát khao, cảm xúc trước nỗi nhớ, nghĩa tình, sâu lắng của những người chiến sĩ cách mạng, đang ngày đêm mong nhớ vùng đất mà từng gắn bó máu thịt, nơi nung nấu những tâm hồn cách mạng, thể hiện được tâm hồn của những người chiến sĩ, hết mình vì quê hương, hết mình vì sự nghiệp của đất nước:

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Nỗi nhớ đó thể hiện qua nhiều hình ảnh, dòng sông mang nặng nghĩa tình, biết bao nhiêu hình ảnh về quê hương, đất nước, sớm khuya bên bếp lửa, mong đợi người thương đi về, hình ảnh rừng nứa, bờ tre tất cả đang thể hiện những cảnh vật gần gũi của những người chiến sĩ cách mạng, một thời đã từng gắn bó toàn tâm, toàn lực của mình với vùng đất nơi đây, tất cả đang hòa chung vào tâm hồn, của những người chiến sĩ, của cách mạng, của những năm tháng đã qua.

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Những cảm xúc đó thể hiện cảm xúc dâng trào, với nỗi nhớ đó, sự ngọt bùi, đắng cay, cùng nhau chia sẻ, nhớ những năm tháng dày sương, gắn bó như máu thịt, biết bao đắng cay muôn phần đều có thể hoàn thành, nỗi nhớ về vùng đất quê hương, nơi ta đã từng gắn bó, thiết tha, cảm xúc về một miền nỗi nhớ quê hương, cảm xúc đang trào dâng trong tâm hồn của người lính.

Đoạn thơ đã nói lên tấm lòng thủy chung, son sắt của những người lính cách mạng, luôn hết mình vì dân tộc, nỗi nhớ đang dâng trào trong từng khoảnh khắc, nỗi nhớ, trào dâng trong tâm hồn của những người lính.

Phân tích khổ 4 Việt Bắc – Mẫu 4

Chế Lan Viên đã từng khẳng định Thơ cần có hình cho người ta thấy có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim. bắt rễ sâu xa từ hiện thực đời sống chính trị tưởng như không hề lãng mạn, chất thơ bay bổng trong tác phẩm của Tố Hữu đã làm rung động lòng người bởi những hình ảnh thân thương gần gũi và triết lý về con người và cuộc đời bởi tình người thắm thiết đậm đà không phôi pha theo thời gian. đoạn trích Việt Bắc là một trong những minh chứng tiêu biểu cho khả năng lay động trái tim con người tiêu biểu cho tài năng thơ phong cách thơ Tố Hữu một thi sĩ được mệnh danh là lá cờ đầu thơ ca cách mạng Việt Nam. Và đoạn thơ thứ tư là một trong những khúc ca của nỗi nhớ đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ bạn đọc.

Đoạn thơ tiếp nối những lời nhắn nhủ, tâm tình của người ở lại trao cho người ra đi.

“Ta với mình mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”

Dường như thấu tỏ nỗi băn khoăn do dự đoán có nhớ không của người ở lại mình ra đi đã khẳng định chắc chắn sắt son câu trả lời vang lên như một lời thề. Cặp đại từ ta mình hòa quyện quấn quýt với lời thề thủy chung gắn bó. “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”, không bao giờ thay đổi, không bao giờ vơi cạn như nước nơi thượng nguồn. Câu thơ “nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” vừa là hình ảnh so sánh đậm màu sắc của văn học dân gian, giản dị mà sâu sắc, lại vừa như lời đồng vọng, nguyện thề trước lời nhắn nhủ thiết tha của người ở “…nhìn sông nhớ nguồn”. Cuộc chia tay của người dân Việt Bắc và con người kháng chiến cũng đầy bịn rịn, chất chứa nhiều nhớ thương nhưng không muốn đã đâm lễ khi những cuộc chia tay trong văn học cổ:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

Có lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa làm nên chiến thắng, đó là cuộc chia tay trong yêu thương và cả trong niềm vui niềm tin tưởng của ngày mai gặp lại.

Theo sau lời khẳng định thủy chung sắt son, nỗi nhớ cảnh là người Việt Bắc của về trong tâm trí người ra đi.

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Theo Chế Lan Viên, thơ Tố Hữu nói các vấn đề bằng trái tim của một người đầy say đắm. Ở đây nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như nỗi “nhớ người yêu” một nỗi nhớ cháy bỏng, nồng nàn, thiết tha, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là khi về cách xa thì nỗi nhớ càng cồn cào da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng từ thiên nhiên và con người Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức , của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết. Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm 2 nửa thời gian: vế đầu là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược – nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu . Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm. Vì vậy cảnh và người phút chốc trở lại đầy vơi trong tâm trí của người ra đi.

Theo mỗi điệp khúc “nhớ” là một nét đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị trong những không gian và thời gian khác nhau. Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiếu lấp ló lương, những bản làng bồng bềnh trong khói, trong sương, những rừng nứa bụi tre những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê để vơi trong nỗi nhớ. Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác. Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu ,lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chung mô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng. Còn “Ngòi Thia , sông Đáy , suối Lê … là những địa danh lịch sử, đã từng khắc ghi trong lịch sử Cách mạng – nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt. Sương khói hư vô mờ mịt mơ hồ. Nhưng đó là động thái chuẩn bị trong một thứ ánh sáng đặc biệt hiện ra “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. sự đối lập giữa cái lạnh và cấm cái trừu tượng là cụ thể đã làm nổi bật tình người ấm áp. Tấm lòng của đồng bào với cách mạng đáng quý đến nhường nào, vì thế mà thương, mà nhớ, thương nhớ đến xót xa. Nhịp thơ mượt mà êm ái như người đọc vào những kỉ niệm bâng khuâng. đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Ở đây thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” nữa mà ấm áp, tươi vui. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực, vừa mộng, vừa đơn sơ của thị vị, gợi rõ nét riêng biệt độc đáo khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống gắn bó máu thịt với Việt Bắc để có cái nhìn toàn diện của nỗi nhớ da diết da và cảm nhận sâu sắc đến thế. Như Chế Lan Viên, một người con cũng từng gắn bó với Việt Bắc đã viết:

“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Trên phông nền thiên nhiên Việt Bắc bảo làn khói sương hình ảnh con người thoáng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên nhiên. Trong dòng ký ức đứt, nối, mở tỏ, những dòng thơ sau hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên thật thân thương mộc mạc gắn liền với kỷ niệm của một thời không thể nào quên. Việt Bắc để trở thành người yêu vì thương của tác giả và của những con người kháng chiến.

“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”.

Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc đi nhiều khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Trong ký ức của người kháng chiến những tháng ngày khó khăn thiếu thốn trở nên thật ấm áp biết bao. Dù gian nan, dù khổ cực, mình với ta vẫn gắn bó đồng hành bên nhau.

Việt Bắc ru hồn người đọc bằng giai điệu ngọt ngào, tha thiết của nỗi nhớ, sự cân đối nhịp nhàng trong từng lời thơ, bên cạnh những hình ảnh gần gũi mà gợi cảm. Sự kết hợp hài hòa ấy đã đánh thức dậy trong lòng người ý thức trách nhiệm với dân tộc, tình quân dân keo sơn gắn bó, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của con người cách mạng. Việt Bắc với tiếng thơ tha thiết, điệu thơ êm ái là khúc ca trữ tình nồng nàn sôi nổi bậc nhất trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc – Mẫu 5

Những năm tháng hào hùng của dân tộc đã được thơ ca văn học Cách mạng ghi lại trong những trang văn, trang thơ. Trong đó phải kể đến tác phẩm “Việt Bắc” của Tố Hữu là khúc ân tình thủy chung của đồng bào kháng chiến và chiến sĩ. Nổi bật là khổ bốn – đoạn thơ là nỗi nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc trong kháng chiến:

“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Năm 1954, kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lặp lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ và bộ đội rời Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Trong không gian đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những chiến sĩ cách mạng nhà thơ Tố Hữu đã viết bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn trích đã miêu tả sâu sắc cuộc chia ly giữa cán bộ và người dân Việt Bắc gợi lại cuộc kháng chiến anh hùng mà đầy nghĩa tình. Đó là một cuộc chia tay đầy bịn rịn lưu luyến, đầy nghĩa tình sâu đậm.

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”

Đáp lại tình cảm của người ra đi, người ở lại cũng của người cán bộ về xuôi bày tỏ nỗi lòng của mình với người Việt Bắc. Dù xa nhưng người chiến sĩ vẫn luôn một dạ một lòng thủy chung hướng về Việt Bắc:

“Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Cuộc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn giữa người ở lại và người ra đi: “Mình đi, mình lại nhớ mình”. Việc sử dụng hình ảnh so sánh: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” là một hình ảnh đặc sắc. “Nguồn” là nơi bắt đầu của một dòng sông, con suối vì thế lúc nào cũng tràn đầy, ở đây được so sánh với “nghĩa tình” đã cho thấy tình cảm lúc nào cũng dạt dào và đong đầy chất chứa ko bao giờ cạn hao đi. Tiếp đến, “nhớ gì như nhớ người yêu” tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh rất độc đáo so sánh nỗi nhớ của người chiến sĩ với nỗi nhớ “người yêu” một tình cảm cháy bỏng rạo rực luôn dâng trào.

“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

Người chiến sĩ nhớ về cuộc sống sinh hoạt của người dân Việt Bắc nấu bữa tối, khói từ các ống bếp bốc ra nghi ngút. Rồi đêm tới lại bập bùng bên bếp lửa cháy rực cùng nhau quây quần kể chuyện, múa hát. Họ nhớ về:

“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

Nhớ những thứ thân thuộc khi ngày ngày gắn bó, với những địa điểm hết sức nổi tiếng như: “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”, “suối Lê” ở đây chính là suối Lê Nin. Cuối cùng, đoạn thơ khép lại trở về với cách xưng hô mình và ta:

“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

“Đắng cay ngọt bùi” là những khó khăn gian khổ vất vả. “Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…” ở đây muốn chỉ những người chiến sĩ và người dân Việt Bắc đã cùng nhau trải qua những khó khăn, gian khổ, họ đã cùng trải qua. Với việc sử dụng sáng tạo hài đại từ “mình – ta” với lối đối đáp giao duyên trong dân ca. Bài thơ Việt Bắc thể hiện tính dân tộc đậm đà. Cả bài thơ khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trọn niềm tự hào dân tộc.Các câu thơ đậm chất dân tộc, trong việc sử dụng hình thức đối đáp với cặp đại từ nhân xưng “mình – ta”, ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, nhịp thơ uyển chuyển, sử dụng thể thơ dân tộc – thể thơ lục bát… Bài thơ cho chúng ta thấy nghĩa tình của người dân Việt trong những năm tháng khó khăn, gian khổ của cuộc chiến tranh, giành độc lập, tự do cho dân tộc.

Tham khảo thêm:  

Đoạn thơ đã khép lại nhưng lại để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng về hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc với những hình ảnh giản dị, đó là khói của bếp lửa, là hình ảnh suối đèo, bờ tre thân thuộc… Tất cả đã để lại một hoài niệm khó quên trong lòng người ra đi về cái nghĩa, cái tình của đồng bào thân thương cùng nhau chia sẻ miếng cơm, manh áo trong những giây phút ngặt nghèo, từ đó cũng cho thấy sự đoàn kết của hậu phương và tiền tuyến trong giai đoạn lịch sử thăng trầm bấy giờ. Nó cũng là lời nhắc nhở cho thế hệ hôm nay đang được sống trong hòa bình cần trân trọng lịch sử, trân trọng những thành quả của cha ông để lại, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc – Mẫu 6

Tố Hữu từng nói: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên của tâm hồn con người”. Ở đó, những nỗi niềm sâu kín của trái tim mỗi thi nhân được thể hiện một cách độc đáo. Bởi vậy, ta có dịp bắt gặp nỗi nhớ niềm thương da diết của nhà thơ Tố Hữu gửi gắm tới quê hương cách mạng trong khổ bốn trích trong bài thơ “Việt Bắc”.

“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…”

Năm 1954, khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết mở ra trang sử mới của cách mạng dân tộc. Các cơ quan trung ương Đảng dời quê hương cách mạng Việt Bắc – nơi cưu mang, che chở họ trong những năm kháng chiến để trở về xuôi tiếp quản thủ đô. Bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi là chất xúc tác chắp đôi cánh cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm “Việt Bắc” được coi là đỉnh cao thơ ca kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ. Giữa những năm tháng kháng chiến khói lửa, văn học trở thành vũ khí động viên tinh thần yêu nước của nhân dân, nhưng tiếng thơ Tố Hữu không giáo điều, đoạn thơ thấm đẫm nỗi nhớ người ở lại được gợi nhắc bởi người ra đi.

Thể thơ lục bát mềm mại, giọng điệu thiết tha, tâm tình cùng với kết cấu đối đáp quen thuộc thường đi về trong những câu hát giao duyên trong buổi tình tự, hẹn hò, trai gái mở hội lòng gợi bầu không gian đậm chất trữ tình. Cụm từ “mình – ta” cũng trở đi trở lại trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử dựng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng tư bàn việc chung đã mềm hóa nội dung chính trị. Ân nghĩa sâu nặng của đồng bào miền núi – cưu mang, che chở các chiến sĩ suốt mười lăm năm, được khẳng định như lời thề son sắt, mãi vẹn nguyên “đinh ninh, nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. “Mình” với “ta” tuy hai mà một kết hợp cách nói bình dị, sáng tạo nhắc nhớ truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của ông cha làm câu thơ giàu nhạc tính.

Điệp từ “nhớ” gợi nỗi nhớ thương khôn nguôi đậm tô tình đồng chí, nghĩa đồng bào tạo nhịp chảy xuyên suốt dòng kỉ niệm ngọt ngào, ấm áp. Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” đậm hơi thở dân gian:

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”

Nhà thơ mượn tình yêu đôi lứa thân thiết, đằm thắm để nói tình đồng đội với nhân dân một cách tự nhiên, thấm thía. Không gian người cất bước nhớ tới đều thấp thoáng hình bóng của người ở lại, bao trùm đồi núi, lưng nương, khoảng thời gian khi trăng lên, lúc chiều xuống. Nơi đây đất đã hóa tâm hồn người đi xuôi. Hình ảnh luyến lưu người ra đi còn là bản làng, sương, khói – cuộc sống êm đềm, mộng thơ của chốn núi non xa xôi:

“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”

Khắp mọi nơi đều để lại sợi nhớ, sợi thương hình dáng “người thương đi về”. Trong không gian ấm cúng của ánh lửa, giữa thời gian “sớm khuya” gợi sự tảo tần, bền bỉ, sự bền chí, vững lòng trong suốt cuộc chiến đấu. “Người thương” vừa có thể là chiến sĩ, đồng bào cùng lý tưởng, có thể là người mẹ, cô em gái… hình tượng gợi nhiều chiều liên tưởng, mà không khô khan. Tác giả còn liệt kê một số địa danh cụ thể “Ngòi Thia, sông Ðáy, suối Lê” – đó là những không gian vĩnh hằng, vơi đầy con nước như nỗi lòng đong đầy của người đi và kẻ ở những ngày tháng đậm nghĩa tình cùng trải qua bao đắng cay, ngọt bùi. Chính gian khổ đã trở thành chất lửa thử vàng để tình nghĩa quân dân cá nước thêm gắn bó, bền chặt, vượt lên mọi rào cản khoảng cách và thời gian để “ta” đi ta nhớ, “mình” ở mình chẳng thể quên. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Bên cạnh những địa danh Cách mạng, nhà thơ còn tiếp tục kể đến những kỷ niệm đẹp đẽ, đáng nhớ của đời sống thuở còn kháng chiến. Những hình ảnh thân thương, cảm động của tình sẻ chia nồng ấm “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi” đã gợi ra cái nghĩa tình đậm sâu, sự đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó của người Việt Bắc trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn. Cùng với đó, hình ảnh “lớp học i tờ”, “tiếng ca vang đầu núi”, “tiếng chày đêm nện cối” lại đưa dẫn tâm trí người đọc đến một miền ký ức khác của đời sống kháng chiến, đó là những phút giây thanh bình, vui tươi tỏa ra từ niềm hạnh phúc, lạc quan Cách mạng.

Nhà thơ dụng công khắc họa nỗi nhớ niềm thương của cán bộ miền xuôi tới đồng bào miền núi, với sự kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa gần gũi, vừa đượm tính dân tộc, mới mẻ. Âm hưởng thiết tha, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào khiến tư tưởng chính trị không khô cứng mà dễ rung động vào lòng người. Bài thơ “Việt Bắc” chính là dấu son ghi lại nghĩa tình cách mạng thủy chung giữa cuộc kháng chiến trường kỳ gian khó mà huy hoàng của dân tộc.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc – Mẫu 7

Chế Lan Viên đã từng khẳng định: “Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim”. Và tác phẩm của Tố Hữu đã làm rung động lòng người bởi những hình ảnh thân thương gần gũi và triết lý về con người và cuộc đời. Bởi tình người thắm thiết đậm đà không phôi pha theo thời gian. Bài thơ “Việt Bắc” là một trong những minh chứng tiêu biểu cho khả năng lay động trái tim con người tiêu biểu cho tài năng thơ phong cách thơ Tố Hữu – một thi sĩ được mệnh danh là lá cờ đầu thơ ca cách mạng Việt Nam. Và đoạn thơ thứ tư là một trong những khúc ca của nỗi nhớ đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ bạn đọc.

Đoạn thơ tiếp nối những lời nhắn nhủ, tâm tình của người ở lại trao cho người ra đi:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”

Dường như thấu tỏ nỗi băn khoăn do dự của người ở lại, người ra đi đã khẳng định chắc chắn sắt son câu trả lời vang lên như một lời thề. Cặp đại từ “ta – mình” hòa quyện quấn quýt với tấm lòng thủy chung gắn bó. “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” nghĩa là không bao giờ thay đổi, không bao giờ vơi cạn như nước nơi thượng nguồn. Tiếp đến, câu thơ “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” vừa là hình ảnh so sánh đậm màu sắc của văn học dân gian, giản dị mà sâu sắc, lại vừa như lời đồng vọng, nguyện thề trước lời nhắn nhủ thiết tha của người ở “…nhìn sông nhớ nguồn”. Cuộc chia tay của người dân Việt Bắc và con người kháng chiến cũng đầy bịn rịn, chất chứa nhiều nhớ thương nhưng không muốn đã đâm lễ khi những cuộc chia tay trong văn học cổ:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

Có lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa làm nên chiến thắng, đó là cuộc chia tay trong yêu thương và cả trong niềm vui niềm tin tưởng của ngày mai gặp lại.

Theo sau lời khẳng định thủy chung sắt son, nỗi nhớ cảnh là người Việt Bắc của về trong tâm trí người ra đi.

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Theo Chế Lan Viên, thơ Tố Hữu nói các vấn đề bằng trái tim của một người đầy say đắm. Ở đây nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như nỗi “nhớ người yêu” một nỗi nhớ cháy bỏng, nồng nàn, thiết tha, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là khi về cách xa thì nỗi nhớ càng cồn cào da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng từ thiên nhiên và con người Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức, của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết. Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm hai nửa thời gian: vế đầu là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược – nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu. Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm. Vì vậy cảnh và người phút chốc trở lại đầy vơi trong tâm trí của người ra đi.

Theo mỗi điệp khúc “nhớ” là một nét đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị trong những không gian và thời gian khác nhau. Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiếu lấp ló lương, những bản làng bồng bềnh trong khói, trong sương, những rừng nứa bụi tre những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê để vơi trong nỗi nhớ. Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác. Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu, lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chung mô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng. Còn “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” là những địa danh lịch sử, đã từng khắc ghi trong lịch sử Cách mạng – nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt. Sương khói hư vô mờ mịt mơ hồ. Nhưng đó là động thái chuẩn bị trong một thứ ánh sáng đặc biệt hiện ra “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. Sự đối lập giữa cái lạnh và cấm cái trừu tượng là cụ thể đã làm nổi bật tình người ấm áp. Tấm lòng của đồng bào với cách mạng đáng quý đến nhường nào, vì thế mà thương, mà nhớ, thương nhớ đến xót xa. Nhịp thơ mượt mà êm ái như người đọc vào những kỉ niệm bâng khuâng. đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Ở đây thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” nữa mà ấm áp, tươi vui. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực, vừa mộng, vừa đơn sơ của thị vị, gợi rõ nét riêng biệt độc đáo khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống gắn bó máu thịt với Việt Bắc để có cái nhìn toàn diện của nỗi nhớ da diết da và cảm nhận sâu sắc đến thế. Như Chế Lan Viên, một người con cũng từng gắn bó với Việt Bắc đã viết:

“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Trên phông nền thiên nhiên, Việt Bắc bảo làn khói sương hình ảnh con người thoáng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên nhiên. Trong dòng ký ức đứt, nối, mở tỏ, những dòng thơ sau hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên thật thân thương mộc mạc gắn liền với kỷ niệm của một thời không thể nào quên. Việt Bắc để trở thành người yêu vì thương của tác giả và của những con người kháng chiến.

“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”

Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc đi nhiều khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Trong ký ức của người kháng chiến những tháng ngày khó khăn thiếu thốn trở nên thật ấm áp biết bao. Dù gian nan, dù khổ cực, mình với ta vẫn gắn bó đồng hành bên nhau.

Việt Bắc ru hồn người đọc bằng giai điệu ngọt ngào, tha thiết của nỗi nhớ, sự cân đối nhịp nhàng trong từng lời thơ, bên cạnh những hình ảnh gần gũi mà gợi cảm. Sự kết hợp hài hòa ấy đã đánh thức dậy trong lòng người ý thức trách nhiệm với dân tộc, tình quân dân keo sơn gắn bó, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của con người cách mạng. Việt Bắc với tiếng thơ tha thiết, điệu thơ êm ái là khúc ca trữ tình nồng nàn sôi nổi bậc nhất trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại.

Phân tích Việt Bắc đoạn 4 – Mẫu 8

Nỗi nhớ xưa nay luôn là một niềm cảm hứng, một hình ảnh nghệ thuật khơi gợi niềm thi hứng trong tâm hồn biết bao nhà thơ. Đó là một nỗi nhớ “bổi hổi bồi hồi” trong ca dao xưa, một nỗi nhớ thiết tha trong “Tương tư chiều” của Xuân Diệu hay nỗi nhớ “chín nhớ mười mong” trong thơ Nguyễn Bính. Đi vào thơ ca, nỗi nhớ mang rất nhiều sắc thái. Và ta cũng bắt gặp trong thơ Tố Hữu, trong bài thơ “Việt Bắc” một nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy rất riêng, rất đậm sâu, một nỗi nhớ đã được nhà thơ gửi gắm qua từng hình ảnh, ý thơ trong đoạn thơ thứ tư của bài.

Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam, đặc biệt là thơ ca Cách mạng dân tộc. Là một nhà thơ tâm huyết với vốn tài sản văn chương phong phú, đồ sộ, Tố Hữu đã từng phát biểu về quan niệm của mình rằng: “Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng, xác định thật rõ tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân… Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Đọc “Việt Bắc” ông viết năm 1954, ta cảm thấu rõ tư tưởng đó của nhà thơ. Trong tác phẩm, khổ thơ thứ tư nhà thơ thể hiện nỗi nhớ nhung da diết của người ra đi đối với mảnh đất, con người Tây Bắc với biết bao kỷ niệm được coi là một đoạn thơ đặc sắc, được nhiều người quan tâm.

Những câu thơ trong đoạn bốn là lời nhớ thương tha thiết của người ở lại:

“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Nhà thơ Tố Hữu đã khắc họa sắc thái của nỗi nhớ nhung da diết. Nỗi nhớ ấy là tình cảm chính trị. Nỗi nhớ ấy là tình cảm thủy chung ân nghĩa với cội nguồn, sự tri ân và niềm gắn bó với đồng bào Việt Bắc. Chủ đề chính trị thường bị coi là khô khan, tuy vậy nhà thơ Tố Hữu đã khéo léo gửi vào chủ đề ấy rất nhiều cung bậc cảm xúc trữ tình. Hình ảnh so sánh: “Nhớ gì như nhớ người yêu” đã đẩy cảm xúc lên đến tột độ của niềm dâng trào, qua đó mà bộc lộ tình cảm nồng nàn mãnh liệt của nỗi nhớ. Tình đồng chí đồng bào, tình quân dân thắm thiết bỗng mang sắc thái nồng thắm, trẻ trung hệt như tình yêu lứa đôi. Nỗi nhớ thương đã hội tụ hai nguồn cảm hứng trong ca dao: nỗi tương tư và niềm biệt ly. Có lẽ bởi vậy mà lời thơ càng trở nên thiết tha, chan chứa. Điệp từ “nhớ” ở đầu mỗi câu lục tựa như một đôi mắt nhìn sâu vào tâm trí của “mình” để thấy hình ảnh Việt Bắc, đất trời thiên nhiên và con người, hiện ra đầy tình thương mến thương, thân thuộc và nghĩa tình.

Tham khảo thêm:   Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp Dùng cho cá nhân có yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp

Những ý thơ tiếp theo nhà thơ Tố Hữu khéo léo chỉ ra địa chỉ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ dung da diết, dạt dào ấy trở về với một không gian, khoảnh khắc thời gian thơ mộng, trữ tình. Tựa hồ đó là những đêm trăng lên đầu núi, những chiều lắng đọng lưng nương, phảng phất một không gian hò hẹn của lứa đôi. Trong tâm trí người ra đi, hình ảnh Việt Bắc nghĩa tình ấy không chỉ hiện lên trong sương khói mịt mờ mà còn trong những sớm khuya thấp thoáng bóng dáng người thương bên bếp lửa. Bếp lửa, hình ảnh ấy đã gợi ra khung cảnh của một mái ấm nơi những đồng bào Việt Bắc hiện lên trong bóng dáng của những người thân thương nồng đượm nghĩa tình. “Ngòi Thia, Sông Đáy, Suối Lê”, đó là một loạt các địa danh gắn với dấu ấn Cách mạng. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Không chỉ có những địa danh Cách mạng, nhà thơ còn tiếp tục kể đến những kỷ niệm đẹp đẽ, đáng nhớ của đời sống thuở còn kháng chiến. Những hình ảnh thân thương, cảm động của tình sẻ chia nồng ấm “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi” đã gợi ra cái nghĩa tình đậm sâu, sự đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó của người Việt Bắc trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn. Cùng với đó, hình ảnh “lớp học i tờ”, “tiếng ca vang đầu núi”, “tiếng chày đêm nện cối” lại đưa dẫn tâm trí người đọc đến một miền ký ức khác của đời sống kháng chiến, đó là những phút giây thanh bình, vui tươi tỏa ra từ niềm hạnh phúc, lạc quan Cách mạng.

Đoạn thơ chính là những cung bậc cảm xúc khác nhau của đời sống kháng chiến biết bao kỷ niệm đã đọng lại trong tâm trí, ký ức người ra đi. Đó là những dấu khắc ghi không bao giờ phai, những dáng hình thân thuộc sẽ nhớ mãi và trân trọng mãi. Cảm nhận những cảm xúc, những hình ảnh của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ, ta hiểu đó cũng chính là những nghĩ suy, nỗi niềm tâm trạng của chính nhà thơ Tố Hữu và chia sẻ những cảm xúc đó với nhà thơ.

Phân tích Việt Bắc đoạn 4 – Mẫu 9

“Việt Bắc” là khúc hùng ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng. Bài thơ đã khắc họa được tình cảm của đồng bào Việt Bắc dành cho cán bộ cách mạng. Trong bài thơ, nổi bật lên là khổ thơ thứ bốn đã khắc họa nỗi nhớ về con người và thiên nhiên và con người Việt Bắc trong những năm kháng chiến:

“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Để đáp lại ân tình của người ở lại, lời của người ra đi cũng tha thiết không kém. “Ta” và “mình” dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tách rời. Người ra đi khẳng định với người ở lại rằng “lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”. Hai từ “đinh ninh” dường như đã ghim chặt vào lòng người đọc một tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả. Dù hôm nay có chia xa để trở về miền xuôi, thì lòng của người ra đi vẫn không thay đổi. Với việc sử dụng hình ảnh so sánh “nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu” cho thấy tình cảm lúc nào cũng dạt dào và đong đầy.

Kế tiếp, nỗi nhớ của cán bộ chiến sĩ dành cho đồng bào Việt Bắc được so sánh với nỗi nhớ người yêu. Một hình ảnh so sánh thật độc đáo bởi có nỗi nhớ nào mãnh liệt và tha thiết bằng nỗi nhớ của những người yêu nhau. Ca dao xưa từng có câu:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Hay:

“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?”

Thế mới thấy được tình cảm sâu sắc của chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Tuy họ chưa chia xa mà đã nhớ về nhau với tấm lòng sâu sắc đến chừng nào. Câu thơ tiếp theo được chia ra làm hai vế: “trăng lên đầu núi” – gợi thời gian hò hẹn của đôi lứa yêu nha và “nắng chiều lưng nương” – gợi không gian lao động của người Việt Bắc. Câu thơ như gợi ra cuộc sống lao động chứa chan tình cảm yêu thương, gắn bó.

Người ra đi tiếp tục nhớ về những kỉ niệm trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cùng với đồng bào Việt Bắc. Nỗi nhớ về bản làng ẩn hiện trong sương khói mờ ảo. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” gợi về một miền Việt Bắc đầy ấm áp, thân thương của “bếp lửa”. Điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, nhà thơ đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” cùng với hai tiếng “vơi đầy” khép lại đoạn thơ gợi ra những kỉ niệm chứa chan yêu thương: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào. Cuối cùng là với cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người ra đi dành cho những người ở lại hay của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm.

Với khổ thơ này, Tố Hữu đã thể hiện được nỗi nhớ của người ra đi dành cho người ở lại trước những kỉ niệm trong đời sống kháng chiến sẽ mãi lưu lại trong tâm trí của cán bộ chiến sĩ.

Phân tích Việt Bắc đoạn 4 – Mẫu 10

Đến với bài thơ “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu, người đọc sẽ cảm nhận được tình cảm quân dân giữa đồng bào Việt Bắc và những chiến sĩ cách mạng. Và điều đó được thể hiện vô cùng sâu sắc qua khổ thơ thứ bốn của bài thơ.

Tiếng lòng của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồn chồn, xúc động. Tất cả điều đó đã khơi dậy rất nhiều kỉ niệm khó quên trong tâm trí của người chiến sĩ. Nỗi niềm ấy khiến cho cuộc chia ly trở nên bịn rịn, lưu luyến hơn bao giờ hết. Nó như một sợi dây níu kéo người ở và người đi. Mười lăm năm dài đằng đẵng đã gắn kết người với người lại với nhau. Họ đã cùng nhau chung sống, cùng nhau trải qua biết bao khó khăn, chia sẻ cho nhau từng miếng cơm, manh áo để đến giờ phút chia ly cảm xúc trào ra thành câu chữ:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Lúc này, “ta với mình” – “mình với ta” như hòa quyện làm một, cộng hưởng cùng nhau thành một khối thống nhất, không tách rời. Hai chữ “đinh ninh” như một sự khẳng định chắc chắn về tình cảm mà người ra đi dành cho những người ở lại. Đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý không gì có thể thay thế được dù có trải qua bao nhiêu thời gian, hay xa cách về không gian. Nếu nguồn với nước dào dạt bao nhiêu thì ta với mình nghĩa tình sâu nặng bấy nhiêu: “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Phép tu từ điệp cấu trúc kết hợp với điệp ngữ đặt ở đầu câu: nhớ gì, nhớ từng… khẳng định người ra đi không quên bất cứ một hình ảnh nào ở Việt Bắc, ở thiên nhiên Việt Bắc và ở con người nơi đây.

Nỗi nhớ ấy được khéo léo so sánh với nỗi nhớ người yêu:

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”

Việc so sánh như vậy giúp người ra đi bộc lộ một tình cảm mãnh liệt, sâu sắc dành cho đồng bào Việt Bắc. Tình quân dân bỗng trở nên thắm thiết như tình yêu lứa đôi.

Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã chỉ ra những đối tượng của nỗi nhớ:

“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Nhà thơ Tố Hữu khéo léo chỉ ra những đối tượng của nỗi nhớ. Nỗi nhớ về một miền không gian, hay thời gian nào đó đầy thơ mộng, trữ tình. Đó là những “đêm trăng đầu núi”, những “nắng chiều lắng lưng nương” gợi ra không gian, thời gian hẹn hò của đôi lứa yêu nhau. Trong tâm trí người ra đi, hình ảnh Việt Bắc nghĩa tình ấy không chỉ hiện lên trong sương khói mịt mờ mà còn trong những sớm khuya thấp thoáng bóng dáng người thương bên bếp lửa. “Bếp lửa” – hình ảnh gợi ra khung cảnh của một mái nhà ấm cúng nơi những đồng bào Việt Bắc hiện lên trong bóng dáng của những người thân thương nồng đượm nghĩa tình. Họ dường như đã trở thành gia đình, người thân đối với “người ra đi”. Kế tiếp là các địa danh: “Ngòi Thia, Sông Đáy, Suối Lê” – các địa danh gắn với dấu ấn Cách mạng. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Sau đó người ra đi như muốn khẳng định lại một lần nữa: “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm.

Trong cuộc sống đó, người ra đi và người ở lại đã “chia sẻ ngọt bùi” – biết bao cay đắng, ngọt ngào đã cùng trải qua. Với một loạt những hình ảnh gợi ra sự sẻ chia nồng ấm của tình cảm quân dân mà như tình cảm gia đình: “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi”. Họ đã cùng nhau đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó, cùng giúp đỡ nhau trong những năm tháng kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn.

Tóm lại, đọc khổ thơ thứ tư của bài thơ Việt Bắc, người đọc đã thấy được một nỗi nhớ sâu sắc của người ra đi dành cho người ở lại trước cuộc chia ly đầy lưu luyến này.

Phân tích khổ 4 bài thơ Việt Bắc – Mẫu 11

Trong suốt đường đời hay đường thơ, nhà thơ Tố Hữu luôn mang đến cho độc giả những tác phẩm mang đậm chất chính trị và trữ tình. Đến với đoạn trích ‘Việt Bắc”, bạn đọc có thể cảm nhận được những tình cảm mà người miền xuôi dành cho người ở lại trong ngày bịn rịn chia tay. Nhắc nhớ những tình cảm chân thành ấy, người đi đã có những dòng hồi tưởng nhớ về cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc qua khổ thơ trên.

Con người và thiên nhiên Việt Bắc dù trong lao động hay trong chiến đấu cũng luôn có sự gắn bó hòa quyện với nhau. Khổ thơ trên đã lột tả được vẻ đẹp của bức tranh tứ bình Việt Bắc, trong đó, thiên nhiên và con người có mối quan hệ gắn bó, không tách rời. Bức tranh thiên nhiên ấy đã được mở ra từ nỗi nhớ

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”

Nỗi nhớ của nhà thơ đã được tái hiện một cách chân thực và gần gũi nhất. Cảnh và người luôn có sự hòa quyện, gắn bó với nhau. Cho nên, nỗi nhớ da diết mà tác giả gửi gắm, vừa là nỗi nhớ thiên nhiên, lại là nỗi nhớ những con người Việt Bắc bình dị mà thân thiện.

Cảnh thiên nhiên Việt Bắc được tái hiện trong nỗi nhớ của nhà thơ là sự mở đầu của bức tranh tứ bình. Bức tranh thiên nhiên có màu sắc, đường nét, âm thanh, gợi ra cả một miền thương nhớ. Cảnh vật vô cùng đơn sơ, nhưng lại gợi sự gần gũi, thân thuộc. Thường theo quy luật: xuân, hạ, thu, đông, mùa xuân đánh nhẽ ra phải là sự mở đầu cho nỗi nhớ. Nhưng nhà thơ Tố Hữu lại lựa chọn mở đầu nỗi nhớ bằng hình ảnh đại diện cho mùa đông

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Hồi ức của tác giả trở về trong giờ phút chia tay. Làm sao ta quên được hoàn cảnh lịch sử mùa đông năm 1954, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. Bức tranh mùa đông của Việt Bắc được miêu tả với màu xanh bạt ngàn của núi rừng, màu đỏ của hoa chuối như những ngọn đuốc sáng rực cả một nền xanh. Vậy là, mùa đông ở Việt Bắc không còn mang vẻ lạnh lẽo, mà luôn ấm áp, tràn đầy sự sống. Hình ảnh con người Việt Bắc cần cù, hăng say trong lao động cũng được tác giả thể hiện một cách rất tinh tế. Hình ảnh đồng bào Việt Bắc lúc đi rừng làm rẫy, hình ảnh thơ tạo sức gợi nên ý nghĩa hình ảnh con người lao động làm chủ thiên nhiên.

Bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc đã được gợi nhớ theo dòng hồi tường:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Không gian lại được mở rộng ra. Hình ảnh những đồi hoa mơ nở trắng rừng. Màu trắng mang sự tinh khôi, khởi sắc của mọi sự sống đã trải rộng, bạt ngàn trên các núi đồi. Cảnh thiên nhiên gợi ra cho người đọc cảm giác thơ mộng, bâng khuâng. Khoảng thời gian mùa xuân chính là khoảng thời gian vận động trong suốt 4 mùa, gợi sự sinh sôi, nảy nở. Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên vô cùng thơ mộng, trữ tình. Gắn với thiên nhiên, con người Việt Bắc cũng hiện lên rất đẹp. Từ “chuốt” gợi sự tỉ mỉ, cần mẫn, chịu khó của người dân nơi đây khi bắt tay vào công việc.

Mùa xuân lại đi qua, nhường chỗ cho sự xuất hiện của mùa hạ:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Bức tranh gợi cho người đọc có sự cảm nhận cả về thị giác lẫn thính giác. Âm thanh quen thuộc gợi sự xuất hiện của mùa hè là tiếng “ve”. Đồng điệu với nó là màu vàng bạt ngàn của rừng phách, từ “đổ” gợi sự dàn đều, rộng khắp của màu sắc. Bức tranh ấy hiện lên mang vẻ đẹp của sự tráng lệ, lung linh trong sắc vàng của nắng hè. Cảnh thiên nhiên vừa đẹp, mà lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn bởi có sự xuất hiện của bóng dáng người thiếu nữ. Đọc những vần thơ, ta có thể cảm nhận được nét dịu dàng, mềm mại, uyển chuyển của cô gái Việt Bắc. Cô gái đi hái măng giữ rừng tre, nứa trong khúc nhạc rừng, “một mình” nhưng chẳng cô đơn. Thiên nhiên và con người đã hòa quyện và tô điểm cho nhau.

Cảnh rừng đêm trăng thu huyền diệu, thơ mộng, trữ tình chính là câu kết cho đoạn thơ:

Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Không gian được mở ra tràn ngập ánh trăng thanh bình, ánh trăng ấy đang soi sáng khắp núi rừng chiến khu. Dưới ánh sáng của vầng trăng hiền dịu, có đâu đây ngân nga tiếng hát “ân tình” làm xao xuyến lòng người. Tiếng hát là tiếng lòng, bộc lộ tâm hồn thủy chung, tình nghĩa của con người Việt Bắc.

Có thể nói, đây là một trong những khổ thơ nổi bật nhất trong đoạn trích. Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc được miêu tả chân thực và rõ nét, có sự hòa quyện tuyệt vời. Con người- thiên nhiên luôn hòa quyện, gắn bó mà không có sự tách rời. Mỗi câu thơ là một phiên cảnh với những nét màu tài hoa.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 4 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu Dàn ý + 11 bài Phân tích khổ 4 bài Việt Bắc của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *