Bạn đang xem bài viết ✅ Văn mẫu lớp 12: Dàn ý phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ 12 mẫu dàn ý + Sơ đồ tư duy tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Dàn ý phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài bao gồm 12 mẫu dàn ý chi tiết đầy đủ nhất. Qua đó giúp các bạn học sinh nắm vững được kiến thức biết cách viết bài văn hay sáng tạo, đầy đủ các ý để phân bổ thời gian cho hợp lí.

Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ không chỉ lên án sâu sắc các thế lực phong kiến ở miền núi đã tước đoạt quyền sống, quyền hạnh phúc của con người mà còn thể hiện tấm lòng đồng cảm của nhà văn Tô Hoài đối với nhân dân những nạn nhân nghèo khổ, bất hạnh, đáng thương trong xã hội ấy. Vậy sau đây là 12 dàn ý diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa đông mời các bạn đón đọc. Bên cạnh đó các em xem thêm bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị, phân tích A Phủ, kết bài Vợ chồng A Phủ.

TOP 12 Dàn ý diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa đông

  • Dàn ý tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ
  • Dàn ý diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa đông
  • Dàn ý phân tích nhân vật Mị trong đêm mùa đông
  • Sơ đồ tư duy tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ

Dàn ý diễn biến tâm trạng Mị trong đêm mùa đông

1. Mở bài

– Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là thành công rực rỡ của ông trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài.

– Bằng ngòi bút điêu luyện ông đã đi sâu vào từng ngóc ngách của tâm hồn nhân vật, điều đó được thể hiện rõ khi ông miêu tả những diễn biến tâm lí của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.

2. Thân bài

– Mị vốn là cô gái xinh đẹp, giàu lòng yêu thương và tràn trề sức sống nhưng xã hội phong kiến đã vùi dập nàng-> con nợ

– Có những lúc tưởng chừng như Mị muốn kết liễu cuộc đời mình bởi sự khốn cùng ấy

– Tình yêu cuộc sống, sức sống tiềm tàng trong Mị đang âm ỷ trong lòng
khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình nơi đầu vách núi vọng lại , tâm hồn Mị dường như được tưới lên một sức sống

– Mị tìm đến hơi rượu ” Mị uống ừng ực từng bát

– Mị lấy ống mỡ sẵn bỏ thêm vào đĩa dầu

-> Bao nỗi tươi đẹp của quá khứ hiện về trong Mị

– “Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”->hành động bản lĩnh

-> Mị đang vùng vẫy hết mình để đấu tranh cho quyền sống và quyền tự do của đời mình.
Thực tại phũ phàng Mị vẫn không thể tránh khỏi khi bóng dáng tên chồng vô lương tâm A sử

3. Kết bài

Tác phẩm như một thông điệp mạnh mẽ về tinh thần lạc quan, về nghị lực sống, nghị lực vươn lên, đấu tranh với những độc ác, bất công để tìm lấy hạnh phúc,tự do cho cuộc sống chính mình.

Dàn ý tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ

Dàn ý số 1

1. Mở bài

Giới thiệu sơ lược về Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

2. Thân bài

Phân tích tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ

– Giới thiệu sơ lược về A Phủ: một thanh niên có thân phận như Mị, cũng phải ở nhà thống lý Pá Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày kia.

– Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ:

  • Cuộc sống đọa đày trong nhà thống lý Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn. Thời gian đọa đày biến cô trở thành người câm lặng trước mọi sự. Những gì diễn ra chung quanh không khiến Mị quan tâm. Những đêm đầu Mị thổi lửa hơ tay. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước.
  • Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với Mị, nếu không có bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo.

– Thương người cùng cảnh ngộ:

Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang A Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống má đã xám đen lại. Dòng nước mắt ấy khiến Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng trói thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Rồi Mị phảng phất nghĩ gần nghĩ xa : Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết thế?

– Tình thương lớn hơn cái chết:

Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết. Cô cũng sợ nếu mình cởi trói cho chàng trai ấy, bố con Pá Tra biết được sẽ tới thay vào đấy và lại phải chết trên cái cọc ấy… Song có lẽ tình thương ở Mị đã lớn hơn cả sự chết. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A Phủ.

– Từ cứu người đến cứu mình :

  • Khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị đứng lặng trong bóng tối. Song, chính ngay lúc ấy, trong lòng người đàn bà khốn khổ kia mọi chuyện diễn ra rất nhanh. Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Vì ở đây thì chết mất.
  • Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.

3. Kết luận:

  • Qua tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, chúng ta thấy được cả sức sống tiềm tàng ở một người phụ nữ bị đọa đày vả về thể xác lẫn tinh thần, tưởng chừng như mất đi hết đời sống tâm hồn. Phải yêu thương và có một niềm tin mãnh liệt vào con người nhà văn mới có được cái nhìn nhân đạo như vậy.
  • Tô Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị rất tự nhiên, hợp lý và chân thực. Không thấy diễn biến tâm trạng của nhân vật sẽ không hiểu được hành động của nhân vật đó. Hành động cuối cùng của Mị – cởi trói cho A Phủ – có vẻ bất ngờ nhưng lại hợp với quy luật tâm lý con người, quy luật của cuộc sống. Nhà văn không chỉ đem đến cho bạn đọc những nhân vật biết hành động mà quan trọng hơn là vì sao có hành động ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng một nhân vật có sức sống bên trong mãnh liệt đằng sau khuôn mặt vô hồn, vô cảm của Mị. Bởi vậy, có người đã xem đây là “một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam”

Dàn ý số 2

a. Mở bài

  • Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
  • Dẫn dắt vào vấn đề: diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ

b. Thân bài

  • Khái quát chung:
  • Hoàn cảnh sáng tác
  • Tóm tắt

– Giới thiệu sơ lược về A Phủ: một thanh niên có thân phận như Mị, cũng phải ở nhà thống lý Pá Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày kia

Những nội dung chính

– Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ:

Cuộc sống đoạ đày trong nhà thống lý Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn. Thời gian đọa đày biến cố trở thành người câm lặng trước mọi sự. Những gì diễn ra chung quanh không khiến Mị quan tâm. Những đêm đầu Mị thổi lửa hơ tay. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước. Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với Mị, nếu không có bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo.

– Thương người cùng cảnh ngộ: Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang A Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống má đã xám đen lại. Dòng nước mắt ấy khiến Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng trói thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Rồi Mị phảng phất nghỉ gần nghĩ xa: Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết thế?

Tình thương lớn hơn cái chết: Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết. Cô cũng sợ nếu mình cởi trói cho chàng trai ấy, bố con Pá Tra biết được sẽ nói thay vào đấy và lại phải chết trên cái cọc ấy… Song có lẽ tình thương ở Mị đã lớn hơn cả sự chết. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A Phủ.Từ cứu người đến cứu mình:Khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị đứng lặng trong bóng tối. Song, chính ngay lúc ấy, trong lòng người đàn bà khốn khổ kia mọi chuyện diễn ra rất nhanh. Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Vì ở đây thì chết mất. Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình!

Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Nhận xét:Qua tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, chúng ta thấy được cả sức sống tiềm tàng ở một người phụ nữ bị đọa đày vả về thể xác lẫn tinh thần, tưởng chừng như mất đi hết đời sống tâm hồn. Phải yêu thương và có một niềm tin mãnh liệt vào con người nhà văn mới có được cái nhìn nhân đạo như vậy.Tô Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị rất tự nhiên, hợp lý và chân thực. Không thấy diễn biến tâm trạng của nhân vật sẽ không hiểu được hành động của nhân vật đó.

Hành động cuối cùng của Mị – cởi trói cho A Phủ – có vẻ bất ngờ nhưng lại hợp với quy luật tâm lý con người, quy luật của cuộc sống. Nhà văn không chỉ đem đến cho bạn đọc những nhân vật biết hành động mà quan trọng hơn là vì sao có hành động ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng một nhân vật có sức sống bên trong mãnh liệt đằng sau khuôn mặt vô hồn, vô cảm của Mị. Bởi vậy, có người đã xem đây là “một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam”

c. Kết bài

  • Những cảm nhận, suy nghĩ đánh giá chung về vấn đề
  • Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng cá nhân

Dàn ý số 3

a) Mở bài:

– Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm

  • Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng trên văn đàn từ trước năm 1945. Trong kháng chiến chống Pháp, ông chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành quả quan trọng trong sáng tác văn học, nhất là về đề tài miền núi.
  • Truyện Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952), đánh dấu độ chín của phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Tác phẩm viết về cuộc sống tăm tối và khát vọng sống mãnh liệt của người dân miền núi dưới ách thống trị của thực dân phong kiến.

– Giới thiệu chi tiết Mị cứu A Phủ: Mị là nhân vật chính, là linh hồn của tác phẩm. Chi tiết Mị cởi trói cứu A Phủ là chi tiết làm nên mọi giá trị của tác phẩm.

b) Thân bài:

* Khái quát tác phẩm

– Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952 của Tô Hoài. Đây là chuyến đi thực tế dài 8 tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn.

– Giá trị nội dung : “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do.

– Giới thiệu sơ lược về nhân vật A Phủ:

  • A Phủ là một thanh niên có thân phận như Mị, cũng phải ở nhà thống lý Pá Tra để gạt nợ.
  • Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày kia.

* Phân tích tâm trạng, hành động của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ

– Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ:

  • Cuộc sống đoạ đày trong nhà thống lý Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn.
  • Thời gian đọa đày biến cô trở thành người câm lặng trước mọi sự. Những gì diễn ra chung quanh không khiến Mị quan tâm.
  • Những đêm đầu Mị thổi lửa hơ tay, tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước.
  • Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn.
  • Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với Mị, nếu không có bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo.

– Thương người cùng cảnh ngộ:

  • Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang A Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống má đã xám đen lại. Dòng nước mắt ấy khiến Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng trói thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được.
  • Rồi Mị phảng phất nghĩ gần nghĩ xa: Cỡ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết thế?

– Tình thương lớn hơn cái chết:

  • Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết.
  • Cô cũng sợ nếu mình cởi trói cho chàng trai ấy, bố con Pá Tra biết được sẽ trói thay vào đấy và lại phải chết trên cái cọc ấy… Song có lẽ tình thương ở Mị đã lớn hơn cả sự chết.

=> Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A Phủ.

– Từ cứu người đến cứu mình:

  • Khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị đứng lặng trong bóng tối. Song, chính ngay lúc ấy, trong lòng người đàn bà khốn khổ kia mọi chuyện diễn ra rất nhanh.
  • Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi vì ở đây thì chết mất.

-> Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình!

=> Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.

* Đặc sắc nghệ thuật

  • Tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn
  • Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật tài tình
  • Nghệ thuật xây dựng nhân vật sinh động, có cá tính
  • Ngôn ngữ sinh động, sáng tạo, giàu tính tạo hình
  • Nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn
Tham khảo thêm:  

c) Kết bài:

  • Qua tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, chúng ta thấy được cả sức sống tiềm tàng ở một người phụ nữ bị đọa đày vả về thể xác lẫn tinh thần, tưởng chừng như mất đi hết đời sống tâm hồn.
  • Khẳng định sự tài tình trong xây dựng nhân vật, miêu tả diễn biến tâm trạng của Tô Hoài.

Dàn ý số 4

I. Mở bài:

  • Sơ lược về tác giả Tô Hoài.
  • Giới thiệu Vợ chồng A Phủ và tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ.

II. Thân bài:

* Cuộc đời Mị:

  • Số kiếp con dâu gán nợ, sống cuộc đời của một nô lệ, trơ lì về cảm xúc.
  • Làm lụng quanh năm suốt tháng, không ngơi nghỉ, lầm lũi như con rùa trong xó cửa, tủi nhục và đắng cay.

* Tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân đã thức tỉnh tâm hồn ham sống, ham tự do của Mị:

– Tiếng sáo gọi bạn đã làm sống dậy trong tâm hồn Mị những ký ức về một thời con gái tươi đẹp, hạnh phúc bên người yêu, được nhiều trải làng để ý theo đuổi,…

=> Sự thức tỉnh của tâm hồn vốn chai lì vì cái khổ.

– Mị thấy đớn đau, xót xa và tức tưởi cho thân phận con dâu gán nợ khốn khổ của mình => Phản kháng: Uống rượu, thổi kèn lá, mặc đồ đẹp để đi chơi, phát hiện ra mình còn trẻ,…

– Bị A Sử trói, sợ hãi khi nghĩ về cái chết, thấy đau đớn thể xác => Khao khát được sống mãnh liệt.

* Trong đêm cứu A Phủ và giải thoát cho cuộc đời mình:

  • Thờ ơ, tỏ vẻ không quan tâm đến sống chết của A Phủ.
  • Khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị lại nhớ đến cuộc đời đầy vết sẹo của mình, Mị phẫn nộ, Mị căm tức nhà thống lý Pá Tra, những kẻ độc ác, chúng nó bắt “người ta chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.
  • Mị thấy xót xa, Mị thấy thương cảm cho A Phủ, Mị càng nghĩ lại càng thấy không cam lòng, thấy đau đớn thay cho một kiếp người.
  • Giọt nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt của một con người vô tội, một con người khao khát sự sống, tựa như giọt nước tràn ly đã thôi thúc sự phản kháng, lòng trắc ẩn trong tâm hồn Mị.

=> Mị không còn sợ nữa, không sợ cường quyền, thần quyền gì nữa, Mị trở nên mạnh mẽ, như một người hùng cắt dây trói cho A Phủ, Mị bất chấp tính mạng mình để anh được sống. Cứu A Phủ cũng là cứu chính tâm hồn, cứu cuộc đời của Mị.

– Mị đã thật sự phản kháng, Mị vùng dậy chống lại số phận, Mị muốn làm chủ số phận của mình, Mị quyết định bỏ trốn theo A Phủ.

=> Biểu hiện rõ nét nhất về khao khát được sống, niềm ham sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị, một con người vốn tưởng tâm hồn đã trơ lì như gỗ đá, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

III. Kết bài:

– Nêu cảm nhận.

Dàn ý số 5

a) Mở bài

  • Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng trên văn đàn từ trước năm 1945. Trong kháng chiến chống Pháp, ông chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành quả quan trọng trong sáng tác văn học, nhất là về đề tài miền núi.
  • Truyện Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc, là kết quả của chuyến Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952), đánh dấu độ chín của phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Tác phẩm viết về cuộc sống tăm tối và khát vọng sống mãnh liệt của người dân miền núi dưới ách thống trị của thực dân phong kiến. Mị là nhân vật chính, là linh hồn của tác phẩm.

b) Thân bài

* Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ

  • Cuộc sống đoạ đày trong nhà thống lý Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn.
  • Thời gian đọa đày biến cô trở thành người câm lặng trước mọi sự. Những gì diễn ra chung quanh không khiến Mị quan tâm.
  • Những đêm đầu Mị thổi lửa hơ tay, tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước.
  • Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn.
  • Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với Mị, nếu không có bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo.

* Tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ

  • Từ vô cảm đến đồng cảm: những đêm trước nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói đứng, Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm. Đêm ấy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người trong Mị (gợi cho Mị nhớ về quá khứ đau đớn của mình, Mị thấy thương xót cho người cùng cảnh ngộ).
  • Nhận ra sự độc ác và bất công: từ cảnh ngộ của mình và những người đàn bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy chúng nó thật độc ác, thấy người kia việc gì mà phải chết.
  • Hành động cứu người: Mị nhớ lại đời mình, lại tưởng tượng cảnh A Phủ tự trốn thoát. Nghĩ thế Mị cũng không thấy sợ. Tình thương và lòng căm thù đã giúp Mị có sức mạnh để quyết định cứu người và liều mình cắt dây trói của A Phủ.
  • Tự giải thoát cuộc đời mình: đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng…; lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ.

* Ý nghĩa việc miêu tả tâm trạng và hành động của Mị

  • Tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình, hợp lí đã tạo nên sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục.
  • Thể hiện giá trị nhân đạo: phát hiện và miêu tả sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do của người lao động bị áp bức trong xã hội cũ.

* Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật

  • Tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn
  • Miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật tài tình
  • Xây dựng nhân vật sinh động, có cá tính
  • Ngôn ngữ sinh động, sáng tạo, giàu tính tạo hình
  • Nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn.

c) Kết bài

– Lòng thương người và khát vọng tự do của Mị đã tháo gỡ cái vòng nô lệ của chính mình. Nàng thật sự thoát khỏi cảnh áp bức, trói buộc của bọn chúa núi, để cùng A Phủ tự giải phóng.

Dàn ý số 6

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Tô Hoài, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và dẫn dắt vào nhân vật Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ.

2. Thân bài

  • Nhìn những giọt nước mắt của A Phủ, Mị xúc động thấy thương cho A Phủ và nhớ lại nỗi đau chính mình: “Mị trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước lấp lánh đã bò xuống hai hõm má đã xám đen lại; Mị chợt nhớ đến đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia.”
  • Mị với thái độ căm phẫn, nhận thức rõ bản chất độc ác của bọn thống lí Pá Tra: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đền chết, nó bắt mình cũng chết thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng trong cái nhà này; Chúng nó thật độc ác; Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi, người kia việc gì mà phải chết”.
  • Sức sống cùng sự đánh thức tâm hồn, lòng thương người cùng cảnh ngộ đã giúp Mị vượt qua nỗi sợ, Mị quyết định cởi dây trói cho A Phủ và tự giải thoát mình.
  • Mị nhớ lại đời mình, Mị tưởng tượng như có thể một lúc nào đó, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra bảo là Mị đã cởi trói cho nó làm sao Mị không thấy sợ, rồi Mị cũng vụt chạy theo A Phủ.

→ Sức sống luôn tiềm tàng trong tâm hồn Mị dẫn đến sức phản kháng mãnh liệt, táo bạo để giành lại tự do ở Mị. Khi sức sống tiềm tàng trong tâm hồn con người được hồi sinh, nó tất yếu chuyển hóa thành hành động phản kháng táo bạo.

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị của đoạn trích đồng thời đánh giá nội dung, nghệ thuật của câu chuyện.

Dàn ý số 7

I. Mở bài

Giới thiệu sơ lược về Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

II. Thân bài

1. Khái quát

– Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.

– Khái quát trước đoạn kết

Mị là cô gái trẻ đẹp, giàu tài năng của núi rừng Tây Bắc. Vì món nợ cho vay nặng lãi của cha mẹ, Mị buộc phải làm con dâu gạt nợ trong nhà thống lý. Cuộc sống thống khổ của chốn địa ngục trần gian khiến Mị chai sạn, vô cảm. Đêm tình mùa xuân năm ấy, sức sống trỗi dậy, Mị uống rượu, thổi sáo, nhận thức được tuổi trẻ. Mị thèm đi theo những cuộc chơi những đám chơi. Nhưng A Sử đã chặn đứng khát vọng đó của Mị bằng một thúng sợi đay, hắn trói Mị vào cột. Mị không cảm thấy bị trói, tâm hồn Mị vẫn đi theo tiếng gọi đêm tình. Chính sức sống đêm tình năm ấy đã tạo điều kiện cho sự bừng tỉnh nhận thức và cháy bùng lên ngọn lửa giải thoát cho A Phủ sau này. Vì để hổ bắt mất một con bò nên A Phủ phải chịu trói, chờ chết. Cha con nhà thống lí đã trói A Phủ vào cột. A Phủ đang rơi vào tình trạng: chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.

2. Nội dung chính

2.1. Lúc đầu nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột, Mị không mảy may mủi lòng, không cảm xúc “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”.

Tâm trạng Mị lúc đầu là trạng thái VÔ CẢM: Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở lại với kiếp sống chai sạn, băng giá, tê liệt về cả thể xác lẫn tinh thần. Những gì xảy ra xung quanh, Mị không cần biết, không đoái hoài, không quan tâm. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện. Kể cả lúc ra sưởi lửa, bị: “A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước”. Mị vô cảm với chính bản thân mình, không còn cảm nhận được nỗi đau đớn của thể xác, không còn cảm nhận được sự nhục nhã về tinh thần. Thể xác bị chà đạp, tinh thần bị lăng nhục, nhưng Mị vẫn dửng dưng, không tức giận, tủi hờn hay sợ hãi. Khi Mị vô cảm với chính mình cũng là lúc mà Mị chẳng còn thiết tha đến mọi thứ xung quanh. Mị vô cảm luôn với cả đồng loại của mình:“nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Các từ ngữ “thản nhiên”, “cũng thế thôi” cho thấy sự thản nhiên, vô tâm đến lạnh lùng, vô cảm đến tàn nhẫn của Mị. Đắng cay cho Mị – cô đã đánh mất luôn cả tình thương, lòng nhân ái mà bất cứ ở người phụ nữ nào cũng có. Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Lửa cũng cô đơn, Mị cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy thức sưởi ấm cho nhau trong những đêm đông dài lạnh lẽo.

2.2. Sau đó, tâm trạng Mị có sự thay đổi từ trạng thái vô cảm đến đồng cảm bởi giọt nước mắt của A Phủ, bởi sự thức dậy của lòng thương người:

Có nhà phê bình cho rằng: “Khi tình thương chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng thành châu lệ”. Quả đúng như vậy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người trong Mị. Chính nhờ ngọn lửa đêm ấy, Mị lé mắt trông sang và nhìn thấy: “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Dòng nước mắt ấy là nước mắt của kẻ đang hấp hối, nước mắt của một thân phận nô lệ đang bất lực, tủi nhục trước số phận. Nước mắt A Phủ không chỉ chảy xuống đôi gò má sạm đen của anh mà còn chảy vào cả trái tim băng giá của Mị. Trái tim vốn chỉ còn biết giá băng lại được dòng nước mắt ấy của A Phủ chạm đến. Và giọt nước mắt ấy đã làm tan đi giá băng của trái tim Mị, đập vỡ bức tường vô hình cầm tù trái tim Mị; đã thức dậy trong Mị lòng thương người cùng cảnh ngộ. Khi lòng thương người trỗi dậy, là lúc trái tim Mị quặn đau khi “trông người lại ngẫm đến mình”. Mị chợt “nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được”. Nhà văn không nói đến nỗi đau đớn về thể xác của A Phủ, không nói đến nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả điều đó lại hiện lên tất cả qua suy nghĩ của Mị. Mị đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính nỗi đau của mình. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu

Từ đó Mị nhận thức rõ và căm thù sự độc ác của nhà Thống lí Pá Tra: Mị thốt lên “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được sống nhưng lại bị bắt chết. Từ nhận thức về thân phận con người, Mị nguyền rủa cha con nhà thống lí “Chúng nó thật độc ác”. Khi một kẻ đang trong tình trạng mất hết ý thức lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình gánh chịu thì đúng là một cuộc lội ngược dòng của ý thức. Chắc chắn, ý thức này sẽ trỗi dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ không dừng lại ở đây.

Từ lòng thương người và lòng căm thù, Mị nhận ra sự độc ác và bất công. Mị phản kháng mãnh liệt cả trong suy nghĩ và hành động: từ cảnh ngộ của mình và những người đàn bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy “chúng nó thật độc ác”, thấy “người kia việc gì mà phải chết”. Đó là sự nhận thức mang tính lý trí chứ không phải là cảm tính nữa. Mị độc thoại với chính mình: “Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết?” Đoạn văn có sự điệp đi điệp lại một loạt từ “chết” như chính nỗi ám ảnh của Mị về cái chết. Và đặt mình cùng A Phủ lên bàn cân của số phận. Mị thấy, Mị có chết cũng là tất yếu vì “Ta là thân đàn bà”; “Nó đã bắt ta về cúng trình ma nhà nó rồi thì đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ đến A Phủ, Mị thấy phi lí “người kia việc gì mà phải chết”. Trong suy nghĩ ấy, Mị đã nghiêng hết phần sống của mình cho A Phủ. Đó là tấm lòng nhân ái bao la của cô gái vùng cao Tây Bắc. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người thức dậy trong Mị và đang hình thành hành động. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu

Mị tưởng tượng rằng: “như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Nếu như ngày trước Mị đã từng sợ chết thì bây giờ cái chết với Mị không còn là điều đáng sợ nữa. Điều gì đã làm cho Mị không sợ hãi? Phải chăng đó là lúc: Lòng thương người trong Mị đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A Phủ: “Mị lấy con dao chấu nhỏ, cắt từng nút dây mây”. Cuối cùng thì Mị đã cởi trói cho A Phủ. Nhưng hành động cởi trói ấy cũng là hành động mà Mị tự giải thoát cho chính mình. Đây cũng là sự tất yếu của quá trình đấu tranh tâm lý.

2.3. Đoạn văn cuối cùng tác giả diễn tả sự quật khởi của Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức phản kháng quyết liệt:

Đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn tách thành một dòng riêng nằm chơi vơi ở giữa những câu chữ ngổn ngang. Theo “nguyên lý tảng băng trôi” – hình ảnh Mị đứng lặng chỉ là phần nổi còn ẩn sau những câu chữ và hành động ấy của Mị là cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội: sống hay là chết; tự do hay nô lệ; đi hay ở ? Cuối cùng tiếng gọi tự do đã vẫy gọi Mị.

Trong giây phút đối diện với bản án tử hình ấy lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ. Đoạn văn tiếp theo miêu tả hành động Mị toàn những động từ mạnh: “vụt chạy – băng đi – đuổi kịp – đã lăn – chạy – chạy xuống – nói – thở”. Những động từ mạnh ấy đã giúp Tô Hoài nhìn thấy được nội lực và sức phản kháng mạnh mẽ cháy bùng trong Mị. “Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai” (Lỗ Tấn) – nếu đêm tình mùa xuân là “tia lửa nhỏ” thì hành động chạy theo APhủ của Mị thực sự đã trở thành “đám cháy”. Cuối cùng Mị đã có sự lựa chọn đúng đắn khi mà khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, cũng có nghĩa là chạy thoát cuộc đời nô lệ, đến với ánh sáng của tự do. Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là câu nói thể hiện lòng ham sống, khát vọng tự do đến mãnh liệt trong Mị. Sau bao nhiêu năm bị thần quyền, cường quyền đè nặng làm Mị dường như quên đi tiếng nói của đồng loại thì nay Mị đã sống lại. Và câu nói đầu tiên Mị nói được cũng lại là câu nói đòi tự do, đòi được sống. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu

Tham khảo thêm:  

2.4. Nhận xét về sự thay đổi trong tâm trạng của Mị:

Từ trạng thái vô cảm, Mị đã đồng cảm với nỗi đau thân phận của A Phủ. Đây là sự chuyển biến lớn trong tâm lý của Mị dẫn đến thay đổi cục diện của tác phẩm. Qua sự thay đổi này Tô Hoài đã khẳng định được chân lý: “sức mạnh lớn nhất mà nhân loại có được chính là lòng yêu thương con người”. Từ đồng cảm, Mị đã đi đến hành động táo bạo, quyết liệt – “cởi trói cho A Phủ”. Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Đó chính là sức phản kháng mạnh mẽ của nhân vật và cũng là sự mở đường của nhà văn đưa nhân vật tới chân trời mới.

2.5. Miêu tả sự hồi sinh của Mị qua hai chi tiết trên, Tô Hoài đã mang đến những nét mới trong cảm hứng nhân đạo của văn học hiện thực phê phán sau năm 1945.

– “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt được.

– Nhà văn đặt niềm tin vào con người, vào sức vươn dậy của nhân vật Mị. Nếu bức chân dung của những người nông dân trước cách mạng mà ta bắt gặp đâu đó như ở Chí Phèo, lão Hạc, anh Pha, chị Dậu,… tất cả đều bị dồn vào bước đường cùng. Những bức chân dung kia hoàn toàn thiếu ánh sáng của Đảng của cách mạng chiếu rọi, thì nhà văn Tô Hoài lại phản chiếu vào nhân vật của mình ánh sáng của cách mạng và ý thức của thời đại. Nhà văn đã bước qua được những giới hạn của dòng văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng để giải phóng số phận nhân vật.

Mặt khác, việc Mị cởi trói cho A Phủ có thể coi như một chiếc bản lề khép mở hai thế giới. Nó khép lại thế giới tăm tối của cuộc sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài. Nó mở ra một cuộc sống tươi sáng ở Phiềng Sa. Hành động Mị cởi trói cho A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đến với tiếng gọi của Cách mạng là một mốc son chói lọi trong tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Tô Hoài nói riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung. Như vậy tiếng kêu cứu của Nam Cao trước cách mạng đã được Tô Hoài hồi đáp bằng cách giải phóng cho số phận con người, hướng con người đến ánh sáng của tự do.

Thành công của tác giả Tô Hoài trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị đó là: Thành công của Tô Hoài trong việc xây dựng nhân vật Mị đó là: Nhà văn có biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo nhất là những diễn biến tâm trạng đầy phức tạp của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ. Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên đầy ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ…nhà văn đã tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình, hợp lí tạo nên sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục.

III. Kết bài

Nhân vật Mị là linh hồn là hơi thở của tác phẩm. Xây dựng nhân vật Mị là một thành công đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Qua việc miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, Tô Hoài đã khẳng định sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng tự do của nhân dân lao động Tây Bắc dưới sự thống trị của bọn lãnh chúa thổ ty miền núi. Có nhà phê bình đã cho rằng: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại. Chỉ riêng mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Đúng vậy, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Tô Hoài cũng đã làm nên sức sống trường tồn, vĩnh cửu của tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ”.

Dàn ý số 8

1, Mở bài

– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

– Giới thiệu chung về diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ

2, Thân bài

– Tóm tắt khái quát về nhân vật Mị

– Diễn biến tâm trạng Mị trong cảnh cởi trói

+ Lúc đầu: thờ ơ, vô cảm

+ Ngọn lửa bập bùng => nhớ về những đau khổ mà Mị đã trải qua => thương mình, thương những người đàn bà bị chà đạp giống Mị, thương A Phủ

+ Cởi trói cho A Phủ: nhanh, gọn, dứt khoát

3. Kết bài

– Khẳng định giá trị của tác phẩm

Dàn ý diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa đông

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật Mị

– Tác giả: Tô Hoài là nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại, có hiểu biết sâu rộng về phong tục tập quán của nhiều vùng miền. Ông có khoảng thời gian gắn bó máu thịt với mảnh đất Tây Bắc và thương cảm cho con người nơi đây.

– Tác phẩm: Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được ra đời năm 1952 in trong tập Truyện Tây Bắc. Truyện xuất phát từ tấm lòng thương cảm của nhà văn cho vùng đất xa xôi này.

– Nhân vật Mị: Cô gái HMông bị bắt về làm vợ, sống cuộc đời đơn sắc, cam chịu mọi sự đày đọa đã phản kháng, đứng dậy giành lại tự do trong đêm tình mùa xuân với diễn biến tâm lý vô cùng đặc sắc.

2. Thân bài:

– Giới thiệu đôi nét về nhân vật Mị trước đêm tình mùa xuân:

+ Trước khi bị bắt về làm vợ gán nợ cho cha Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo. Cô có người yêu, hồi hộp, khao khát trước những âm thanh hò hẹn của tình yêu. -> Một cô gái đang tuổi trăng tròn, khát khao yêu và được yêu

+ Khi được cha ngỏ ý gả Mị cho nhà thống lý Pá Tra để trừ nợ, Mị không đồng ý, sẵn sàng làm nương ngô trừ nợ cho cha -> Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống.

+ Mới về làm dâu, hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc, Mị tủi nhục đắng cay, uất ức cho số phận mình -> khát vọng tự do, khát vọng sống vẫn tồn tại trong Mị.

+ Đã có lần Mị muốn ăn lá ngón tự tử, nhưng vì thương cha nên cô đành sống tiếp -> có ý chí phản kháng nhưng vẫn đặt sự hiếu thảo lên đầu.

+ Làm dâu vài năm, cha Mị mất, cô cũng không muốn chết nữa. Mị đã quá quen với cuộc sống bị áp bức và chà đạp: ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa -> Mị thấy mình không bằng con trâu, con ngựa của nhà thống lý Pá Tra, chỉ biết làm việc.

=> Cường quyền, thần quyền áp chế khiến Mị cam chịu kiếp sống nô lệ, mất hết sức phản kháng.

– Diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân

  • Tác động của ngoại cảnh: khung cảnh thiên nhiên mùa xuân ở Hồng Ngài vô cùng rực rỡ, nồng nàn (cỏ gianh vàng ửng, chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá như những con bướm sặc sỡ,…), tiếng sáo, tiếng trẻ con nô đùa -> làm Mị hồi tưởng đến quá khứ tươi đẹp, thức tỉnh tinh thần phản kháng trong Mị.
  • Rượu – chất men đã đánh thức phần đời trong Mị. Mị lén uống rượu, uống ực từng bát, Mị say và sống về quá khứ, say sưa trong tiếng sáo gọi bạn tình. -> Nhìn thấy sự đối lập giữa hoàn cảnh khốn khổ của mình và thế giới tươi đẹp ngoài ô cửa sổ, Mị muốn chết nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại. Mị nhận thức sự tồn tại của bản thân thấy phơi phới trở lại.

– Sức sống mãnh liệt của Mị được thể hiện qua đêm tình mùa xuân

  • Cuộc trỗi dậy của Mị: cô lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối, Mị vấn lại tóc, lấy cái váy hoa, nổi loạn muốn đi chơi tết chấm dứt sự tù đày -> sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ và quyết liệt; A Sử trói Mị vào cột, Mị vẫn đê mê chạy theo từng tiếng sáo, tiếng hát -> những cơn đau và trói buộc thể xác cũng không ngăn được sự trỗi dậy trong lòng cô.
  • Hiện thực đau đớn: Mị đang bị trói giữa cột nhà, nỗi đau lấn chiếm lấy thân thể -> hiện thực của cường quyền, thần quyền đang đàn áp Mị.

– Nhận xét:

  • Trong đêm tình mùa xuân, tâm hồn chai sạn của Mị đã sống lại, sức sống mãnh liệt chưa mất đi mà luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc, chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.
  • Mặc dù hiện thực đau đớn vẫn bám víu lấy cô nhưng đây là mầm mống, ngọn lửa cho sự vùng lên, giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho chính mình.

3. Kết bài:

– Đoạn văn khắc họa một cách chân thực hình ảnh người con gái Tây Bắc với sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, luôn khát khao được sống, được tự do.

– Đặc sắc nghệ thuật: khả năng phân tích tâm lí nhân vật, sự am hiểu về phong tục và con người Tây Bắc, ngôn ngữ, lối trần thuật rất tự nhiên, .

– Mở rộng vấn đề.

Dàn ý phân tích nhân vật Mị trong đêm mùa đông

I. Mở bài

Trước khi đi vào phân tích nhân vật Mị trong đêm mùa đông, chúng ta giới thiệu qua về tác giả Tô Hoài.

Nhà văn Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen. Ông sinh ra ở Hà Nội. Ông vừa là chiến sĩ Cách mạng, vừa là một nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm thiếu nhi độc đáo như Dế mèn phiêu lưu ký, O chuột…

Ngoài ra, ông còn có một số tác phẩm nổi tiếng sau Cách mạng tháng tám như Vợ chồng A phủ, Truyện Tây Bắc…

Trong đó, tác phẩm Vợ chồng A Phủ đã gây tiếng vang khi ra đời và đã được chuyển thể thành phim điện ảnh nổi tiếng và được khán giả vô cùng yêu thích. Đặc biệt, những tình tiết xoay quanh nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông đã tạo ấn tượng mạnh tới độc giả lẫn người xem.

II. Thân bài chi tiết

A. Luận điểm 1: hoàn cảnh của Mị trước đêm mùa đông

Phân tích nhân vật Mị trong đêm mùa đông, chúng ta cần biết tâm trạng và hoàn cảnh của Mị trước hôm đó.

Có thể nói trước khi đêm mùa đông định mệnh ấy diễn ra, Mị đang ở trong một hoàn cảnh vô cùng éo le và trớ trêu. Cô bị bắt về làm vợ của A Sử con của Thống lý Pá tra để trả nợ cho gia đình. Từ khi về làm dâu, cô đã bị đối xử như thân trâu ngựa trong gia đình. Cô sống như một bóng ma nơi xó bếp không còn sự sống. Mị sống mà như đã chết. Đã có lần Mị tìm đến lá ngón để chết nhưng vì thương cha nên Mị lại không nỡ. Thế nhưng, dường như trong thể xác của cô gái miền sơn cước ấy vẫn còn mầm mống của niềm khao khát sống và niềm tin và hạnh phúc.

B. Luận điểm 2: hình ảnh nhân vật Mị với cuộc trỗi dậy lần thứ nhất

Để rồi hy vọng và sức sống nhỏ nhoi tiềm ẩn trong Mị vẫn được nhen nhóm và không bao giờ tắt. Nó vẫn có thể bùng lên dữ dội nếu có cơ hội.

Và mùa xuân năm ấy, đất trời như căng tràn sức sống. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn Tô Hoài, bức tranh mùa xuân Tây Bắc rực rỡ và vô cùng tươi đẹp, khiến lòng người không thể náo nức, không thể rạo rực: “ Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét càng dữ. Nhưng trong các làng Mông Đỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng lại nở màu đỏ hay, đỏ thẫm, rồi nở màu tím man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi.

Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu

Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới”.

Những đêm tình mùa xuân khơi gợi trong Mị những ký ức hoài niệm cũ. Mị cũng đã từng có người yêu. Mị cũng đã từng được bao chàng trai theo đuổi. Mị cũng đã từng cùng chúng bạn đi chơi như bao cô gái Tây Bắc xinh đẹp tài năng khác. Khi đang mơ màng về những ký ức cũ, Mị chợ ý thức lại cuộc sống hiện tại. Mị uống rượu say, Mị muốn đi chơi. Mị chuẩn bị quần áo đầu tóc, mặc cho A Sử tra hỏi. Thế nhưng Mị không đi được vì A Sử trói đứng Mị lại ở cột nhà. Hắn không cho Mị đi, hắn trói chặt thân xác Mị. Thế nhưng trái tim, trí óc và tâm hồn Mị lại bay bổng theo tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân ấy.

Trong đêm tình mùa xuân ấy, dù rằng Mị chưa thoát khỏi cuộc sống địa ngục nơi trần gian ấy nhưng trong lòng Mị đã có chuyển biến. Mị không còn là con rùa, con ngựa con trâu lầm lũi nơi xó cửa nữa. Tâm hồn Mị đã trỗi dậy những khát khao, những khoảnh khắc tươi đẹp của tuổi thanh xuân. Mị nhớ tới câu chuyện người đàn bà đã từng chết đứng trong nhà A Sử rồi bất chợt Mị muốn sống, muốn được hạnh phúc hơn bao giờ hết.

Mặc dù ở đoạn văn đêm tình mùa xuân, nhà văn Tô Hoài không miêu tả hành động của Mị mà chủ yếu là thể hiện diễn biến tâm trạng. Tuy nhiên, người đọc vẫn bị cuốn theo từng suy nghĩ của Mị. Để rồi chờ đợi một điều bất ngờ trong đêm mùa đông định mệnh giải cứu A Phủ.

C. Luận điểm 3: hình ảnh Mị trong lần cởi trói cho A Phủ trong đêm mùa đông

Phân tích nhân vật Mị trong đêm mùa đông, độc giả thấy, cuộc sống càng tù túng, càng phẫn uất với thực tại, trong tâm hồn người con gái ấy lại dồn nén những khát khao sống mạnh mẽ và mãnh liệt.

Để rồi khi chứng kiến cái chết sắp đến với A Phủ trong lòng Mị đã trỗi dậy một suy nghĩ vô cùng táo bạo. Mới đầu, Mị cũng dưng dửng trước tình cảnh của A Phủ. Nhưng đến khi bắt gặp giọt nước mắt của A Phủ trong đêm mùa đông lạnh giá đó, Mị đã thức tỉnh. Tâm hồn giá băng của Mị đã được sưởi ấm và hoàn toàn tan chảy. Mị chợt nhớ tới đêm chính mình bị A Sử trói đứng ở cột. Mị thương xót cho mình bao nhiêu thì cũng đau lòng với tình cảnh của A Phủ bấy nhiêu. Sự đồng cảm của Mị và A Phủ chính là sự thấu cảm và tương phân giữa những con người đang chịu chung số phận. Càng thương cho mình cho A Phủ bao nhiêu thì Mị càng căm hận cha con thống lý sôi sục bấy nhiêu. “Trong nhà tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị tưởng như A Phủ biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ thở phè từng hơi, như rắn thở, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi đi…” rồi Mị nghẹn lại”.

Thật khen thay cho sự khắc hoạt nhân vật tài tình của nhà văn Tô Hoài. Từng tình tiết diễn biến của Mị đều khiến người đọc không thể rời mắt và cứ thế bị cuốn theo, cũng bị hồi hộp theo từng suy nghĩ, hành động của Mị. Trước lúc quyết định thực hiện hành động mạnh bạo ấy, Mị cũng đã từng nghĩ nếu A Phủ không trốn được, hoặc Mị sẽ bị cha con thống lý bắt trói chết thay A Phủ ở cái cột ấy. Nhưng rồi, Mị đã không sợ. Bởi tình thương người và nỗi khao khát được thoát khỏi cuộc sống tủi nhục ấy đã sục sôi và mãnh liệt hơn bất cứ thứ gì khác. Tất cả đã thúc đẩy tới việc Mị cởi trói cho A Phủ. Và không dừng lại đó, Mị kịp nhận ra mình cũng phải đi. “Mị đứng lặng trong bóng tối. Trời tối lắm. Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc. Mị thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:

Tham khảo thêm:  

– A Phủ cho tôi đi.

A Phủ chưa kịp nói, Mị lại vừa thở vừa nói: – Ở đây chết mất”.

Hành động đột ngột của Mị thực ra rất hợp tình hợp lý hợp với diễn biến tâm lý của một con người trong cơn bĩ cực. Mị không còn cách nào khác ngoài việc bỏ trốn. Nếu không ở lại Mị sẽ chết.

Thật là một cái kết thỏa đáng làm người đọc thở phào nhẹ nhõm khi phận người tốt cuối cùng cũng được sống tự do và mơ về hạnh phúc. Từ một cô gái bị thế lực tàn bạo và hủ tục xã hội tàn bạo chà đạp đến nỗi sống như một cái xác không hồn, đã trở thành một cô gái mạnh mẽ, vùng lên làm chủ cuộc đời của mình.

Quá trình phân tích nhân vật Mị trong đêm mùa đông càng thấy tài năng trong việc khắc họa và miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật của nhà văn Tô Hoài. Qua từng chi tiết, độc giả cảm nhận được nhân vật Mị sống động, chân thực đến từng chi tiết. Dường như Mị hiện rõ trước mặt độc giả bằng xương bằng thịt.

Mị được độc giả nhớ tới là một cô gái điển hình cho vẻ đẹp của con gái Tây Bắc. Mị xinh đẹp, hiếu thảo và có tài thổi sáo. Mị có tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do và đang ở tuổi thanh xuân phơi phới. Thế nhưng cuộc sống trớ trêu, khiến cô lâm vào hoàn cảnh bi đát, phải làm vợ hờ cho con của thống lý để gán nợ. Cuộc đời của cô rời vào túng quẫn, sống không bằng chết.

III. Kết bài chi tiết

Quá trình phân tích nhân vật Mị trong đêm mùa đông, độc giả cảm nhận được tình yêu sâu sắc mà nhà văn Tô Hoài dành cho mảnh đất Tây Bắc xinh đẹp. Qua nhân vật Mị, nhà văn muốn ca ngợi vẻ đẹp của con người vùng Tây Bắc. Đồng thời, qua số phận của Mị và A Phủ. Tác giả lên án và phê phán chế độ xã hội cũ cùng những hủ tục lạc hậu của vùng núi miền Bắc. Việc nhà văn Tô Hoài quyết định cho nhân vật Mị và A Phủ cùng nhau giải thoát trong đêm mùa đông định mệnh đó, đã nói lên khát khao về cuộc sống tự do hạnh phúc của con người. Đặc biệt là sau Cách mạng tháng tám, bức tranh đời sống con người từ miền xuôi đến miền ngược đã thay đổi. Họ đã có quyền được sống tự do, tự làm chủ cuộc đời của mình.

Dàn ý Mị trong đêm cứu A Phủ

1. Mở bài 

– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:

  • Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam với số lượng tác phẩm đồ sộ trong nhiều thể loại khác nhau từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện dài, hồi ký, tùy bút, kịch. Với Tô Hoài, “viết là một quá trình đấu tranh để nói lên sự thật. Nếu đúng thì không tầm thường, dù phải phá bỏ những thần tượng trong lòng người đọc”.
  • Trong tập Truyện kí Tây Bắc của Tô Hoài, đặc biệt là tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài thể hiện một tình cảm đặc biệt đối với con người miền núi phía Bắc, với những trân trọng, yêu thương và hiểu biết sâu sắc.

– Giới thiệu về nhân vật Mị trong đêm giải cứu A Phủ:

Trong truyện ngắn, nhà văn không chỉ thành công trong việc xây dựng cốt truyện mà còn thành công trong khắc họa tâm trạng nhân vật Mị và được thể hiện rõ trong cảnh cởi trói cho A phủ.

2. Thân bài

– Giới thiệu về nhân vật Mị: vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp và tài giỏi, nhưng vì nợ nần chồng chất mà bị bắt về làm dâu nhà Thống Lý Pá Tra. Vì vậy, phải từ bỏ tuổi trẻ và sống bị dày vò cả về thể xác lẫn tinh thần.

– Lúc trước khi nhìn thấy A Phủ thì thờ ơ, tỏ vẻ không quan tâm.

– Khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, nhớ đến cuộc đời của mình khiến Mị phẫn nộ với nhà thống lý Pá Tra, nhận định chúng là những kẻ độc ác

– Mị thấy xót xa cho A Phủ

– Giọt nước mắt của A Phủ như giọt nước tràn ly đã thôi thúc sự phản kháng trong tâm hồn Mị.

=> Mị không còn sợ cường quyền, Mị trở nên mạnh mẽ, cắt dây trói cho A Phủ,

– Mị đã thật sự vùng dậy chống lại số phận để làm chủ số phận của mình, Mị quyết định đi theo A Phủ.

=> Biểu hiện rõ nét nhất về niềm ham sống, ước muốn tự do của Mị, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng mạnh mẽ của con người dưới ngòi bút của tác giả

3. Kết bài

  • Khẳng định lại ý nghĩa của hành động cởi trói: không phải là hành động bộc phát là kết quả của một quá trình thức tỉnh, kết quả của sự căm phẫn tích tụ nhiều năm trước nỗi đau mà Mị Phải chịu đựng ở nhà thống lý.
  • Đây là hành động tất yếu, là đỉnh cao của một sức sống tiềm ẩn, một khát vọng tự do mãnh liệt và cao đẹp. Đồng thời, nó phản ánh rõ nét một quy luật muôn đời: có áp bức thì có đấu tranh

Sơ đồ tư duy tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ

Bài văn mẫu phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ

Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Tác phẩm ra đời từ kết quả cuộc thâm nhập đời sống đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, kể về cuộc đời khốn khó chăm chiều của người dân vùng cao khi chưa có ánh sáng của Đảng. Đọc Vợ chồng A Phủ, ta không thể quên được chi tiết Mị cắt dây trói cứu A Phủ – một chi tiết làm nên mọi giá trị tác phẩm. Và đúng như ai đó đã từng nói, khi cắt dây cứu A Phủ, Mị đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thông lí Pá Tra.

Câu chuyện về Mị, được bắt đầu từ một hình ảnh rất giàu sức gợi: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra, thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi gai, thái cỏ ngựa, vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rượi”, chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự việc đã hiện lên khá nét. Câu văn cũng như dài thêm ra để độc giả lĩnh hội một cách thấu đáo. Vị trí xuất hiện của Mị đã nói lên tất cả, ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa, thậm chí còn như gắn liền với chúng.

Mị vốn là một cô gái con nhà nghèo – “nghèo từ trong trứng”; cô trẻ giàu lòng yêu đời, ham sống và có tài thổi sáo; Mị còn là một cô gái chăm là một đứa con hiếu thảo… Nhưng, một thứ “nợ gia truyền” của người nghèo, cô phải “đi tù khổ sai” trong nhà thống lí Pá Tra, dưới hình thức làm dâu gạt Biết bao thân phận người dân miền núi, đã bị trả giá bằng cả đời người như bởi hình thức cho vay nặng lãi.

Thời gian đầu, khi mới ở “nhà tù Pá Tra”. Mị đau đớn, uất ức, phản quyết liệt. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cô không thể chấp nhận làm thân phận nô lệ cho nhà giàu. Nhưng, tất cả đã thành định mệnh Nàng Kiều của Nguyễn Du, trước khi dấn thân vào cuộc đời ô nhục, cũng một lần nghĩ đến quyên sinh, mà cũng không thoát khỏi kiếp đọa đày 15 năm đây, Mị còn khổ hơn, bởi món nợ vẫn còn đây, đổ lên đầu bố già.

Ở địa ngục trần gian nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhọc nhất đổ lên đầu. Mấy năm sau khi bố già qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con ngựa (…) biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Đời Mị chí là công việc nối tiếp nhau, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa thì bẻ bắp… thêm vào sự đọa đày thể xác ấy còn là ách áp chế về tinh thần mê tín, thần quyền đã hỗ trợ rất đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ “thuốc phiện tinh thần” như lời Mác nói.

Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” thật không ở đâu mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tự mình coi rẻ mình một cách tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa trong xó chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”.

Như đã nói ở phần đầu, Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, một khát khao làm chủ cuộc sống tính cách ấy, phẩm chất ấy không bao giờ chết, nó chỉ tạm thời bị đè nén xuống. Và ngọn gió để thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị, là hoàn cảnh điển hình: mùa xuân về trên vùng cao: “Hồng Ngài năm ấy, ăn tết vào lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rát dữ dội”. Dầu trong thời tiết khắc nghiệt, mùa xuân về cũng đem đến cho người dân vùng cao một niềm vui sống, được Sức sống của tạo vật và con người như bừng tỉnh: “trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra treo trên các mỏm đá, xòe ra như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng, lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thẫm, rồi sang màu tím man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà…”Sức mạnh của ngòi bút nhân đạo Tô Hoài không chỉ dừng lại ở tình cảm xót thương Mị, ở sự tố cáo tính tàn bạo của giai cấp thống trị, mà còn ở chỗ nhìn ra con người bên trong của nhân vật. Ông đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu của tiềm thức nhân vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng, hơi ấm của niềm ham sống, khát khao hạnh phúc, như lớp cho dày nguội lạnh vẫn còn ủ chút than hồng, lớp than ấy chỉ cần ngọn gió thoáng qua là bùng lên. Tô Hoài đã góp thêm vào truyền thống nhân đạo trong nền văn học dân tộc một tiếng nói có quyền năng và sức tái tạo riêng.

Hoàn cảnh ấy không thể tác động vào tâm hồn Mị. Trong các yếu tố “ngoại của mùa xuân, phải kể đến tiếng sáo: “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai sáo gọi bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi…”. Như vậy, với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của tình yêu, khát vọng ham sống. Trong không khí ấy Mị lại được kích động bởi men rượu: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước sự nổi loạn mà chính Mị cũng chưa ý thức rõ: “Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng (…), còn Mị thì đang sống về ngày trước”.

Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống “phi thời gian” lâu nay của mình. Tiếp đó, lòng ham sống trong cô trỗi dậy mãnh liệt: “Mị thấy phơi phới trở lại”. Phản ứng đầu tiên đến trong tâm trí Mị là một ý nghĩ: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho hết ngay, chứ không thèm nhớ lại nữa…” ý nghĩ về cái chết lúc này, là sự phản kháng quyết liệt với hoàn cảnh.

Trong khi ấy, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ Mị. Nó là biểu tượng của sự sống mà bấy lâu nay Mị đã quên, giờ đang trở lại. Tiếng sáo theo sát diễn biến tâm trạng nhân vật. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài (lơ lửng bay ngoài đường), đã trở thành sự hiện hữu của đời sống bên trong (rập rờn trong đầu).

Từ những chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vào đèn cho thêm sáng. Hành động này có ý nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ.

Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt, cũng là lúc nó bị vùi dập một cách tàn bạo. A Sử bước vào, thản nhiên xách ra một thúng sợi dây, trói đứng Mị vào cột nhà.

Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột nhà ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo, lạnh lùng. Lúc mới bị trói, Mị vẫn còn như sống trong tâm trạng mê say với tiếng sáo ngoài kia. Mị như quên mình đang bị trói, quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút khát khao cuộc sống mãnh liệt, Mị đã “vùng bước đi”. Như thực tế phũ phàng là vòng dây trói đang thít chặt, dẫu mong ước mãnh liệt đến mấy, Mị cũng không vượt qua được. Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan.

“Mị không nghe tiếng sáo nữa, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách (…) Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”- thực tại phũ phàng đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không tự giải thoát cho mình; đồng thời nó cũng hứa hẹn những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.

Sau đêm xuân bị trói đứng, tình cảm u mê của Mị có phần trầm trọng. Trước cảnh A Phủ bị trói đứng, lúc đầu Mị là người hoàn toàn vô cảm, vô hồn, cô vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. A Phủ có là cái xác chết đứng đây, Mị cũng thế thôi. Đôi mắt mở trừng trừng của A Phủ chẳng gợi lên cho Mị một điều gì. Nhưng như đã nói ở đoạn trên, khát vọng đi theo tiếng gọi tự do hãy còn đó hồn Mị. Không phải ngẫu nhiên, hình ảnh ngọn lửa được tác giả lặp đi lặp nhiều lần trong một đoạn văn miêu tả tâm lí nhân vật khá sâu sắc, tinh tế.

Nhưng, cái gì đã khiến Mị trở lại với con người thật của mình? Một lần trở dậy, “ngọn lửa bập bừng sáng lên, Mị hé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ : vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai gò má đã xám đen lại”. Chao ôi! nước mắt. Cái giọt đau, giọt khổ ấy đã làm Mị “chợt nhớ lại” việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được; Mị lại nhớ đến người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ chỉ đêm nay là chết thôi. Tết năm trước đã thế, lần này, trí nhớ của Mị lại loé lên cách vô thức. Và như một phản ứng dây chuyền, nó nối lại ba số phận. Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. Cô đã đứng lên trong một ý thức chấp nhận sự hi sinh về mình: lấy con dao nhỏ cắt cho A Phủ. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị nhân văn. Hành động của Mị, tuy không thể đoán trước nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật. Mị nguyện làm rẫy, chịu khổ để trả nợ cho bố, đã toan chết để tìm sự giải thoát thì lẽ nào lại không dám chết để cứu một con người vô tội?

Nhưng, tính cách Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên thú vị. Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũng chạy theo. Một kết cấu chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình ? và “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống núi”.

Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức: Nhận thức tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội và nhận thức “người” cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng “mình” cho nên, có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thống lí Pá Tra. Điều đó hoàn toàn đúng với lí luận cũng như thực tiễn thời đại. Dòng đầu liên của tuyên ngôn các Đảng cộng sản F. Ăng ghen từng khẳng định: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp, áp bức bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng mạnh mẽ.”

Xem thêm bài văn mẫu: Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Dàn ý phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ 12 mẫu dàn ý + Sơ đồ tư duy tâm trạng Mị trong đêm cứu A Phủ của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *