Bạn đang xem bài viết ✅ Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt 2 Dàn ý & 9 bài phân tích bà cụ Tứ ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân tuyển chọn 9 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi . Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ

Với 9 bài phân tích bà cụ Tứ cực hay dưới đây các em có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình. Hi vọng tài liệu này sẽ là người bạn tốt đồng hành cùng bạn trong suốt quá trình học và ôn thi THPT Quốc gia sắp tới. Bên cạnh đó để nâng cao kỹ năng viết văn các em xem thêm: phân tích nhân vật A Phủ, phân tích bà cụ Tứ, phân tích cảnh vượt thác sông Đà, phân tích hình tượng người lái đò.

Phân tích bà cụ Tứ trong Vợ nhặt của Kim Lân

  • Dàn ý phân tích nhân vật bà cụ tứ
  • Phân tích nhân vật bà cụ Tứ học sinh giỏi
  • Phân tích bà cụ Tứ trong Vợ nhặt
  • Phân tích nhân vật bà cụ Tứ (4 Mẫu)
  • Phân tích bà cụ Tứ (4 Mẫu)

Dàn ý phân tích nhân vật bà cụ tứ

I. Mở bài

  • Kim Lân là một cây bút có tài, các sáng tác của ông hướng vào chủ đề chính là nhưng người nông dân và cuộc sống ở nông thôn Việt Nam.
  • Tác phẩm Vợ nhặt: nằm trong tập truyện Con chó xấu xí, là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, là sự ngợi ca tình người, tình mẫu tử, khát vọng sống.
  • Bà cụ Tứ là đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ Việt Nam.

II. Thân bài

1. Giới thiệu nhân vật

  • Là một bà mẹ nghèo, già nua (lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già), là dân ngụ cư.
  • Ngoại hình: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.

2. Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ

– Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch “bà lão phấp phỏng”.

– Bà không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên: “quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “sao lại chào mình bằng u?”

– Sau tất cả sự ngạc nhiên, bà đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoèn đi”:

  • Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ “Chao ôi”, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm làm nồi … còn con mình thì …”.
  • Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi không thể lo được chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu đáo.
  • Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa con trai: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được … ”

– Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “các con đã phải duyên … u cũng mừng lòng”, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về.

– Bà cụ Tứ dần lo lắng cho cuộc sống các con sau này: “chúng nó có nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này không”, “vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”

– Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng:

  • Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”,
  • Nói về tương lai với niềm lạc quan “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”
  • Bảo ban các con làm ăn: “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà cho xem”.

– Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi sinh vì hạnh phúc của con. Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.

III. Kết bài

  • Cảm nhận riêng về nhân vật bà cụ Tứ.
  • Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lí nhân vật nhuần nhuyễn, ngôn ngữ giản dị, gần gũi.
  • Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ học sinh giỏi

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh bà cụ Tứ.

Bà cụ Tứ được Kim Lân khắc họa trong tác phẩm là một phụ nữ nông dân nghèo khổ. Ngay từ cái tên, người đọc đã thấy được về xuất thân của nhân vật. Sống trong xã hội Việt Nam xưa cuộc đời bà đã phải chịu nhiều đắng cay vất vả. Cả cuộc đời bà mưu sinh cực nhọc để nuôi con. Đến khi già cả vẫn không được hưởng cuộc sống sung sướng, mà lại phải chịu cảnh đói kém hoành hành. Nhân vật không xuất hiện từ đầu tác phẩm mà chỉ đến khi Tràng đưa người vợ nhặt về nhà, nhà văn mới khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ: “Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Đó là hình ảnh của một bà lão, dáng đi thì chậm chạp, đôi mắt kèm nhèm. Bà lão vừa đi vừa ho húng hắng, miệng còn lẩm nhẩm tính toán một cái gì đó.

Nhưng đặc biệt hơn cả là tình mẫu tử thiêng liêng của bà cụ Tứ. Điều đó được thể hiện qua tình huống Tràng dẫn một người phụ nữ lạ mặt về nhà. Khi nhìn thấy có người lạ mặt trong nhà, tong lòng bà cụ nổi lên biết bao nhiêu là cớ sự thắc mắc. Những câu hỏi liên tiếp vang lên trong suy nghĩ của bà: Quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “Sao lại chào mình bằng u?”. Rồi bà quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu, để chờ Tràng giải thích. Đến khi bà cụ “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự” rồi thì bà im lặng. Những dòng suy nghĩ chảy trôi, quẩn quanh liên tục bên ngoài cái sự việc con bà lấy vợ. Nhưng đứng trên vai trò là một người mẹ có tấm lòng thương con sâu sắc, bà hiểu được chuyện anh Tràng lấy vợ âu cũng là chuyện hợp tình hợp lý, bởi Tràng cũng đã đến tuổi dựng vợ. Thương con, bà lại càng xót xa: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Việc lấy vợ trọng đại cả đời, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá” – đó phải chăng là sự mặc cảm của người mẹ khi không thể lo cho con tử tế.

Không chỉ thương con trai, bà cụ Tứ lại còn thương cả con dâu. Điều đó đã thể hiện một tấm lòng nhân văn sâu sắc. Bà đồng cảm với hoàn cảnh của cô vợ nhặt: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà lão đã vui vẻ chấp nhận người con dâu mới: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà đã không ghét bỏ cô vợ nhặt, mà còn ân cần hỏi han: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ chân”. Bà còn an ủi con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này…”.

Nhưng hiện thực cuộc sống khiến bà không khỏi lo lắng: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”, “bà nghẹn lời không nói được nữa”. Đặc biệt là chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ. Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của một người mẹ.

Không chỉ vậy, bà cụ Tứ còn là người truyền ngọn lửa niềm tin vào tương lai đến các con. Sáng hôm sau, trong bữa cơm đầu tiên sau khi Tràng có vợ. Dẫu rằng mâm cơm ngày đói kém trông thật thảm hại với “mớ rau chuối thái mỏng và cháo loãng” thế nhưng không khí trong nhà vẫn rất vui vẻ đầm ấm. Bà cụ Tứ chỉ toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui vẻ sau này. Đặc biệt người mẹ nghèo khó còn chiêu đãi con trai và con dâu bằng một nồi “chè khoán”, mà thực tế đó là là cháo cám để mừng tân hôn. Trong khi Tràng thì “chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, còn cô vợ nhặt thì “đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại”. Thì bà cụ Tứ vẫn tươi cười vẫn tươi cười, đon đả: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Tấm lòng của một người mẹ cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên các con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức.

Tóm lại, nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt” là một hình tượng tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam xưa. Cả cuộc đời hy sinh sinh vì con cái, yêu thương con sâu sắc bằng những tình cảm thấu hiểu, bao dung và vị tha. Dù sống trong sự nghèo khó thế nhưng với sự từng trải của mình bà vẫn giành lấy được những sự lạc quan, vui vẻ trong cuộc sống, trở thành điểm sáng tinh thần cho những đứa con.

Phân tích bà cụ Tứ trong Vợ nhặt

Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam. Những tác phẩm của ông thường viết về nông thôn và những con người quê lam lũ, hồn hậu, chất phác, giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói 1945 đồng thời khẳng định, ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc, khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai của những người lao động. Trong đó nổi bật là nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn khắc hoạ sinh động, tinh tế, bà hiện lên với hình ảnh một người mẹ nghèo khổ, trải đời, giàu tình yêu thương và có nội tâm phong phú, phức tạp.

Nếu ai đã từng đọc qua giọng văn Ngô Tất Tố, Nam Cao, chúng ta sẽ thấy đồng cảm với cuộc sống cơ cực của những người dân lao động. Họ bị bần cùng và bức bách khiến họ bị tha hoá về nhân phẩm. Nhưng có những con người trong nỗi cơ cực ấy vẫn liều lĩnh chấp nhận thêm những khốn khổ cùng cực, vì tình yêu, tình người, lòng nhan hậu. Đó là chị Dậu, là cụ Tứ, là anh cu Tràng.

Trong những tháng ngày u ám vì nạn đói, cái chết có thể rơi xuống bất kì ai thì anh cu Tràng lại làm một việc tưởng như bị “điên” đó là lấy vợ, tuy nhiên chỉ có mẹ anh- bà cụ Tứ mới là người thấm thía hết cơ sự.

Bà cụ Tứ là mẹ anh cu Tràng. Hình ảnh bà được khắc hoạ trong tác phẩm đó là trong bóng hoàng hôn chiều, người mẹ nghèo khổ “húng hắng ho”. Trước mái tranh nghèo trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, người mẹ nghèo lại càng thêm cơ cực.

Vốn dĩ việc làm nhà, cưới vợ là một chuyện hệ trọng trong cuộc đời mỗi con người, cần có sự đóng góp ý kiến của cha mẹ – những người đi trước. Thế nhưng sự kiện Tràng lấy vợ lại đi ngược lại với những lẽ hiển nhiên đó, việc Tràng lấy vợ được thông báo đột ngột khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên, ban đầu chỉ là sự thắc mắc thái độ sốt sắng của thằng con trai, bà cụ Tứ hấp háy hai con mắt nhìn Tràng chậm chạp hỏi: Có việc gì thế vậy? Khi Tràng vẫn thong thả chưa trình bày câu chuyện, bà cụ phấp phỏng bước theo con vào nhà. Kim Lân đã rất khéo léo khi dùng hai từ “phấp phỏng” để diễn tả sự lo lắng và sự nhẫn nại chờ đợi của bà cụ. Hành động “đứng sững lại” thể hiện sự ngạc nhiên đã lên cao trào, nhà văn đã thấu suốt những nỗi băn khoăn của nhân vật, rất nhiều câu hỏi đang xoay quanh bà: Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà ai thế nhỉ? Những câu hỏi cứ dồn dập được đặt ra mà không có câu trả lời. Mọi thắc mắc xoay quanh sự xuất hiện của người đàn bà trong ngôi nhà vốn dĩ chỉ có hai mẹ con bà sống. Đáng thương hơn bà cụ lại tưởng mình nhầm lẫn: bà cụ hấp háy mắt cho đỡ cay, nỗi băn khoăn của bà vẫn không được giải bày, bà lão quay sang nhìn con ra chiều không hiểu. Điều này thật dễ hiểu, trong sự việc này bà cụ hoàn toàn bị động, mọi việc đã rồi mà bà không hay biết điều gì cả.

Khi con trai bà vẫn trì hoãn bí mật, mời mẹ vào nhà ngồi, bà cụ “lập cập” bước vào nhà. “Lập cập” là sự run rẩy của người già hay là sự thấp thỏm, lo sợ những điều không hay xảy đến. Với một người mẹ cả đời lam lũ này còn gì khủng khiếp sẽ xảy đến với bà nữa đây. Kim Lân đã khơi dậy lên trong lòng người đọc một sự cảm thương sâu sắc với hai từ “lập cập”.

Tham khảo thêm:   Toán lớp 4 Bài 53: Em làm được những gì? Giải Toán lớp 4 Chân trời sáng tạo Tập 2 trang 27

Có lẽ bà cụ Tứ không nghĩ được rằng người đàn bà đang ngồi kia chính là vợ của con trai, là con dâu của bà. Có lẽ cảm thấy sốt ruột trước thái độ của bà cụ mà Tràng phải lên tiếng: “kìa nhà tôi nó chào u”. Vậy mà bà cụ vẫn không hiểu được đầu đuôi câu chuyện, làm sao một người mẹ nghèo khốn khổ ấy có thể tin rằng con trai mình có vợ. Bà cũng hiểu rõ hoàn cảnh đáng thương của con trai mình, vừa nghèo, vừa xấu, vừa cục mịch, làm gì có ai để ý tới chứ đừng nói lấy vợ, trong giai đoạn nghèo khó “ốc chẳng mang nổi mình ốc mà còn mang cọc cho rêu” ai có thể nghĩ tới chuyện cưới xin được. Nỗi băn khoăn của bà cụ từ đầu tới giờ mới được gỡ khi Tràng dõng dạc vắn tắt trình bày cơ sự :” nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau. Chẳng qua nó cũng là cái số cả. Và thế là bà cụ cúi đầu nín lặng. Không phải là im lặng mà là im lặng nín nhịn không thể nói được điều gì. Lúc này bà đã hiểu hết sự tình. Nhà văn Kim Lân đồng cảm với những suy tư, những tủi hờn xót xa trong lòng bà cụ: “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con của mình. Những nỗi ai oán, xót thương, những thổn thức trong lòng bà chỉ nhà văn Kim Lân mới hiểu được. Thì ra suy nghĩ của bà cụ không đơn giản như chúng ta nghĩ, cái nghèo đói không làm bà cụ chấp nhận cuộc sống buông tuồng, bà đau đá trong lòng vì không thể hoàn thành trách nhiệm của người mẹ đó là chăm lo cho hạnh phúc của con trai mình một cách chu đáo. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này”. Còn bản thân cụ Tứ, khi đứa con độc nhất của mình cưới vợ là những lời tự trách, là tiếng khóc nghẹn ngào của người mẹ nghèo khổ. Tuổi già hạt lệ như sương, nhưng trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ vẫn rỉ xuống hai dòng nước mắt. Đó là những giọt nước mắt tủi phận cùng cực, đó là những giọt nước mắt xót thương cho sự khốn khó của chính mình. Đó đồng thời cũng chính là giọt nước mắt của lòng tự trọng, những giọt nước mắt giữ nhân cách của con người, những giọt nước mắt ấy là minh chứng thể hiện tình yêu của mẹ đối với các con.

Bà cụ Tứ hết sức lo lắng cho cuộc sống của các con. Chỉ một câu đáp: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Băn khoăn ấy có cơ sở cả, xóm ngụ cư của cụ đang sống trong những tháng ngày lầm than do cơn đói hoành hành, việc giữ cho mình được mạng sống còn khó huống chi cu Tràng còn đèo bòng. Ở cái tuổi gần đất xa trời, đáng lẽ bà đã được nghỉ ngơi, nhưng vì cái nghèo đói, khổ cực mà trong lòng bà vẫn đau đáu một nỗi niềm lo lắng cho các con.

Hình ảnh bà cụ Tứ chỉ xuất hiện nửa sau tác phẩm, có thể người ta sẽ nghĩ bà cụ xuất hiện với dáng vẻ cay nghiệt thường thấy ở các bà mẹ chồng, nhưng cụ xuất hiện với sự nhã nhặn trong cách cư xử đặc biệt là chuỗi diễn biến tâm trạng nhân vật khắc hoạ nhân cách cao đẹp của người phụ nữ. Trước mắt chúng ta đó là hình ảnh một người mẹ thương con vô bờ bến, những nỗi lo, những suy nghĩ trong lòng cụ được nhà văn ghi lại một cách chân thật, xúc động.

Qua hình tượng nhân vật bà cụ Tứ với biết bao tâm trạng xen lẫn với các tình huống con trai “nhặt được vợ”, nhà văn Kim Lân đã làm nổi bật lên tấm lòng của người mẹ nghèo khổ nhưng giàu lòng vị tha, nhân hậu. Với những tình cảm mà bà cụ đã dành cho con trai và con dâu, chúng ta càng thấu hiểu hơn về tấm lòng của người mẹ và cũng chính điều đặc biệt này khiến nhân vật bà cụ Tứ hiện lên chân thật và cảm động hơn đối với người đọc. Hình ảnh người mẹ với tình yêu thương con ấy, như một ngọn nến thắp sáng cuộc đời tối tăm của những kiếp người nghèo khổ bị cùng cực.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ (4 Mẫu)

Nhân vật bà cụ Tứ – Mẫu 1

Vợ nhặt là một tác phẩm ưu tú của Kim Lân và cũng là một thành tựu xuất sắc của nền văn học Việt Nam đã viết về một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc: nạn đói khủng khiếp năm 1945. Song câu chuyện ấy của Kim Lân không bị bụi thời gian phủ mờ, làm khuất lấp mà ngược lại cho đến bây giờ Vợ nhặt vẫn như một viên ngọc sáng lung linh. Thành công của Kim Lân trong thiên truyện không chỉ là việc chọn được một tình huống lạ, độc đáo mà còn là xây dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ – một hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong nạn đói 1945.

Bà cụ Tứ là một nhân vật phụ xuất hiện ờ phần gần cuối truyện. Nhà văn Kim Lân không có ý định đưa bà cụ Tứ làm nhân vật chính, miêu tả hình ảnh bà cụ Tứ như một hình tượng điển hình. Nhưng thiếu nhân vật này thì Vợ nhặt chắc sẽ không còn hấp dẫn hoặc sẽ hấp dẫn theo một cách khác. Bà cụ Tứ đã giữ cho truyện Vợ nhặt có chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Viết Vợ nhặt với tình huống anh Tràng “nhặt” được vợ, nhà văn Kim Lân muốn thể hiện số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám và lòng khát khao hướng tới hạnh phúc của họ. Còn xây dựng nhân vật bà lão, Kim Lân dường như muốn hướng người đọc nhìn việc Tràng lấy vợ ở một khía cạnh khác, một góc độ khác. Càng đi sâu vào tác phẩm, càng ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng người mẹ nông dân nghèo trước Cách mạng. Có thể điều này nằm ngoài chủ ý của tác giả song sự kính trọng người mẹ của đứa con, nỗi khổ cực đè nặng lên đôi vai bà cụ suốt cả cuộc đời làm nên sức sống lâu bền của nhân vật bà cụ Tứ.

Ai đó đã từng nói: “sống với nhân vật tựa như được sống với thế giới tâm hồn còn thật hơn cả con người thật”. Đến với nhân vật bà cụ Tứ nhiều lúc ta có cảm giác như bà đang “hấp háy cặp mắt”, chầm chậm bước ra từ căn nhà dúm dó, tồi tàn của mình mà đi vào trang truyện, chứ không phải do dùng công xây dựng của tác giả. Bà cụ Tứ bước vào tác phẩm với cái dáng vẻ: “lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Chao ôi! biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến! Ta gặp lại dáng hình gầy gò còng còng vì sương gió cuộc đời của người đàn bà Việt Nam quen thuộc. Nhà văn sử dụng từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Nó vừa cho thấy sự lẩm cẩm, chậm chạp của bà lão lại vừa mang theo đó nỗi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của cậu con trai. Bà bước vào trong nhà, đến giữa sân, khi thấy một người phụ nữ đang ngồi ở đầu giường của con mình, bà lão rất sững sờ, đứng lại và càng ngạc nhiên hơn. Hàng loạt câu hỏi được đặt ra ngay trong đầu óc già nua của bà: “Quái lạ sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường của thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? không phải con cái Đục mà – Ai thế nhỉ?” Bà làm sao mà ngờ được, giữa những tháng ngày đói kém, thóc gạo không có nổi để ăn vậy mà con bà đã dẫn không về một người vợ. Bà lão cúi đầu nín lặng, băn khoăn mãi và bây giờ “bà lão hiểu rồi”. “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình”. Khi biết con mình đã có vợ là một sự thật, bà cụ Tứ rất mừng. Mừng thế là từ nay Tràng đã có vợ. Cái điều mà cụ một đời mơ ước như một cái gì vô cùng khó khăn xa vời ấy bỗng nhiên đã đến một cách bất ngờ và giản dị. Nhưng đằng sau những điều mừng vui ấy là nỗi buồn tủi. Đó là nỗi buồn tủi của một người mẹ đã không tự mình lo liệu được chuyện lấy vợ cho con. Đó là cái tủi đã để cho con mình phải lấy vợ theo cách thức như vậy; không cưới xin, không dạm hỏi, không một nghi thức nào vẫn thường được tôn trọng trong những dịp thiêng liêng của đời người như thế ở nông thôn ta ngày xưa. Cái tủi ấy là cái tủi của một người mẹ nghèo. Càng xót xa, tủi phận mình, bà cụ Tứ càng thương con trai, “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm ra, những mong sinh con đẻ cái để mở mặt sau này. Còn mình thì…” Đọc những dòng này ta như có cảm giác trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi ấy đang rung lên một nỗi đau đớn, xót xa, ai oán, tủi cực. Việc trọng đại nhất của cả đời con lẽ ra “làm được dăm ba mâm thì phải” nhưng “nhà mình nghèo quá” nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ và không thực hiện được. Từ chỗ thương con trai, tủi phận mình rồi bà lại thương con dâu: “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ…” Vừa mừng, vừa tủi lại vừa lo lắng trước sự kiện con trai bà lấy vợ, bà cụ lo một nỗi lo rất chính đáng của con người đã nếm trải cả một đời cực nhọc đớn đau “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.

Trong trận đói khủng khiếp vô cùng ấy, chỉ khoảng một năm mà “từ Quảng Trị ra đến Bắc kỳ có hơn hai triệu người chết đói”, Tràng lại đi dẫn không một người phụ nữ về nhà. Ngay đến bản thân mình cũng đang bị cái đói rình rập, đe doạ, không biết cái chết rồi sẽ đến lúc nào, “cứ mỗi sáng lại thấy vài xác người chết còng queo vì đói bên một vài lều chợ”. Ấy vậy mà bây giờ Tràng lại có thêm một miệng ăn. Có cô gái ấy thì viễn cảnh bị chết đói sẽ đến với họ nhanh hơn. Bằng kinh nghiệm, vốn sống và sự từng trải, bà lão hiểu rằng cô gái kia chỉ tìm đến con bà vì miếng ăn mà thôi. Một người mà chỉ ngồi mơm mớm ở mép giường, tay ôm khư cái thúng thì rõ là mang dáng vẻ của một người ăn nhờ ở đậu chứ chẳng hề có ý định sống trọn đời, trọn kiếp nơi đây. Biết vậy song bà không hề tỏ ra sẽ đuổi người phụ nữ kia đi mà ngược lại bà còn thương xót thị bởi sự đồng cảm giữa những người phụ nữ với nhau. Bà cụ thương cho số phận con người chấp nhận đánh mất cả nhân phẩm vì miếng ăn, chấp nhận làm tấm thân cỏ rác ngay giữa đường giữa chợ để người ta nhặt về nhà như nhặt thứ gì đó vậy. Bà “nhẹ nhàng” nói với “nàng dâu mới”: “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…Hai chữ “mừng lòng” ấy chứa đựng biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến và cảm thông. Chỉ một câu nói ấy thôi đã đủ để trút đi gánh nặng đang đè lên đôi vai con trai bà. Nén nỗi lo lắng trong lòng, bà cụ khuyên răn con bằng những lời lẽ thấm đẫm ân tình: “Nhà ta thì nghèo con ạ, vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Bà nói với con dâu những lời của một con người từng trải, vừa lo lắng vừa thương xót: “năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…” Đến đây bà cụ không nói được nữa bỗng trở nên nghẹn ngào, hai dòng nước mắt của người mẹ già nua cứ ròng ròng chảy xuống. Đó là những dòng nước mắt của một bà mẹ nông dân nghèo đã chịu nhiều cực khổ, đớn đau. Những giọt nước mắt ấy càng cho thấy bà cụ Tứ có một tấm lòng thật nhân hậu, bao dung, giàu tình yêu thương tha thiết và cảm thông cho những người cùng cảnh ngộ. Ngửi thấy mùi đốt đống rấm đâu đây để xua đi mùi tử khí, bà cụ lại chợt nhớ đến ông lão, nhớ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời cực khổ ở phía trước mà lo: “không biết vợ chồng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?. Nghệ thuật “biện chứng tâm hồn” đã thể hiện thật nhuần nhuyễn trong từng biến thái tâm lý tinh tế, phong phú của người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống, có sự am hiểu nông thôn và người nông dân nghèo sâu sắc thì ông mới có được những trang văn diễn tả tâm trạng con người sâu sắc, chân thực và đầy cảm động đến như thế.

Dõi theo từng câu nói của bà cụ Tứ, thì người đọc không khỏi ứa nước mắt vì cảm động trước tấm lòng vị tha cao cả của một người mẹ Việt Nam. Song điều đáng nói ở đây là trong muôn vàn những đau khổ, khó khăn của cuộc đời, bà cụ vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng hơn ở ngày mai. Trong cái đói bà cụ vẫn không mất hết hy vọng, một người già nua đã “gần đất xa trời” nhưng bà lại toàn nói về những chuyện tốt đẹp. Niềm vui có con dâu, vì hạnh phúc của con và niềm tin ở cuộc sống vẫn làm cho người mẹ dường như nhanh nhảu hơn “cái mặt bủng beo u ám của bà cũng rạng rỡ hẳn lên”. Bà dự định sẽ mua phên để ngăn thành từng buồng cho đôi trẻ, trong bữa ăn ngày hôm sau, bà cụ chỉ nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng: “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà rồi chẳng mấy chốc sẽ có cả một đàn gà cho mà xem…”. Những lời ấy không phải được thốt ra từ những người trẻ tuổi hơn như Tràng, vợ Tràng mà đó là lời của một bà lão đã cận kề cái chết, sự sống và cái chết đối với bà chỉ còn là một ranh giới rất mỏng manh. Bà cụ tựa hồ như một cái đê chắn sóng, xua đi những u buồn, những mệt nhọc và phiền muộn cùng những lo âu để truyền cho con mình niềm tin vào một cuộc sống ngày mai hạnh phúc. Cho dù bữa cơm ngày đói thật thảm hại: Chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với một nồi cháo nước lõng bõng và một nồi “chè khoán” đắng chát. Nhưng bà cụ vẫn không quên đem lại một chút không khí vui tươi, phấn chấn cho gia đình: ” cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà không có cám mà ăn đấy”. Câu nói có xen chút tự hào của bà lão vang lên mà sao lòng người đọc lại cảm thấy xót xa, nghẹn đắng đến thế. Chao ôi, cám là thứ người ta bỏ đi, chỉ dành cho súc vật ăn vậy mà những con người đáng thương ấy đã phải ăn. Ấy thế mà gia đình Tràng như vậy là đã sung sướng lắm, có nhiều nhà còn đói rách hơn họ nhiều lần.

Tham khảo thêm:   Các loại trà đóng chai ít calo, phù hợp cho người đang giảm cân

Câu nói và những cử chỉ đầy trìu mến, yêu thương đã phần nào khiến cho món cháo cám bớt đi vị đắng chát, nghẹn ứ nơi cổ họng. Bà mẹ nghèo ấy chẳng có của cải vật chất gì quý giá để cho đôi vợ chồng mới. Nhưng có một thứ bà dành cho các con còn đáng trân trọng, nâng niu gấp ngàn lần thứ khác: đó là tình yêu thương, sự chở che chăm sóc rất chân thành của một người mẹ. Chính tình yêu thương của bà cụ Tứ và của Tràng nữa đã đem đến cho người đàn bà vợ nhặt một sự thay đổi lớn lao. Sớm ấy thị cũng xăm xăm, quét tước, dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ chồng, chuẩn bị bữa cơm để cả nhà cùng ăn. Thế là thị đã thực sự tìm thấy một tổ ấm gia đình, một mái nhà không chỉ bảo vệ thị trước những sương giá của cuộc đời đầy khổ ải mà hơn hết đó là tình yêu thương quý mến giữa con người với con người. Thị đã tìm được mảnh đất mà thị nhất định sẽ sống trọn đời trọn kiếp nơi đây. Và chính ngôi nhà bé nhỏ, xiêu vẹo này thị sẽ được hưởng không khí gia đình ấm cúng, hưởng tình yêu và hạnh phúc. Thị cảm nhận được vai trò của mình trong cái gia đình này và tự thấy mình phải có trách nhiệm đối với nó.

Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ còn là những trang văn mà đã trở thành những trang đời thấm đẫm biết bao giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng một nỗi lo cho tương lai và niềm lạc quan trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến những diễn biến tâm lý khá phức tạp mà còn rung động trước tâm tình tha thiết của lòng người mẹ. Những giọt nước mắt trong suốt chảy ra từ đôi mắt đã đục mờ, những giọt nước mắt lấp lánh tấm lòng vị tha cao cả, những giọt nước mắt mặn mà của muối đất, của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả đã trở thành điểm sáng rực rỡ của toàn bộ tác phẩm. Giọt nước mắt chảy ngược vào trong đã biến thành niềm vui, thành hành động, thành những mơ ước khát khao một cuộc sống hạnh phúc trong tương lai.

Cho dù không có dụng tâm xây dựng điển hình người mẹ Việt Nam trong nạn đói khủng khiếp song hình ảnh bà cụ Tứ đã là một thành công lớn của nhà văn Kim Lân trong việc miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật. Dẫu rằng những mơ ước về tương lai hạnh phúc bé nhỏ, giản đơn của bà lão chưa cất lên được trước không khí u ám, ảm đạm vẩn mùi tử khí song đó vẫn là điểm sáng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Quả thật nhân vật bà cụ Tứ đã đem lại chiều sâu nhân đạo sâu sắc cho thiên truyện Vợ nhặt.

Nhân vật bà cụ Tứ – Mẫu 2

Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Trong tác phẩm ta không chỉ nhớ về anh cu Tràng và chị vợ nhặt mà còn nhớ đến bà mẹ tần tảo, chịu nhiều vất vả. Bà cụ Tứ là hình ảnh bà mẹ nông dân Việt Nam trước 1945. Ở nhân vật này, Kim Lân không chú ý vào hành động mà đi sâu vào khai thác tâm trạng nhân vật, qua đó khẳng định tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của ông.

Diện mạo của bà cụ Tứ chỉ được tác giả phác họa bằng vài chi tiết “dáng đi lọng khọng, vừa đi vừa húng hắng ho”. Nhưng chừng ấy cũng đã đủ để cho người đọc hình dung về một bà mẹ nhân dân lam lũ, vất vả đã bị cái đói cái nghèo đeo bám suốt cả cuộc đời.

Nhưng dưới ngòi bút tập trung đi sâu miêu tả tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt là ở hai thời điểm: trong buổi tối cô vợ nhặt về nhà và buổi sáng hôm sau. Qua hai thời điểm đó đã cho thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân.

Khi bà cụ Tứ nhìn thấy cô con dâu, bà ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng vì chưa bao giờ bà thấy con trai bà mong ngóng bà về đến vậy. Sự ngạc nhiên tạo nên tâm lí phấp phỏng khi bà theo anh cu Tràng vào nhà và thấy một người đàn bà lạ ngồi trong nhà. Đến lúc này sự ngạc nhiên của bà đã lên đến đỉnh điểm, bà tự hỏi: “Quái, sao lại có người đàn bà ngồi trong ý nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u”. Sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến mức bà không tin nổi vào mắt mình, phải dụi mắt để cho đỡ nhoèn.

Sau khi được anh con trai giải thích, tâm trạng bà ngổn ngang, rối bời. Bằng trái tim yêu thương của người mẹ, lòng bà dâng lên tình yêu thương con sâu sắc. Bởi bà hiểu người ta chỉ lấy vợ lấy chồng khi cuộc sống yên ổn, nhưng con bà lại lấy vợ vào thời điểm cái đói diễn ra ác liệt nhất. Cùng với đó bà nghĩ tủi cho phận người mẹ nghèo khi không làm tròn trách nhiệm lo lắng cho hạnh phúc của con. Tất cả những nỗi lòng ấy được dồn trong cái cúi đầu nín lặng. Sau tình yêu thương bà chuyển sang xót xa, lo lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau vượt qua cơn đói khát này được không?”. Nạn đói đang hoành hành, những lo lắng của bà là hoàn toàn hợp lí. Từ lòng yêu thương, lo lắng cho con, tấm lòng nhân hậu của người mẹ còn chuyển sang người vợ nhặt. Dù Tràng không giới thiệu chi tiết, tỉ mỉ nhưng với kinh nghiệm sống của mình và hiểu đám cưới vội vã của người con dâu. Bà nhìn cô với ánh mắt đầy cảm thông, yêu thương: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy bà không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử thiêng liêng mà còn là hiện thân của tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ những người có số phận bất hạnh, éo le.

Dù trong lòng ngập tràn nỗi xót xa, nhưng bà vẫn luôn nói những điều vui vẻ, hạnh phúc với người con dâu mới: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Câu nói vừa xóa đi cái ngượng ngùng cho người con dâu vừa là sự chào đón đầy ấm áp, nhân từ bà dành cho thành viên mới của gia đình. Dù miệng nói ra những điều phấn khởi, vui vẻ nhưng ám ảnh về cái đói, cái chết vẫn là quá lớn. Bởi vậy, khi chìm vào thế giới của riêng mình bà vẫn không khỏi lo lắng, xót xa, và không nén nổi thành dòng nước mắt chảy ròng ròng.

Trong buổi sáng hôm sau, Kim Lân tiếp tục đi sâu khai thác tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt nhấn mạnh vào niềm tin, khát vọng tương lai. Cùng với sự thay đổi của Tràng và cô vợ nhặt, bà cụ Tứ cũng có sự thay đổi rõ ràng. Tràng đã cảm nhận thấy người mẹ của mình có dáng vẻ khác hẳn mọi khi, không phải sự nhếch nhác, khổ sở mà thay vào đó là dáng điệu nhẹ nhõm, tươi tỉnh. Bà dậy sớm cùng con dâu quét dọn nhà cửa. Những hành động tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện sự vun đắp, chăm lo của người mẹ cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.

Để tạo niềm tin và hi vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói bà lão toàn nói những chuyện sung sướng sau này. Sự tính toán của bà về việc mua lấy đôi gà để ngoảnh đi ngoảnh lại đã có đàn gà, khiến cho đôi vợ chồng có niềm tin vào tương lai. Nhưng dù dùng những câu chuyện vui, lạc quan thì bà lão vẫn không thay đổi được hiện thực là nồi cháo kia chỉ đủ cho mỗi người ăn hai lưng là hết. Và để vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới có thêm cả nồi cháo cám. Bưng nồi cháo cám ra, phản ứng tâm lí của bà vô cùng đáng thương, bà lật đật, lễ mễ, khuấy khuấy cùng với giọng nói đầy phấn khởi, để giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực là bát cháo cám nghẹn ứ ở cổ. Những hành động đó của bà thật cảm động và đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa trời nói về tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

Nhân vật bà cụ Tứ – Mẫu 3

“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn Kim Lâm. Truyện đã khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ – một người mẹ có tấm lòng nhân hậu, vị tha và là điểm sáng tinh thần cho những đứa con.

Nhân vật bà cụ Tứ không xuất hiện ngay từ đầu trong tác phẩm. Kim Lân đã cho nhân vật xuất hiện trong hoàn cảnh Tràng đưa người vợ nhặt về ra mắt mẹ, để từ đó làm nổi bật lên hình ảnh bà cụ Tứ với những phẩm chất tốt đẹp. Đầu tiên, ngoại hình của bà cụ Tứ đã được Kim Lân miêu tả bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Người đọc như bắt gặp lại dáng hình gầy gầy, còng đi vì sương gió cuộc đời của người bà quen thuộc. Hình ảnh bà cụ Tứ là đại diện mang dáng vẻ chung của những người mẹ nông dân Việt Nam:

“Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh, mái đầu bạc phơ”

(Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm)

Cách dùng từ của nhà văn thật tinh tế, chỉ với từ “lọng khọng” nhưng đã cho thấy cái dáng hình nhỏ bé, chậm chạm và già cả của một bà lão. Cùng với đó là thói quen tính toán chi li, cẩn thận của những bà mẹ Việt Nam. Cuộc đời của bà cụ Tứ cũng giống như biết bao người phụ nữ trong xã hội xưa.

Khi bước vào trong nhà, bà cụ Tứ nhìn thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngỡ ngàng, thắc mắc. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?”. Từ sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, bà cụ Tứ không tin nổi vào mắt mình. Điều ấy dẫn đến hành động: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu” để chờ đợi lời giải thích từ anh con trai. Chỉ đến khi nghe Tràng nói: “Nhà tôi nó chào u”, người mẹ ấy mới chợt hiểu ra: “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình” Để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà vừa mừng, vừa lo, vừa tủi. Tấm lòng của một người mẹ thật bao dung và cũng thật cay đắng, xót xa. Nước mắt mẹ đã lặng lẽ rơi xuống trong mặc cảm thân phận, trong nỗi đau không lo nổi hạnh phúc cho con mình. Bà tủi thân vì cho rằng mình chưa làm tròn bổn phận người mẹ: “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”. Bà cụ Tứ khóc vì thương con, lòng tự trách đã không làm tròn trách nhiệm của một người mẹ.

Không chỉ thương con trai, bà cụ Tứ cũng thương cả con dâu: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Tấm lòng bao dung khiến bà đồng cảm với hoàn cảnh của con dâu: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau cũng mừng lòng”. Và từ đó mà người mẹ ấy cảm thấy vui vẻ khi con trai có được vợ: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Sự ân cần hỏi han “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ chân”, động viên con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Tất cả đã cho thấy tấm lòng cao cả của một người mẹ.

Đặc biệt nhất, nhân vật bà cụ Tứ được Kim Lân xây dựng với tình cảm mẫu tử thiêng liêng. Bà đã trở thành điểm sáng tinh thần cho Tràng và người vợ nhặt. Chính bà là người động viên các con: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Trong bữa ăn ngày đói, người mẹ ấy chỉ toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui vẻ. Cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ nồi cháo cám mà bà cụ Tứ gọi là “chè khoán”: Bà lão múc ra một bát. Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon” này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần. Điều đó cho thấy ở người mẹ này, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào.

Tham khảo thêm:   Đọc: Bè xuôi sông La - Tiếng Việt 4 Chân trời sáng tạo Tiếng Việt lớp 4 Chân trời sáng tạo tập 2 Bài 7

Với ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật thông qua những đối thoại, độc thoại nội tâm, Kim Lân đã khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ nhưng đầy tấm lòng yêu thương, bao dung. Bà chính là chỗ dựa tinh thần cho những đứa con.

Phân tích bà cụ Tứ (4 Mẫu)

Nhân vật bà cụ Tứ – Mẫu 1

Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú “phong lưu đồng ruộng”. “Nên vợ nên chồng” và “Con chó xấu xí” là hai tập truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn. “Vợ nhặt” – một truyện ngắn độc đáo rút trong tập “Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Truyện thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Nhà văn kể về chuyện anh cu Tràng “nhặt” được vợ khi cả xóm ngụ cư người chết đói như ngả rạ. Trong ba nhân vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ – mẹ của Tràng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.

Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm lặng… Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hoàng hôn tê tái, khi người con trai làm nghề kéo xe dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh “đứng rúm ró trên mảnh vườn cỏ mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Sau tấm phên rách nát là những “niêu bát, xống áo vứt bừa bãi cả trên giường dưới đất”. Người mẹ già nghèo khổ “húng hắng ho” chẳng khác nào một chiếc bóng “lọng khọng” đi vào ngõ. Bà cụ ngạc nhiên khi chợt thấy một người đàn bà xa lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình. Bà lão “đứng sững lại”, càng ngạc nhiên hơn. Bà băn khoăn tự hỏi: “Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?”. Bà hấp háy mắt, thấy mắt mình “nhoèn ra”, … rồi “lập cập” bước vào nhà. Lại nghe một tiếng chào nữa, bà lão “băn khoăn” ngồi xuống giường, lòng bà phân vân không kể xiết! Sau khi nghe Tràng “giới thiệu” người khách lạ, bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo lại tủi thân. Lòng bà xáo trộn bao nỗi niềm. Một đời người trải qua nhiều đau khổ, mất mát, cay đắng, bà lấy làm xót xa, thấy mình làm mẹ mà không tròn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng cay đắng, chua xót: “Lòng người mẹ già nghèo khổ ấy… vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn tủi. Tiếng than, tiếng thở dài như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những tháng năm dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một cuộc đời đầy cay đắng: “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng con lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”.

Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: “Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết rồi mụn con gái chết con. Bà sống với đứa con trai thô kệch “mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra” lại có tật vừa đi vừa nói lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già mà Tràng vẫn sống độc thân. Tục ngữ có câu: “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Bà mẹ càng thấy buồn, lo vô hạn. Tuy mặc cảm cho số phận, bà chợt nghĩ đến cái may của gia đình mình: Người có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được”. Hạnh phúc đến với tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui xôn xao dậy lên trong lòng người mẹ già nghèo khổ. Bà vui sướng nhận nàng dâu mới. Chẳng cần phải cưới cheo. Cũng chẳng tìm đâu ra cỗ bàn để đón mừng người con dâu mới, cử chỉ bà rất dịu dàng, âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là “con” rồi sưng “u” một cách thân tình, ruột thịt: “Ừ! Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp nhau, u cũng mừng lòng”. Bà nhìn nàng dâu mà lòng đầy thương cảm. Vượt qua mọi tục lệ, bà vui mừng vì từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh phúc của con. Mừng mừng tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.

Mẫu tử tình thâm! Lòng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông. Bà hạ thấp giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: “…Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”.

Bà nhắc con trai đủ chuyện, từ việc đan tấm liếp để che chắn gian buồng, đến chuyện làm chuồng gà, chuyện làm ăn, chứa chan hi vọng.

Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh mẹ chồng đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người mẹ già lúc thì ngạc nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận nghèo, nhưng lòng bà vẫn ít nhiều hi vọng về cuộc đời của con: “Rồi may ra ông trời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng về sau”…

Bữa cơm đón nàng dâu mới sau “tối tân hôn” của Tràng là một nét vẽ rất tài tình, giàu tính nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm rau chuối thái rối và một nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà cụ Tứ rất vui. Trong bữa ăn bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Bà gọi nồi cháo cám “đắng chát” là “chè khoán” rối rít khen “ngon đáo để”, ít nhiều tự hào, an ủi động viên con trai và nàng dâu: “Cám đấy mày ạ! Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy!”. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm no, nhiều thịt cá ngon lành, nhưng họ có bao giờ quên được mùi vị “đắng chát” của nồi cháo cám ấy. Vì trong bát cháo cám ấy đã chứa đựng biết bao tình thương của mẹ già.

Mượn ngoại cảnh, sự việc để phô diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành công của Kim Lân trong việc khắc hoạ tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé mở. Cảnh tượng mới mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mấy chiếc áo quần rách bươm được đem ra phơi… Nhà cửa, sân ngõ được quét dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng con dâu giẫy cỏ… Cuộc đời của bà, của con bà, gia đình bà đã bắt đầu đổi thay. Mặc dầu còn nhiều thử thách cam go. Tiếng quạ kêu. Tiếng trống thúc thuế. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người thân mới chết đói. Nước mắt bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng bà “không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”. Trên cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Trong lo âu có niềm vui phấp phỏng, thoáng hiện mơ hồ. Nạn đói chưa thể vượt qua, nhưng người mẹ già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho hai vợ chồng Tràng đi tới… để khẳng định niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…”.

Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi vọng. Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ nghèo khổ đã có hai hào dầu thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng.

Trong bài thơ “Ba mươi năm đời ta có Đảng”, Tố Hữu viết:

“Đời ta gương vỡ lại lành,
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa”.

Cuộc đời mẹ con Tràng nhất định sẽ “đâm cành nở hoa”. Có biết trận đói năm Ất Dậu 1945, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói mới thấy hết lòng mẹ được miêu tả, mới cảm nhận được giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ nhặt” này. Giọt nước mắt, tiếng thở dài, nụ cười của bà cụ Tứ khi nhận nàng dâu mới làm ta cảm động khi khép trang văn “Vợ nhặt” của Kim Lân với nhiều bâng khuâng.

Nhân vật bà cụ Tứ – Mẫu 2

Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Trong tác phẩm ta không chỉ nhớ về anh cu Tràng và chị vợ nhặt mà còn nhớ đến bà mẹ tần tần, chịu nhiều vất vả. Bà cụ Tứ là hình ảnh bà mẹ nông dân Việt Nam trước 1945. Ở nhân vật này, Kim Lân không chú ý vào hành động mà đi sâu vào khai thác tâm trạng nhân vật, qua đó khẳng định tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của ông.

Diện mạo của bà cụ Tứ chỉ được tác giả phác họa bằng vài chi tiết “dáng đi lọng khọng, đôi mắt ghèn dử, vừa đi vừa húng hắng ho”. Nhưng chừng ấy cũng đã đủ để cho người đọc hình dung về một bà mẹ nhân dân lam lũ, vất vả đã bị cái đói cái nghèo đeo bám suốt cả cuộc đời.

Nhưng ngòi bút tập trung đi sâu miêu tả tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt là ở hai thời điểm: trong buổi tối cô vợ nhặt về nhà và buổi sáng hôm sau. Qua hai thời điểm đó đã cho thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân.

Khi bà cụ Tứ nhìn thấy cô con dâu, bà ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng vì chưa bao giờ bà thấy con trai bà mong ngóng bà về đến vậy. Sự ngạc nhiên tạo nên tâm lí phấp phỏng khi bà theo anh cu Tràng vào nhà và thấy một người đàn bà lạ ngồi trong nhà. Đến lúc này sự ngạc nhiên của bà đã lên đến đỉnh điểm, bà tự hỏi: “Quái, sao lại có người đàn bà ngồi trong ý nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u”. Sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến mức bà không tin nổi vào mắt mình, phải dụi mắt để cho đỡ nhoèn.

Sau khi được anh con trai giải thích, tâm trạng bà ngổn ngang, rối bời. Bằng trái tim yêu thương của người mẹ, lòng bà dâng lên tình yêu thương con sâu sắc. Bởi bà hiểu người ta chỉ lấy vợ lấy chồng khi cuộc sống yên ổn, nhưng con bà lại lấy vợ vào thời điểm cái đói diễn ra ác liệt nhất. Cùng với đó bà nghĩ tủi cho phận người mẹ nghèo khi không làm tròn trách nhiệm lo lắng cho hạnh phúc của con. Tất cả những nỗi lòng ấy được dồn trong cái cúi đầu nín lặng. Sau tình yêu thương bà chuyển sang xót xa, lo lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau vượt qua cơn đói khát này được không?”. Nạn đói đang hoành hành, những lo lắng của bà là hoàn toàn hợp lí. Từ lòng yêu thương, lo lắng cho con, tấm lòng nhân hậu của người mẹ còn chuyển sang người vợ nhặt. Dù Tràng không giới thiệu chi tiết, tỉ mỉ nhưng với kinh nghiệm sống của mình và hiểu đám cưới vội vã của người con dâu. Bà nhìn cô với ánh mắt đầy cảm thông, yêu thương: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy bà không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử thiêng liêng mà còn là hiện thân của tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ những người có số phận bất hạnh, éo le.

Dù trong lòng ngập tràn nỗi xót xa, nhưng bà vẫn luôn nói nhưng điều vui vẻ, hạnh phúc với người con dâu mới: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Câu nói vừa xóa đi cái ngượng ngùng cho người con dâu vừa là sự chào đón đầy ấm áp, nhân từ bà dành cho thành viên mới của gia đình. Dù miệng nói ra những điều phấn khởi, vui vẻ nhưng ám ảnh về cái đói, cái chết vẫn là quá lớn. Bởi vậy, khi chìm vào thế giới của riêng mình bà vẫn không khỏi lo lắng, xót xa, và không nén nổi thành dòng nước mắt chảy ròng ròng.

Trong buổi sáng hôm sau, Kim Lân tiếp tục đi sâu khai thác tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt nhấn mạnh vào niềm tin, khát vọng tương lai. Cùng với sự thay đổi của Tràng và cô vợ nhặt, bà cụ Tứ cũng có sự thay đổi rõ ràng. Tràng đã cảm nhận thấy người mẹ của mình có dáng vẻ khác hẳn mọi khi, không phải sự nhếch nhác, khổ sở mà thay vào đó là dáng điệu nhẹ nhõm, tươi tỉnh. Bà dậy sớm cùng con dâu quét dọn nhà cửa. Những hành động tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện sự vun đắp, chăm lo của người mẹ cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.

Để tạo niềm tin và hi vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói bà lão toàn nói những chuyện sung sướng sau này. Sự tính toán của bà về việc mua lấy đôi gà để ngoảnh đi ngoảnh lại đã có đàn gà, khiến cho đôi vợ chồng có niềm tin vào tương lai. Nhưng dù dùng những câu chuyện vui, lạc quan thì bà lão vẫn không thay đổi được hiện thực là nồi cháo kia chỉ đủ cho mỗi người ăn hai lưng là hết. Và để vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới có thêm cả nồi cháo cám. Bưng nồi cháo cám ra, phản ứng tâm lí của bà vô cùng đáng thương, bà lật đật, lễ mễ, khuấy khuấy cùng với giọng nói đầy phấn khởi, để giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực là bát cháo cám nghẹn ứ ở cổ. Những hành động đó của bà thật cảm động và đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa trời nói về tương lai, những điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

………

Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích nhân vật bà cụ Tứ

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt 2 Dàn ý & 9 bài phân tích bà cụ Tứ của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *