Bạn đang xem bài viết ✅ Văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật thống lí Pá Tra trong Vợ chồng A Phủ Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài ✅ tại website Wikihoc.com có thể kéo xuống dưới để đọc từng phần hoặc nhấn nhanh vào phần mục lục để truy cập thông tin bạn cần nhanh chóng nhất nhé.

Phân tích nhân vật thống lí Pá Tra trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài gồm 2 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay sát với chương trình học.

TOP 2 bài phân tích nhân vật thống lí Pá Tra là tài liệu thiết thực đối với các em trong quá trình học tập, tự học và tự đọc để nâng cao mở rộng vốn cảm nhận văn học của mình thêm phong phú, làm văn một cách sáng tạo. Ngoài ra các bạn xem thêm bài văn mẫu: mở bài Vợ chồng A Phủ, phân tích Vợ chồng A Phủ, phân tích nhân vật Mị.

Dàn ý phân tích nhân vật thống lí Pá Tra

I. Mở bài

  • Đôi nét về tác giả, tác phẩm
  • Giới thiệu nhân vật Pá Tra.

II. Thân bài

*Phân tích hình ảnh Pá Tra.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” thấm đẫm chất hiện thực. Dưới ngòi bút hiện thực sắc sảo của một nhà văn tài năng, cuộc sống đau thương của người dân vùng cao và hình ảnh của bọn thống trị hiện lên thật cụ thể, rõ nét. Thống lí Pá Tra trong câu chuyện là nhân vật đại diện cho chế độ cai trị độc địa, sự tàn ác, vô nhân đạo của bọn tay sai thực dân, chúa đất lúc bấy giờ. Thời gian được phản ánh trong truyện là một thời kì đáng nhớ của lịch sử dân tộc, thời đại mà đồng bào Tây Bắc sống tăm tối, bị áp bức, bóc lột trước ngày giải phóng. Một nhà văn đã từng nói: “Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thực sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật, ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại”, Pá Tra là một nhân vật điển hình như thế. Tác phẩm đã phản ánh chân thực bức tranh xã hội Tây Bắc trước ngày giải phóng, điều này có ý nghĩa khai phá. Ở đây còn tồn tại chế độ phong kiến, chúa đất với những chức sắc thống lí, xéo phải,… một kiểu phong kiến miền núi bạo tàn, khắc nghiệt hơn nhiều so với chế độ phong kiến miền xuôi trong văn Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan…

– Trước hết, Pá Tra là một người giàu có. Mở đầu câu chuyện, Tô Hoài viết: “Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” . Cách giới thiệu câu chuyện của Tô Hoài nhẹ nhàng man mác hơi thở của cổ tích mà Mị là nhân vật hiền từ, bị áp bức, Pá Tra là tên tay sai bán nước man rợ dã tâm. Ngay cả việc mỗi năm bố Mị phải trả một nương ngô cho nhà thống lí vì món nợ “truyền kiếp” mà ngày xưa bố Mị phải vay của bố thống lí Pá Tra bây giờ cũng đủ biết hắn ta xảo trá đến nhường nào. Sự giàu sang của Pá Tra là do “ăn của dân nhiều”, bao nhiều mồ hôi, nước mắt, công sức của người dân bị Pá Tra nuốt trọn. Trong xã hội ấy, những người giàu đó đa phần là những người lừa lọc, gian hùng, tham lam, tàn ác. Bởi thế, ngay khi thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho”, Mị xót xa chối từ: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”.

– Lối sống của Pá Tra là lối sống trụy lạc, đắm chìm trong những thú vui sa đọa mà thuở ấy thực dân Pháp tìm cách du nhập vào nước ta, làm biến chất nhân dân ta. Pá Tra chìm trong cơn nghiện ngập, lúc nằm nghỉ, lúc xử tội A Phủ hắn đều rít thuốc phiện: “Trong nhà ông thống lí bày ra năm cái bàn đèn. Khối thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp”, “trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về kiện”.

– Pá Tra đã dùng thần quyền, cường quyền và tiền quyền biến người lao động nghèo khổ trở thành nô lệ không công suốt đời cho hắn. Bản chất ngang ngược, độc địa, vô nhân tính là bản chất của Pá Tra. Điều này góp phần làm tăng tính chân thực của tác phẩm. Cuộc đời của Mị (con dâu gạt nợ) và A Phủ (đứa ở trừ nợ) là cuộc đời của những kẻ nô lệ mang thân phận khổ đau, là những nạn nhân tiêu biểu của chế độ dã man khi ấy. Những nhân chứng hùng hồn này đã làm cho độc giả thấy được bộ mặt thật của bọn thống trị miền núi.

+ Pá Tra đã dùng cường quyền hung bạo để đày đọa con người: Hành động cho người bắt Mị về làm con dâu gạt nợ rồi mới cho A Sử về nhà bố Mị báo tin “đã cướp được con gái bố làm vợ” là hành động của kẻ tiểu nhân, xảo quyệt, gian hùng. Từ đây, một đoạn đời đau khổ của Mị được mở ra: quẩn quanh, buồn tẻ, mất đi lòng ham sống. Ở đây, trên danh nghĩa Mị là con dâu nhà thống lí Pá Tra giàu có, vợ A Sử, dưới danh nghĩa lại là con ở không công. Mị bị bóc lột sức lao động, bị hành hạ, đánh đập, tước đoạt quyền sống, quyền hạnh phúc vốn có của một con người. Đã bao lần Mị tìm đến cái chết để giải thoát, nhưng rồi lại thôi. Chính việc Mị không còn muốn chết, “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa” mới là điều đau đớn. Cha con thống lí đã biến Mị trở nên vô tri, mất đi nhận thức về nỗi khổ của mình.

+ Pá Tra đã dùng thần quyền để giam hãm tâm hồn con người. Bắt Mị về hắn cũng cúng trình con ma, “tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa” ngoài tấm vách bất giác người đọc rờn rợn bởi thủ đoạn “giam lỏng” con người của thống lí Pá Tra. Khi Pá Tra cho A Phủ vay tiền để trả nợ cho hắn thì hắn cũng “đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ”. Qua những chi tiết khắc họa hủ tục phong kiến lạc hậu trong truyện: tiếng nhạc sinh tiền, mùi hương khói, những buổi lễ âm u, những nghi thức cầu ma, chồng có quyền trói vợ hàng mấy ngày trong buồn tối, bắt người đàn bà theo đuôi con ngựa nhà chồng quanh năm suốt tháng… đã thể hiện sự am hiểu về phong tục của tác giả, đồng thời cũng phác họa bức tranh thiên nhiên phong tục Tây Bắc nhiều màu sắc, một gam màu u ám, ma mị, đậm chất hiện thực.

+ Trong phiên tòa xử kiện vụ án A Phủ đánh con quan, người đọc thấy được bản chất thâm độc, hung tợn của Pá Tra. Ở Hồng Ngài, cha con Pá Tra là vua, ai đụng phải cũng đều chịu những hình phạt dã man, đau đớn của hắn. Khi A Phủ bị giải về nhà thống lí, A Phủ liên tục bị đánh: “A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa tên thống lí Pá Tra rồi quay lại đánh A Phủ”. Cứ mỗi đợt thống lí hút thuốc phiện xong, A Phủ lại bị “người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Nhà văn hạ bút viết câu văn nhẹ nhàng mà đau xót biết bao: “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Thống lí Pá Tra là tên lọc lõi, mưu mô. Hắn biến A Phủ thành một công cụ hữu hiệu để hắn thống trị Hồng Ngài một cách dễ dàng. Hình phạt của A Phủ mà hắn đưa ra là “Nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua đến hôm nay”. Mọi lợi lộc đều về phần quan, Pá Tra chẳng mất gì, còn A Phủ thì phải ở đợ cho hắn đến suốt đời, suốt kiếp.

Tham khảo thêm:   Tiếng Anh 6 Unit 11: Getting Started Soạn Anh 6 trang 48, 49 sách Kết nối tri thức với cuộc sống - Tập 2

+ Cha con nhà thống lí coi rẻ sinh mạng con người. Ở đây, ta thấy được chế độ phong kiến miền núi còn đầu địa, bạo tàn hơn chế độ phong kiến miền xuôi. Cha con Pá Tra tự trao cho mình cái quyền sinh sát khi trong tay mình là những con nợ hắn dùng thủ đoạn cướp về. A Sử đánh Mị không thương tiếc, A Phủ bị hành hạ dã man, và bao người đã đang và sẽ tiếp tục bị hành hạ như vậy: “Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. Cảnh Mị bị trói ngay khi Mị sắp trở về với cuộc sống bình thường, với chính mình, trông thật thảm hại: “tay chân đau không cựa được”, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

Cảnh “A phủ bị trói chờ chết” và nỗi lo lắng của Mị: “Biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Những chi tiết này đã cho thấy bản chất độc ác, tàn nhẫn coi rẻ mạng người của thống lí Pá Tra. Một mạng người trong tay thống lí có thể bị cướp đi bất kì lúc nào, cho thấy sự gian hùng, tàn nhẫn của giai cấp thống trị, sự độc ác vô nhân tính của chúng.

=> Pá Tra là một nhân vật điển hình. Tính cách và bản chất của hắn tiêu biểu cho bọn tay sai, chúa đất phong kiến hoành hành thống trị miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng. Tô Hoài đã dùng bút pháp hiện thực, ngôn ngữ nhẹ nhàng mà đanh thép, gay gắt để vạch trần, tố cáo bộ mặt giả tạo, gian tà của thống lí Pá Tra. Giá trị hiện thực của câu chuyện nằm ở chỗ ấy.

III. Kết bài

– Cảm nhận, suy nghĩ về nhân vật Pá Tra

Nhân vật thống lí Pá Tra

Nhà văn Tô Hoài là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Ông là người có vốn hiểu biết phong phú vê phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta, trong đó Tây Bắc là một điển hình sâu sắc nhất. Trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ, Tô Hoài đã làm nên bức tranh hai màu sáng tối, mà đứng đầu hai thái cực ấy chính là cha con thống lí Pá Tra và vợ chồng A Phủ.

Dựa trên hình ảnh của một nhân vật có thật trong Mùa Chống Lâu, một tên độc ác, chuyên chống phá cách mạng, Tô Hoài đã xây dựng nên hình tượng thống lí Pá tra thật đặc sắc.

Điểm đầu tiên mà Tô Hoài Khắc họa thống lí Pá Tra chính là một thống lí giàu có: “Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. “Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma, xung quanh chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên nhảy xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay đến bữa rượu bên bếp lửa”.

Cách mở đầu giới thiệu câu chuyện mờ nhòe như cách mào đầu của cổ tích, sơ lược giới thiệu chân dung thống lí qua lời đồn. Tuy vậy phần nào khái quát được bản chất gian hùng của hắn: “ăn của dân nhiều” – một mặt hà hiếp, bóc lột người dân, “Tây lại cho muối về bán, giàu lắm”. Mặt khác lại làm tay sai cho thực dân, bán đứng dân tộc. Cho thấy thống lí Pá Tra là một kẻ độc ác, tàn nhẫn, tham lam. Việc khắc họa thống lí Pá Tra qua cảnh giàu sang của hắn càng góp phần bộc lỗ rõ bản chất xấu xa của hắn. Bởi một lẽ: của cải công sức đó làm ra toàn bằng xương máu, nước mắt nhân dân. Đã bao nhiêu người phải chết, đã bao nhiêu cuộc đời bị hủy hoại để làm nên đống gia sản ấy.

Điểm nổi bậc thứ hai, Thống lí Pá Tra chính là một thống lí chìm đắm trong nghiện ngập, sa đọa. Tô Hoài miêu tả “Trong nhà ông thống lí bày ra năm cái bàn đèn. Khối thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp”, “trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về kiện”. Cách miêu tả của nhà văn cho thấy lối sống truỵ lạc của một gia đình giàu có quyền lực nhất Hồng Ngài, được Tô Hoài Khắc hoạ trong sự tương phản với cuộc sống cực khổ lam lũ của người dân Hồng Ngài. Sau khi “phiên xử” A Phủ kết thúc, trong nhà “thuốc phiện vẫn hút rào rào”.

Thống lí Pá Tra là một thống lí độc ác, tàn nhẫn, bạo ngược. Cha con Pá Tra đã bắt Mị về trả nợ thay cha, hành hạ đày đọa Mị. Lời A Sử nói với bố Mị: “Tôi đã cướp con gái bố làm vợ, tôi đem về cúng trình ma nhà tôi rồi, bây giờ đến trình cho bố biết.Tiền bạc để cưới thì bố tôi bảo đã đưa cho bố cả rồi”. A Sử dùng Mị để gán nợ, và việc A Sử dùng từ “cướp” một cách ngang nhiên cho thấy quyền lực, và vị trí của hắn ở Hồng Ngài này như thế nào. Để từ đó hắn cho mình cái quyền chà đạp nhân phẩm con người, xem họ như một món hàng không hơn không kém, muốn bắt là bắt, muốn hành hạ thì hành hạ.

Suốt quá trình Mị ở nhà thống lí đã chịu sự giày vò cả về thể xác lẫn tâm hồn, trên danh nghĩa là con dâu nhà Pá Tra – Vợ của A sử nhưng Mị cũng như bao người phụ nữ trong ngôi nhà này, không hơn một kẻ nô lệ, bị cha con Pá Tra đánh đập, sỉ vả, tước đi mọi quyền sống mà đáng ra nếu không vì món nợ của cha thì cô không vào cảnh này. Chính món nợ ấy đã khiến cô sống cũng không được mà chết cũng không xong, đã bao lần tính sử dụng lá ngón để tự vẫn nhưng vì cha “thế là Mị không đành lòng chết”. Tất cả chính là do bàn tay độc ác, bạo ngược của thống lí.

Thủ đoạn của thống lí Pá Tra đã dùng thần quyền và cường quyền để giam hãm thể xác và tâm hồn con người. Bản chất lưu manh, nham hiểm của Pá Tra thể hiện rõ nhất trong cách bắt Mị làm con dâu gạt nợ. Cha con Pá Tra ngang nhiên bắt Mị về nhà. Hắn dùng sức mạnh của cường quyền để biến Mị thành kẻ ở trả nợ. Không những thế hắn còn dùng cả thần quyền để giam Mị, giam giữ cái thể xác luôn gắn liền với một đức tin bao lâu nay của những người ở đây. Ngay sau khi Mị bị bắt về nhà thống lí thì “ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”. Giống như Mị, A Phủ cũng bị cái gọi là thần quyền “ghi nợ” với A Phủ: “A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ”.

Đức tin về thần linh là một nét đặc trưng về tín ngượng của người miền núi, có phần mê tín dị đoan, và chính đức tin này đã trở thành thứ công cụ để bọn địa chủ miền núi dùng để đàn áp tinh thần người dân và giam hãm họ như một thứ vũ khí ghê rợn, không tốn sức, thứ thủ đoạn tinh vi, độc ác, giày vò tinh thần con người. Với những chi tiết miêu tả phong tục không khỏi khiến người đọc rùng mình: tiến nhạc sinh tiền, mùi hương khói, những buổi lễ âm u, những nghi thức cầu ma… đã thể hiện sự am hiểu về phong tục của tác giả, đồng thời cũng phác vào bức tranh thiên nhiên phong tục Tây Bắc nhiều màu sắc, một gam màu u ám, ma mị, đậm chất hiện thực.

Thống lí Pá tra lộ rõ sự tàn nhẫn, độc ác thể hiện trong “phiên tòa” xử A Phủ. Đó là một “Phiên tòa” tàn nhẫn, vô nhân tính khi người bị xử chưa được tuyên án đã phải chịu tra tấn, đòn roi dã man. “Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh.” “Xong một lượt đánh, chửi, kể, lại hút”. “Càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. A Phủ bị đánh tới mức “hai đầu gối bạnh lên như hai mặt hổ phù”, “chân đau bước tập tễnh”. Cái quyền lực trong tay cha con hắn, khiến hắn có thể làm mọi thứ mà hắn muốn. Ở Hồng Ngài, cha con Pá Tra là vua, hắn muốn ai chết, thì người đó khó sống. Bằng quyền lực hắn cũng biến A Phủ thành kẻ nô lệ không công của mình, mặc hắn sai khiến, trách phạt. Cụm từ “chửi, đánh, hút” lặp đi lặp lại trong mối quan hệ tăng tiếng làm nổi bậc lên sự nghiện ngập, sa đọa của bọn thống trị miền núi và sự tàn nhẫn dã man của chúng. Bên cạnh đó là giọng văn gọn, ngắn, câu văn khuyết chủ ngữ, nhịp cắt nhỏ; giọng điệu khách quan, lạnh lùng của ngòi bút hiện thực nhưng lại phảng phất đâu đó cái khinh thường, nhạo báng của nhà văn.

Tham khảo thêm:   Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh Sóng của Xuân Quỳnh

“Phiên tòa” khôi hài, dị hợm khi hội đồng xét xử từ cao nhất là thống lí đến đứa thấp nhất là bọn chức việc đều là những con nghiện, ngập ngụa trong khói thuốc phiện. Những kẻ đứng đầu ở đây toàn là những con quỷ dữ, những kẻ cậy quyền, tàn ác, độc địa, sống trên những đồng tiền của Pá Tra, và bị Pá Tra biến thành một công cụ hữu hiệu để hắn thống trị Hồng Ngài một cách dễ dàng. Vì thế mà không ngạc nhiên khi bản án đưa ra bởi thống lý Pá Tra cũng rất vô lí: Đánh người làng thì phải “Nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua đến hôm nay”

Bản chất cường hào ác bá, bóc lột vơ vét của bọn địa chủ phong kiến và tay sai của chúng bộc lộ rõ nét. Càng nực cười hơn là A Phủ phải bỏ tiền “mời các quan hút thuốc” để các quan đánh đập, hành hạ mình. Đánh con quan làng thì “phải xử tội chết, nhưng làng cho mày được sống mà nộp phạt”. Một bản án bất công khác mà A Sử mới chính là kẻ gây tội, mới là kẻ quấy rối, gây sự. Thật ra đây chính là phần mở đầu của thứ thủ đoạn tinh vi hơn: Dùng món nợ để nô lệ hóa con người, không chỉ một thế hệ, mà nhiều thế hệ. “Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn mày phải chịu một trăm bạc trắng. Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

Đây chính là thủ đoạn tinh vi để nô lệ hóa con người của thống lí. Bắt bớ một kẻ tội nghiệp, tra tấn đánh đập anh ta, kết tội anh ta, gán anh ta vào một món nợ, cho anh ta vay nợ và biến anh ta thành nô bộc để trả nợ dần. Thủ đoạn này làm ta nhớ đến một bá Kiến “đẩy nó xuống nước rồi lại cứu nó lên cho nó trả ơn”. Nó thâm độc ở chỗ một người như A Phủ làm lụng bao đời mới trả hết được món nợ ấy, một con số ngẫu nhiên người ta tuyên phạt vào anh? Và như vậy A Phủ trở thành nô lệ suốt đời cho thống lí mà không có cơ hội thoát.

Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn miêu tả chi tiết: A Phủ “nhặt bạc, nhưng nhặt xong lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả vào trong tráp”. Chi tiết này đã tố cáo thủ đoạn thâm độc của Pá Tra, đồng thời bật lên tiếng cười mỉa mai của tác giả. Tiền trong tráp Pá Tra lại trở lại tráp Pá Tra, chỉ trong khoảng tích tắc ấy mà một con người tự do đã trở thành nô lệ. Quá trình vay tiền, đóng phạt diễn ra trong tích tắc, người thu tiền phạt cũng là Pá Tra, người cho vay cũng lại là Pá Tra, đầy mỉa mai, chua chát. Thủ đoạn này còn thâm độc hơn nữa khi không chỉ nô lệ một người, mà còn nô lệ nhiều thế hệ “đời mày, đời con, đời cháu mày cũng thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Đây cũng chính là cách Mị bị biến thành nô lệ nhà thống lí và phải chăng còn nhiều nữa những nạn nhân của chúng? Của cải nhà thống lí có được đều từ xương máu của những người này mà ra, những nạn nhân của thứ thủ đoạn thâm độc của thống lí.

Cha con thống lý Pá Tra coi rẻ mạng sống con người, chà đạp nhân phẩm con người một cách không thương tiếc, cuộc sống trong gia đình Pá Tra không khác gì từ thời chiếm hữu nô lệ, thậm chí nó còn tệ hơn. Cha con Pá Tra tự trao cho mình cái quyền sinh sát khi trong tay mình là những con nợ hắn dùng thủ đoạn cướp về. A Sử đánh Mị không thương tiếc, A Phủ bị hành hạ dã man, và bao người đã đang và sẽ tiếp tục bị hành hạ như vậy. “Người đàn bà lấy chồng ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi ngựa của chồng.” “Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. “A phủ bị trói chờ chết”.

Cái lo lắng của Mị: “Biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Những chi tiết này đã cho thấy bản chất độc ác, tàn nhẫn coi rẻ mạng người của thống lí Pá Tra. Một mạng người trong tay thống lí có thể bị cướp đi bất kì lúc nào, cho thấy sự gian hùng, tàn nhẫn của giai cấp thống trị, sự độc ác vô nhân tính của chúng.

Pá Tra là một nhân vật điển hình. Tính cách và bản chất của hắn tiêu biểu cho bọn tay sai, chúa đất phong kiến hoành hành thống trị miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng. Tô Hoài đã dùng bút pháp hiện thực, ngôn ngữ nhẹ nhàng mà đanh thép, gay gắt để vạch trần, tố cáo bộ mặt giả tạo, tàn ác của thống lí Pá Tra (và cũng là bộ mặt của bọn địa chủ phong kiến miền núi), qua đó giúp ta thấy rõ hơn cuộc sống cùng khổ, bế tắc của đồng bào miền núi, thấy rõ nguồn sức mạnh thôi thúc Mị và A Phủ vượt thoát khỏi cuộc sống tối tăm, tìm đến với ánh sáng cách mạng sau này.

Phân tích nhân vật thống lí Pá Tra

Tố Hữu từng cho rằng: “Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học”. Hiện thực cuộc sống luôn là mảnh đất màu mỡ, phong phú mà nguồn cảm hứng của người nghệ sĩ là ngọn gió mát lành âm ĩ thổi vào, phản ánh thông qua tác phẩm văn học. Thiên chức cao quý của văn học bên cạnh việc xây dựng những hình tượng hướng đến giá trị Chân, Thiện, Mĩ của cuộc sống còn là việc vạch trần, phê phán, lên án bản chất xấu xa hay những hành động chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc con người. Hình ảnh bọn phong kiến tay sai của thực dân Pháp và bè lũ bán nước trong xã hội cũ cũng là một khía cạnh để văn học soi chiếu. Nếu như trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố có Nghị Quế, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan có Nghị Lại, “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng có Nghị Hách thì trong “Vợ chồng A Phủ” – câu chuyện của những người lao động vùng cao Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài – có hình ảnh thống lí Pá Tra, một nhân vật phản diện đại diện sự tàn bạo, ác độc của tay sai thực dân, chúa đất áp bức đày đọa, giam hãm con người. Mị trong tác phẩm là nạn nhân của sự đày ải đớn đau đó.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” thấm đẫm chất hiện thực. Dưới ngòi bút hiện thực sắc sảo của một nhà văn tài năng, cuộc sống đau thương của người dân vùng cao và hình ảnh của bọn thống trị hiện lên thật cụ thể, rõ nét. Thống lí Pá Tra trong câu chuyện là nhân vật đại diện cho chế độ cai trị độc địa, sự tàn ác, vô nhân đạo của bọn tay sai thực dân, chúa đất lúc bấy giờ. Thời gian được phản ánh trong truyện là một thời kì đáng nhớ của lịch sử dân tộc, thời đại mà đồng bào Tây Bắc sống tăm tối, bị áp bức, bóc lột trước ngày giải phóng. Một nhà văn đã từng nói: “Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thực sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật, ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại”, Pá Tra là một nhân vật điển hình như thế. Tác phẩm đã phản ánh chân thực bức tranh xã hội Tây Bắc trước ngày giải phóng, điều này có ý nghĩa khai phá. Ở đây còn tồn tại chế độ phong kiến, chúa đất với những chức sắc thống lí, xéo phải,… một kiểu phong kiến miền núi bạo tàn, khắc nghiệt hơn nhiều so với chế độ phong kiến miền xuôi trong văn Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan…

Tham khảo thêm:   Tổng hợp 10 cách làm thạch rau câu thơm ngon giòn đẹp

Trước hết, Pá Tra là một người giàu có. Mở đầu câu chuyện, Tô Hoài viết: “Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” . Cách giới thiệu câu chuyện của Tô Hoài nhẹ nhàng man mác hơi thở của cổ tích mà Mị là nhân vật hiền từ, bị áp bức, Pá Tra là tên tay sai bán nước man rợ dã tâm. Ngay cả việc mỗi năm bố Mị phải trả một nương ngô cho nhà thống lí vì món nợ “truyền kiếp” mà ngày xưa bố Mị phải vay của bố thống lí Pá Tra bây giờ cũng đủ biết hắn ta xảo trá đến nhường nào. Sự giàu sang của Pá Tra là do “ăn của dân nhiều”, bao nhiều mồ hôi, nước mắt, công sức của người dân bị Pá Tra nuốt trọn. Trong xã hội ấy, những người giàu đó đa phần là những người lừa lọc, gian hùng, tham lam, tàn ác. Bởi thế, ngay khi thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho”, Mị xót xa chối từ: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”.

Lối sống của Pá Tra là lối sống trụy lạc, đắm chìm trong những thú vui sa đọa mà thuở ấy thực dân Pháp tìm cách du nhập vào nước ta, làm biến chất nhân dân ta. Pá Tra chìm trong cơn nghiện ngập, lúc nằm nghỉ, lúc xử tội A Phủ hắn đều rít thuốc phiện: “Trong nhà ông thống lí bày ra năm cái bàn đèn. Khối thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp”, “trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về kiện”.

Pá Tra đã dùng thần quyền, cường quyền và tiền quyền biến người lai động nghèo khổ trở thành nô lệ không công suốt đời cho hắn. Bản chất ngang ngược, độc địa, vô nhân tính là bản chất của Pá Tra. Điều này góp phần làm tăng tính chân thực của tác phẩm. Cuộc đời của Mị (con dâu gạt nợ) và A Phủ (đứa ở trừ nợ) là cuộc đời của những kẻ nô lệ mang thân phận khổ đau, là những nạn nhân tiêu biểu của chế độ dã man khi ấy. Những nhân chứng hùng hồn này đã làm cho độc giả thấy được bộ mặt thật của bọn thống trị miền núi.

Pá Tra đã dùng cường quyền hung bạo để đày đọa con người: Hành động cho người bắt Mị về làm con dâu gạt nợ rồi mới cho A Sử về nhà bố Mị báo tin “đã cướp được con gái bố làm vợ” là hành động của kẻ tiểu nhân, xảo quyệt, gian hùng. Từ đây, một đoạn đời đau khổ của Mị được mở ra: quẩn quanh, buồn tẻ, mất đi lòng ham sống. Ở đây, trên danh nghĩa Mị là con dâu nhà thống lí Pá Tra giàu có, vợ A Sử, dưới danh nghĩa lại là con ở không công. Mị bị bóc lột sức lao động, bị hành hạ, đánh đập, tước đoạt quyền sống, quyền hạnh phúc vốn có của một con người. Đã bao lần Mị tìm đến cái chết để giải thoát, nhưng rồi lại thôi. Chính việc Mị không còn muốn chết, “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa” mới là điều đau đớn. Cha con thống lí đã biến Mị trở nên vô tri, mất đi nhận thức về nỗi khổ của mình.

Pá Tra đã dùng thần quyền để giam hãm tâm hồn con người. Bắt Mị về hắn cũng cúng trình con ma, “tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa” ngoài tấm vách bất giác người đọc rờn rợn bởi thủ đoạn “giam lỏng” con người của thống lí Pá Tra. Khi Pá Tra cho A Phủ vay tiền để trả nợ cho hắn thì hắn cũng “đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ”. Qua những chi tiết khắc họa hủ tục phong kiến lạc hậu trong truyện: tiếng nhạc sinh tiền, mùi hương khói, những buổi lễ âm u, những nghi thức cầu ma, chồng có quyền trói vợ hàng mấy ngày trong buồn tối, bắt người đàn bà theo đuôi con ngựa nhà chồng quanh năm suốt tháng… đã thể hiện sự am hiểu về phong tục của tác giả, đồng thời cũng phác họa bức tranh thiên nhiên phong tục Tây Bắc nhiều màu sắc, một gam màu u ám, ma mị, đậm chất hiện thực.

Trong phiên tòa xử kiện vụ án A Phủ đánh con quan, người đọc thấy được bản chất thâm độc, hung tợn của Pá Tra. Ở Hồng Ngài, cha con Pá Tra là vua, ai đụng phải cũng đều chịu những hình phạt dã man, đau đớn của hắn. Khi A Phủ bị giải về nhà thống lí, A Phủ liên tục bị đánh: “A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa tên thống lí Pá Tra rồi quay lại đánh A Phủ”. Cứ mỗi đợt thống lí hút thuốc phiện xong, A Phủ lại bị “người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu”. Nhà văn hạ bút viết câu văn nhẹ nhàng mà đau xót biết bao: “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Thống lí Pá Tra là tên lọc lõi, mưu mô. Hắn biến A Phủ thành một công cụ hữu hiệu để hắn thống trị Hồng Ngài một cách dễ dàng. Hình phạt của A Phủ mà hắn đưa ra là “Nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua đến hôm nay”. Mọi lợi lộc đều về phần quan, Pá Tra chẳng mất gì, còn A Phủ thì phải ở đợ cho hắn đến suốt đời, suốt kiếp.

Cha con nhà thống lí coi rẻ sinh mạng con người. Ở đây, ta thấy được chế độ phong kiến miền núi còn đầu địa, bạo tàn hơn chế độ phong kiến miền xuôi. Cha con Pá Tra tự trao cho mình cái quyền sinh sát khi trong tay mình là những con nợ hắn dùng thủ đoạn cướp về. A Sử đánh Mị không thương tiếc, A Phủ bị hành hạ dã man, và bao người đã đang và sẽ tiếp tục bị hành hạ như vậy: “Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. Cảnh Mị bị trói ngay khi Mị sắp trở về với cuộc sống bình thường, với chính mình, trông thật thảm hại: “tay chân đau không cựa được”, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

Cảnh “A Phủ bị trói chờ chết” và nỗi lo lắng của Mị: “Biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Những chi tiết này đã cho thấy bản chất độc ác, tàn nhẫn coi rẻ mạng người của thống lí Pá Tra. Một mạng người trong tay thống lí có thể bị cướp đi bất kì lúc nào, cho thấy sự gian hùng, tàn nhẫn của giai cấp thống trị, sự độc ác vô nhân tính của chúng.

Pá Tra là một nhân vật điển hình. Tính cách và bản chất của hắn tiêu biểu cho bọn tay sai, chúa đất phong kiến hoành hành thống trị miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng. Tô Hoài đã dùng bút pháp hiện thực, ngôn ngữ nhẹ nhàng mà đanh thép, gay gắt để vạch trần, tố cáo bộ mặt giả tạo, gian tà của thống lí Pá Tra. Giá trị hiện thực của câu chuyện nằm ở chỗ ấy.

Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật thống lí Pá Tra trong Vợ chồng A Phủ Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.

 

About The Author

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *