Chi tiết tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài tuyển chọn 14 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.
Tiếng sáo là chi tiết cực kì ý nghĩa và mang tính trữ tình trong Vợ chồng A Phủ. Nếu thiếu tiếng sáo ta sẽ không thấy một Mị yêu đời muốn hòa mình với trời xuân như thế. Sẽ không có một ai có thể níu kéo phần đời còn lại của Mị và A Phủ. Vậy dưới đây là 14 bài văn phân tích tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ hay nhất, mời các bạn cùng đón đọc. Bên cạnh đó các bạn xem thêm một số bài văn mẫu như phân tích Vợ chồng A Phủ, phân tích nhân vật Mị.
Chi tiết tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
- Số lần xuất hiện của tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ
- Tóm tắt ý nghĩa tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ
- Dàn ý ý nghĩa tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ
- Phân tích chi tiết tiếng sáo học sinh giỏi
- Tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ
- Chi tiết tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ
Số lần xuất hiện của tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ
- Lần 1: Tiếng sáo xuất hiện ở ngoài đầu núi “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”
- Lần 2: Tiếng sáo văng vẳng ở đầu làng “tai Mị nghe tiếng sáo văng vẳng đầu làng”.
- Lần 3: Tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường:
- Lần 4: Khi Mị bị trói, tiếng sáo vẫn vang vọng: “Em không yêu quả pao rơi rồi/ Em yêu người nào, em bắt pao nào”
Tóm tắt ý nghĩa tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ
Số lần xuất hiện |
Chi tiết nhắc tiếng sáo |
Ý nghĩa của tiếng sáo |
1 |
Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi |
Biểu hiện cho vẻ đẹp của phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền núi. |
2 |
Tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng |
Là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, khơi gợi tình yêu trong Mị |
3 |
Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường |
Là động lực thúc đẩy Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân |
4 |
Mị vẫn nghe tiếng sao đưa Mị đi theo những cuộc chơi,.. |
Tiếng sáo vẫn thôi thúc tâm hồn Mị |
5 |
Tiếng sáo, tiếng chó sủa xa xa |
Tâm trạng khổ đau của cô gái Mèo đầy bất hạnh. |
Dàn ý ý nghĩa tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ
I. Mở bài
“Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài là một tác phẩm xuất sắc viết về người lao động miền núi. Trong truyện có rất nhiều những chi tiết đặc sắc và độc đáo góp phần làm bật lên được cuộc đời của nhân vật Mị, tô đậm thêm cho bức tranh miền núi Tây Bắc với bạn đọc. Ở đó, chi tiết tiếng sáo có lẽ là mang nặng giá trị nhất, bởi nó không chỉ đơn giản thể hiện một nét truyền thống của người dân tộc mà còn góp phần quan trọng trong việc thể hiện vẻ đẹp, con người nhân vật.
II, Thân bài
1, Giải thích
– Chi tiết là gì? => Chi tiết có thể là một hành động, một sự kiện, một hành động trong truyện. Nó không chỉ đơn giản là yếu tố cấu thành nên một tác phẩm mà còn mang sức chứa lớn về nội dung và tư tưởng. Ta từng bắt gặp hương cháo hành đã làm Chí dậy sóng, ánh sáng của đoàn tàu rực sáng khi lướt qua phố huyện ảm đạm nơi chị em Liên, mang kí ức của một Hà Nội phồn hoa của hai chị em… Có đôi khi, chỉ một chi tiết nhỏ cũng đủ để tôn thêm sâu sắc hơn cái hồn của tác phẩm văn học.
– Giới thiệu khái quát về tác phẩm và chi tiết:
+ “Vợ chồng A Phủ” là thành quả của chuyến đi dài ngày của Tô Hoài cùng với bộ đội lên vùng cao Tây Bắc. Tại đây, trải qua những năm tháng cùng người dân miền núi, vùng đất ấy đã “để thương để nhớ” trong lòng người nghệ sĩ nhiều quá, chính niềm thương nhớ khôn nguôi ấy đã thôi thúc ông viết nên tác phẩm.
+ Câu chuyện kể về Mị – một cô gái người Mèo xinh đẹp và trẻ trung. Những tưởng cô sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, một cuộc đời tươi đẹp, ấy nhưng không. Gia đình Mị mang trên vai món nợ khổng lồ từ thời bố mẹ Mị còn trẻ, vì để cưới được nhau mà phải vay thống lí Pá Tra. Món nợ ấy qua từng năm lại lớn thêm, lãi mẹ đẻ lãi con, đến đời Mị, thống lí nói sẽ trừ hết nợ nếu để Mị gả cho A Sử – con trai thống lí. Nghe thì có vẻ tốt, ấy nhưng đây là một cuộc hôn nhân ép buộc, một cuộc hôn nhân không tình yêu.
+ Trở thành con dâu gạt nợ, bị công việc quấn thân, vội vã với những đày ải của nhà thống lí. Mang tiếng là con dâu ấy nhưng cuộc sống của Mị không khác gì con ở, bị đối xử bất công. Dần dần, chính bản thân Mị cũng bị cuộc sống ấy làm cho tê liệt cảm xúc. Những tưởng Mị sẽ cứ mãi như thế mà ở đến hết cuộc đời, nhưng vào đêm tình mùa xuân, sức sống của người con gái ấy thức tỉnh, tất cả chính là nhờ có âm thanh tiếng sáo ngoài kia.
2, Phân tích chứng minh
– Tiếng sáo không phải đến tận đêm tình mùa xuân mới xuất hiện. Nó trở đi trở lại trong những trang đời của Mị, từ khi Mị còn là một cô gái tự do, cho đến khi trở thành con dâu gạt nợ. Âm thanh tiếng sáo cứ văng vẳng bên tai như một lời mời gọi, dần dắt Mị tìm đến với tự do của riêng mình. Nhưng chỉ đến đêm tình mùa xuân, âm thanh tiếng sáo ấy mới thực sự khiến sức sống trong Mị bùng lên một cách mạnh mẽ.
* Tiếng sáo đánh thức cảm xúc
– “Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi.”: Âm thanh tiếng sáo hiện hữu trong tâm trí Mị, khiến người con gái ấy thấy thiết tha, thấy bồi hồi, đôi môi mấp máy nhẩm thầm theo lời bài hát. Âm thanh quen thuộc của quá khứ khiến Mị tự nhiên mà cất lên tiếng nói. => Tiếng sáo ấy là tiếng gọi của mùa xuân, đã đánh thức cảm xúc thẳm sâu trong tâm hồn Mị đang sống kiếp con dâu gạt nợ.
– “Lòng Mị đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”: Tiếng sáo gọi bạn đầu làng đưa Mị trở về với những kí ức của mình, quay trở lại làm một cô gái người Mèo nơi vùng núi Tây Bắc, xinh đẹp, tài hoa, “thổi sáo giỏi”. Kỉ niệm những đêm mùa xuân ngồi bên bếp uống rượu và thổi sáo, “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo.” Và người con gái toàn sắc toàn tài ấy thổi hay đến mức “có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo hết núi này sang núi khác” => Lúc này đây, tiếng sáo trở thành tiếng vang kí ức đánh thức những kỉ niệm thẳm sâu trong lòng Mị.
– “Tiếng sáo lửng lơ ngoài đường” đưa Mị trở lại hiện tại, nơi căn phòng với ô cửa sổ lỗ vuông nhỏ bằng bàn tay mờ mờ trăng trắng. Lúc này đây, Mị “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước”, cảm thấy rằng mình còn trẻ và muốn đi chơi. Rằng bao nhiêu người có chồng rồi vẫn đi chơi đấy, trong khi Mị và A Sử nào có lòng với nhau đâu => Giờ đây, tiếng sáo là tiếng gọi của tình yêu, của giai điệu bản tình ca mùa xuân, đưa Mị trở lại là chính mình.
=> Âm thanh tiếng sáo được miêu tả từ xa đến gần, là thanh âm của ngoại cảnh, mở ra khung cảnh mùa xuân Tây Bắc bàng bạc chất thơ, chính là điểm tựa để Tô Hoài khơi gợi những dòng cảm xúc, tâm lí của Mị.
* Tiếng sáo thúc giục hành động
– Tiếng sáo vẫn cứ văng vẳng bên tai, “rập rờn trong đầu Mị”, dẫn đến hành động nổi loạn của người con gái trẻ ấy: đến góc nhà, “lấy ống mỡ, xắn một miếng, bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Lúc này, Mị đã có ý thức và hành động xua đi bóng tối, hướng tới thắp lên ánh sáng. Hành động ấy không chỉ là có ý định xua đi cái tối trong phòng mà còn là xua đi cái tối đang bủa vây lấy cuộc đời Mị, lấy tâm hồn Mị bao lâu nay.
– Rồi Mị sửa soạn đi chơi, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa ở phía trong vách, trở thành một cô gái xinh đẹp ngày nào. Tiếng sáo đã dẫn dắt bước chân Mị, đưa Mị bước ra khỏi căn phòng chật hẹp, đưa Mị đến gần hơn với ánh sáng, với hạnh phúc.
* Tiếng sáo giải thoát tâm hồn Mị
– Đúng lúc Mị chuẩn bị đi chơi thì bị A Sử nhìn thấy là lấy dây trói lại vào cột nhà, quấn luôn cả tóc lên cột, khiến đầu Mị không quay không nghiêng được. Ấy nhưng Mị không biết mình đang bị trói, vẫn thả hồn theo tiếng sáo ngoài kia, đi theo những cuộc chơi, phiêu du theo âm thanh của những bản tình ca tha thiết. Nhờ tiếng sáo, Mị thoát khỏi nghịch cảnh của hiện tại, thậm chí không ý thức được rằng mình đang bị trói.
=> Chính tiếng sáo trở thành tiếng gọi của tự do, giải phóng tâm hồn của Mị.
– Khi tiếng sáo lịm tắt, ô cửa gắn tâm hồn Mị với mùa xuân, với tình yêu cũng đóng lại. Mị cảm nhận được cái siết chặt của những vòng dây trói trên người mình. Nhưng đó không chỉ là sợi dây trói thân thể Mị mà còn là sợi dây giam giữ tâm hồn Mị.
3, Đánh giá
– Tiếng sáo đã trở thành điểm tựa nâng đỡ tâm hồn Mị, giải thoát sức sống mãnh liệt đã bị kìm hãm bấy lâu nay trong Mị, để rồi đến đêm đông cởi trói cho A Phủ, sức sống ấy bùng lên thật mạnh mẽ.
– Chi tiết nghệ thuật độc đáo ấy không chỉ nêu bật được nét văn hóa đặc trưng của vùng núi Tây Bắc, nét truyền thống đẹp của người dân tộc Mèo mà còn giúp nhà văn từ đó dễ dàng miêu tả được tâm lí nhân vật một cách logic, sống động và hấp dẫn.
– Đồng thời giúp nhà văn dễ dàng thể hiện được tình cảm của mình với nhân vật, góp phần tô đậm thêm giá trị nhân đạo cũng như giá trị hiện thực của tác phẩm.
III. Kết bài
– Khái quát lại giá trị chi tiết với tác phẩm và tác giả, có thể đưa thêm lí luận để bài viết sâu sắc hơn.
Ví dụ: Tác phẩm khép lại nhưng âm thanh tiếng sáo ấy vẫn cứ văng vẳng mãi trong tâm trí ta. Để rồi mỗi lần lắng nghe và nhớ lại, bất giác trong ta hiện lên hình ảnh một người con gái xinh đẹp với cuộc đời gian truân mà cũng thật kiên cường, hiện lên một bức tranh Tây Bắc thơ mộng đầy chất thơ.
Phân tích chi tiết tiếng sáo học sinh giỏi
Nếu hình ảnh căn buồng Mị nằm là một trong những chi tiết có sức ám ảnh ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nhất thì hình tượng tiếng sáo đêm tình mùa xuân lại có sức quyến rũ lòng người nhất. Hình tượng tiếng sáo nằm ở phần giữa tác phẩm, ngòi bút Tô Hoài đã rất dụng công để miêu tả thanh âm của tiếng sáo nơi vùng núi cao Tây Bắc trong đêm tình mùa xuân.
Sau những chuỗi ngày sống chỉ mang ý nghĩa của sự tồn tại, tê liệt, chai lì thì cái nồng nàn của lửa, của men rượu, cái tươi vui chộn rộn của mùa xuân Hồng Ngài đã đánh thức tâm hồn Mị, tiếng sáo đã vọng đến đôi tai Mị. Tiếng sáo được miêu tả từ xa đến gần, với những cung bậc khác nhau: khi tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo văng vẳng gọi bạn đầu làng, tiếng sáo lửng lơ bay ngoài đường, trong đầu Mị, rập rờn tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, …
Trước hết, đây là chi tiết có ý nghĩa tả thực về nét đẹp văn hóa của miền núi cao Tây Bắc, khiến người ta liên tưởng đến âm thanh quen thuộc, gần gũi của núi rừng trong những đêm xuân ở Hồng Ngài. Nếu Tây Nguyên có tiếng cồng, tiếng chiêng âm vang khắp bản làng, rừng núi, nếu miền quê đồng bằng Bắc Bộ có tiếng trống chèo, tiếng hát giao duyên, tiếng đàn bầu thánh thót thì với những người dân Tây Bắc, họ vốn ít nói, kiệm lời, họ gửi lòng mình vào tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng kèn môi, thổi lá để trao gửi tâm tình, để mời gọi bạn yêu. Tiếng sáo vang lên với những cung bậc khác nhau, khi xa khi gần, khi trầm bổng khoan thai, khi rập rờn, khi lấp ló… m thanh tiếng sao vang lên những ca từ mộc mạc thể hiện lẽ sống hồn nhiên, yêu đời, phóng khoáng của những con người nơi đây
“Mày có con trai, con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu…”.
Chẳng những vậy, tiếng sáo còn mang đến chất thơ, làm dịu mát cuộc sống trăm đắng ngàn cay với nỗi đời cơ cực của con người nơi đây, khiến mảnh đất Tây Bắc vốn xa lạ, hoang vu trở nên gần gũi, thơ mộng.
Không dừng lại ở ý nghĩa tả thực, chi tiết tiếng sáo góp phần diễn tả vẻ đẹp tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay thức tâm hồn Mị, khiến lòng Mị thiết tha, bổi hồi, nhẩm thầm bài hát của người đang thổi và những kí ức đẹp đẽ nồng nàn của người con gái đã trở về. Tiếng sáo đã làm bừng lên khát vọng sống, Mị ý thức hiện tại mình vẫn còn trẻ, Mị ý thức về quyền hạnh phúc “Mị muốn đi chơi”, Mị sửa soạn lại đầu tóc, váy áo, … Tiếng sáo khiến Mị quên đi thực tại khổ đau: khi Mị định ăn lá ngón để chết ngay chứ không muốn nghĩ về ngày trước nữa thì tiếng sáo lửng lơ ngoài đường lại đưa Mị trở về với niềm khát sống, khi bị trói đứng cả đêm, tâm hồn Mị vẫn bay bổng cùng tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi. Nếu căn buồng Mị nằm biểu tượng cho thứ ngục thất tinh thần giam hãm đời Mị, thì hình tượng tiếng sáo trở thành biểu tượng đẹp đẽ cho khát vọng tự do, khát vọng sống, khát vọng tình yêu trong tâm hồn Mị.
Chi tiết góp phần thể hiện tư tưởng, tài năng của ngòi bút Tô Hoài. Đó là tấm lòng nâng niu trân trọng của nhà văn đối với nét đẹp văn hóa vùng miền cùng tấm lòng thấu hiểu, ngợi ca khát vọng tự do, hạnh phúc của con người miền sơn cước. Một chi tiết giàu chất thơ, lai láng dư vị trữ tình có sức sống lâu bền trong tâm hồn người đọc, để mỗi khi nhắc tới “Vợ chồng A Phủ” là bên tai đã văng vẳng tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài đầu núi.
Tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ
Bài làm mẫu 1
“Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài là một tác phẩm xuất sắc viết về người lao động miền núi. Trong truyện có rất nhiều những chi tiết đặc sắc và độc đáo góp phần làm bật lên được cuộc đời của nhân vật Mị, tô đậm thêm cho bức tranh miền núi Tây Bắc với bạn đọc. Ở đó, chi tiết tiếng sáo có lẽ là mang nặng giá trị nhất, bởi nó không chỉ đơn giản thể hiện một nét truyền thống của người dân tộc mà còn góp phần quan trọng trong việc thể hiện vẻ đẹp, con người nhân vật.
Chi tiết là gì? Chi tiết có thể là một hành động, một sự kiện, một hành động trong truyện. Nó không chỉ đơn giản là yếu tố cấu thành nên một tác phẩm mà còn mang sức chứa lớn về nội dung và tư tưởng. Ta từng bắt gặp hương cháo hành đã làm Chí dậy sóng, ánh sáng của đoàn tàu rực sáng khi lướt qua phố huyện ảm đạm nơi chị em Liên sống, mang kí ức của một Hà Nội phồn hoa của hai chị em… Có đôi khi, chỉ một chi tiết nhỏ cũng đủ để tôn thêm sâu sắc hơn cái hồn của tác phẩm văn học.
“Vợ chồng A Phủ” là thành quả của chuyến đi dài ngày của Tô Hoài cùng với bộ đội lên vùng cao Tây Bắc. Tại đây, trải qua những năm tháng cùng người dân miền núi, vùng đất ấy đã “để thương để nhớ” trong lòng người nghệ sĩ nhiều quá, chính niềm thương nhớ khôn nguôi ấy đã thôi thúc ông viết nên tác phẩm.
Câu chuyện kể về Mị – một cô gái người Mèo xinh đẹp và trẻ trung. Những tưởng cô sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, một cuộc đời tươi đẹp, ấy nhưng không. Gia đình Mị mang trên vai món nợ khổng lồ từ thời bố mẹ Mị còn trẻ, vì để cưới được nhau mà phải vay thống lí Pá Tra. Món nợ ấy qua từng năm lại lớn thêm, lãi mẹ đẻ lãi con, đến đời Mị, thống lí nói sẽ trừ hết nợ nếu để Mị gả cho A Sử – con trai thống lí. Nghe thì có vẻ tốt, ấy nhưng đây là một cuộc hôn nhân ép buộc, một cuộc hôn nhân không tình yêu.
Trở thành con dâu gạt nợ, bị công việc quấn thân, vội vã với những đày ải của nhà thống lí. Mang tiếng là con dâu ấy nhưng cuộc sống của Mị không khác gì con ở, bị đối xử bất công. Dần dần, chính bản thân Mị cũng bị cuộc sống ấy làm cho tê liệt cảm xúc. Những tưởng Mị sẽ cứ mãi như thế mà ở đến hết cuộc đời, nhưng vào đêm tình mùa xuân, sức sống của người con gái ấy thức tỉnh, tất cả chính là nhờ có âm thanh tiếng sáo ngoài kia.
Tiếng sáo không phải đến tận đêm tình mùa xuân mới xuất hiện. Nó trở đi trở lại trong những trang đời của Mị, từ khi Mị còn là một cô gái tự do, cho đến khi trở thành con dâu gạt nợ. Âm thanh tiếng sáo cứ văng vẳng bên tai như một lời mời gọi, dần dắt Mị tìm đến với tự do của riêng mình. Nhưng chỉ đến đêm tình mùa xuân, âm thanh tiếng sáo ấy mới thực sự khiến sức sống trong Mị bùng lên một cách mạnh mẽ.
Tiếng sáo đánh thức cảm xúc: “Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi.”: Âm thanh tiếng sáo hiện hữu trong tâm trí Mị, khiến người con gái ấy thấy thiết tha, thấy bồi hồi, đôi môi mấp máy nhẩm thầm theo lời bài hát. Âm thanh quen thuộc của quá khứ khiến Mị tự nhiên mà cất lên tiếng nói. Tiếng sáo ấy là tiếng gọi của mùa xuân, đã đánh thức cảm xúc thẳm sâu trong tâm hồn Mị đang sống kiếp con dâu gạt nợ.
“Lòng Mị đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”: Tiếng sáo gọi bạn đầu làng đưa Mị trở về với những kí ức của mình, quay trở lại làm một cô gái người Mèo nơi vùng núi Tây Bắc, xinh đẹp, tài hoa, “thổi sáo giỏi”. Kỉ niệm những đêm mùa xuân ngồi bên bếp uống rượu và thổi sáo, “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo.” Và người con gái toàn sắc toàn tài ấy thổi hay đến mức “có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo hết núi này sang núi khác”. Lúc này đây, tiếng sáo trở thành tiếng vang kí ức đánh thức những kỉ niệm thẳm sâu trong lòng Mị.
“Tiếng sáo lửng lơ ngoài đường” đưa Mị trở lại hiện tại, nơi căn phòng với ô cửa sổ lỗ vuông nhỏ bằng bàn tay mờ mờ trăng trắng. Lúc này đây, Mị “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước”, cảm thấy rằng mình còn trẻ và muốn đi chơi. Rằng bao nhiêu người có chồng rồi vẫn đi chơi đấy, trong khi Mị và A Sử nào có lòng với nhau đâu. Giờ đây, tiếng sáo là tiếng gọi của tình yêu, của giai điệu bản tình ca mùa xuân, đưa Mị trở lại là chính mình. Âm thanh tiếng sáo được miêu tả từ xa đến gần, là thanh âm của ngoại cảnh, mở ra khung cảnh mùa xuân Tây Bắc bàng bạc chất thơ, chính là điểm tựa để Tô Hoài khơi gợi những dòng cảm xúc, tâm lí của Mị. Tiếng sáo vẫn cứ văng vẳng bên tai, “rập rờn trong đầu Mị”, dẫn đến hành động nổi loạn của người con gái trẻ ấy: đến góc nhà, “lấy ống mỡ, xắn một miếng, bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Lúc này, Mị đã có ý thức và hành động xua đi bóng tối, hướng tới thắp lên ánh sáng. Hành động ấy không chỉ là có ý định xua đi cái tối trong phòng mà còn là xua đi cái tối đang bủa vây lấy cuộc đời Mị, lấy tâm hồn Mị bao lâu nay.
Rồi Mị sửa soạn đi chơi, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa ở phía trong vách, trở thành một cô gái xinh đẹp ngày nào. Tiếng sáo đã dẫn dắt bước chân Mị, đưa Mị bước ra khỏi căn phòng chật hẹp, đưa Mị đến gần hơn với ánh sáng, với hạnh phúc.
Đúng lúc Mị chuẩn bị đi chơi thì bị A Sử nhìn thấy là lấy dây trói lại vào cột nhà, quấn luôn cả tóc lên cột, khiến đầu Mị không quay không nghiêng được. Ấy nhưng Mị không biết mình đang bị trói, vẫn thả hồn theo tiếng sáo ngoài kia, đi theo những cuộc chơi, phiêu du theo âm thanh của những bản tình ca tha thiết. Nhờ tiếng sáo, Mị thoát khỏi nghịch cảnh của hiện tại, thậm chí không ý thức được rằng mình đang bị trói. Chính tiếng sáo trở thành tiếng gọi của tự do, giải phóng tâm hồn của Mị.
Khi tiếng sáo lịm tắt, ô cửa gắn tâm hồn Mị với mùa xuân, với tình yêu cũng đóng lại. Mị cảm nhận được cái siết chặt của những vòng dây trói trên người mình. Nhưng đó không chỉ là sợi dây trói thân thể Mị mà còn là sợi dây giam giữ tâm hồn Mị.
Tiếng sáo đã trở thành điểm tựa nâng đỡ tâm hồn Mị, giải thoát sức sống mãnh liệt đã bị kìm hãm bấy lâu nay trong Mị, để rồi đến đêm đông cởi trói cho A Phủ, sức sống ấy bùng lên thật mạnh mẽ. Chi tiết nghệ thuật độc đáo ấy không chỉ nêu bật được nét văn hóa đặc trưng của vùng núi Tây Bắc, nét truyền thống đẹp của người dân tộc Mèo mà còn giúp nhà văn từ đó dễ dàng miêu tả được tâm lí nhân vật một cách logic, sống động và hấp dẫn.
Đồng thời giúp nhà văn dễ dàng thể hiện được tình cảm của mình với nhân vật, góp phần tô đậm thêm giá trị nhân đạo cũng như giá trị hiện thực của tác phẩm.
Tác phẩm khép lại nhưng âm thanh tiếng sáo ấy vẫn cứ văng vẳng mãi trong tâm trí ta. Để rồi mỗi lần lắng nghe và nhớ lại, bất giác trong ta hiện lên hình ảnh một người con gái xinh đẹp với cuộc đời gian truân mà cũng thật kiên cường, hiện lên một bức tranh Tây Bắc thơ mộng đầy chất thơ.
Bài làm mẫu 2
Vợ chồng A Phủ, là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn. Tô Hoài đã “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với đồng bào dân tộc Tây Bắc trong suốt 8 tháng của năm 1952. Để rồi ông rút ra cho bản thân những giá trị tinh thần, những giá trị rất riêng về bản sắc dân tộc của người dân nơi đây. Từ đó, những gì tinh tú nhất được văn nhân gửi gắm vào Vợ chồng A Phủ. Một trong những cái hay, cái riêng nhất của bài ta không thể không nói đến tiếng sáo. Một hình ảnh mang giá trị nghệ thuật cốt lõi, một yếu tố làm nên thành công của tác phẩm.
Nói đến con người và núi rừng Tây Bắc xa xôi ấy, ta sẽ nói đến cảnh sắc và những bản sắc văn hóa rất riêng biệt của họ như chợ phiên, áo váy mang hơi thở dân tộc Mèo… Mà trong ấy tiếng sáo là một yếu tố không thể thiếu, một nét đặc trưng làm bật lên vẻ đẹp hoang vu của thiên nhiên nơi đây. Dường như cảm nhận và thấy được giá trị của sáo và âm thanh đầy cuốn hút ấy, Tô Hoài đã khiến tiếng sáo trở thành một giá trị mang tính nghệ thuật không thể thiếu vào tác phẩm. Bởi tiếng sáo như là một bông hoa xinh đẹp, mang tính thơ, tính văn chương đầy nghệ thuật và trữ tình giữa hiện thực phũ phàng, khắc nghiệt của chế độ cường quyền, thần quyền lúc bấy giờ. Nếu thiếu đi tiếng sáo, thử hỏi có còn một Mị yêu đời, muốn được sống được đi chơi nữa hay không?
Câu trả lời sẽ không còn một Mị tha thiết được sống, được đi chơi vào mùa xuân khi mất đi tiếng sáo. Bởi tiếng sáo đã gắn liền với cô từ trước khi vào làm dâu nhà thống lí. “Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Tiếng sáo của tình yêu, là tiếng gọi đi chơi “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Một thanh âm có sức hút mạnh mẽ làm Mị “thiết tha bổi hổi”. Từ một con người mang danh “con dâu gạt nợ”, bị bắt về cúng trình ma, ngày ngày lầm lũi như “con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị dường như không muốn sống nữa. Những ngày đầu về làm dâu “có đến hằng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị toan ăn lá ngón tự tử, ấy vậy mà Mị ném đi đống lá ngón trong tay. “Mị không đành lòng chết. Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa”. Cô quay về nhà thống lí như thân xác không hồn. “Ai ở xa về, thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa,cạnh tàu ngựa.Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị quen khổ rồi, không sợ gì cả, đến cả cái chết cũng thế. Cuộc đời của Mị đã chấm dứt từ cái đêm trở về từ nhà bố Mị. Ấy vậy mà, những đêm tình mùa xuân tới mang theo tiếng sáo đã thắp sáng lại cuộc đời tăm tối của Mị. “Lòng Mị thì đang sống vè ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Trong lòng vang lên tiếng sáo, thanh âm đã khiến lòng Mị phơi phới trở lại, cô đã tìm lại ý nghĩa sống. “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Tiếng sáo còn làm bừng lên cái không gian, màu sắc tăm tối của tác phẩm. Nó mang dấu hiệu của sự sống, của mùa sinh sôi nảy nở, “những chiếc váy hóa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Mị đã ý thức được sự sống. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, “xắn một miếng bỏ thêm vào đia đèn cho sáng”. Dường như Mị không chỉ thắp sáng căn phòng mà là thắp lên sự sống, thắp sáng cuộc đời của cô. Ánh sáng tuy le lỏi của đèn dầu nhưng đủ mạnh mẽ trong ý thức của Mị. Ánh sáng và âm thanh của sáo đã cứu rỗi cuộc đời Mị. Cũng giống như ngọn lửa của bếp sưởi vào những đêm mùa đông “trên núi cao dài và buồn”, Mị chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Phải chăng trong cái giá lạnh của nơi thiếu tình người này, đó là tia hi vọng, là nơi khiến trái tim của Mị được sưởi ấm, được sống với cuộc đời mà mình muốn. Đó có phải là mơ ước của riêng Mị hay không? Hay còn là của những người lao động vùng cao Tây Bắc được Tô Hoài thổ lộ thay cho?
Mị ý thức được sự sống nhờ có tiếng sáo. Cô với tay lấy cái váy hóa ở phía trong vách, sẵn tay quấn lại tóc. Nhưng thằng A Sử thấy được, nó trói Mị lại, quấn cả tóc Mị lên cột để không nghiêng đi đâu được. “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tiếng sáo đối lập với “tiếng chân ngựa đạp vào vách”, nó thức tỉnh Mị. Mị nghĩ mình không bằng con ngựa. Sự đau đớn ấy của Mị dường như lại là điều đáng mừng. Bởi cô biết đau, biết rằng mình muốn sống, muốn thoát khỏi đây. Đâu còn Mị lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, chỉ biết làm việc và trông ra cửa sổ đến bao giờ chết thì thôi. Tiếng sáo như một giá trị nhân đạo mà Tô Hoài đã đưa vào tác phẩm để cứu Mị, nó còn là một nghệ thuật, nét chấm phá độc đáo trong bài đến nhường nào. Nếu không có tiếng sáo, liệu có khiến trái tim, con người trong Mị sống lại, có khiến Mị cắt dây, cởi trói cho A Phủ hay không? Liệu cô có thấy mình đang bị cột lại như A Phủ để rung cảm, để sợ người nào đó vô tội mất mạng trong tay bọn cường hào ác bá hay không?
Tóm lại, tiếng sáo là điểm nhấn cực kì ý nghĩa và mang tính trữ tình trong Vợ chồng A Phủ. Nếu thiếu tiếng sáo ta sẽ không thấy một Mị yêu đời muốn hòa mình với trời xuân như thế. Sẽ không có một ai có thể níu kéo phần đời còn lại của Mị và A Phủ như vậy nếu không có thanh âm kì diệu ấy. Tô Hoài đã thành công trong việc xây dựng nội dung và cốt truyện, thành công trong miêu tả tâm lí nhân vật và tố cáo tội ác của cường quyền và những hủ tục lúc bấy giờ.
Bài làm mẫu 3
Tô Hoài là một trong những nhà văn hiện thực lớn nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông đi nhiều, trải nghiệm nhiều, với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường tăng vốn hiểu biết giàu có về phong tục và đời viết không ngừng nghỉ đưa nhà văn Tô Hoài lên vị trí không thể nhầm lẫn, khó có thể thay thế. Vợ chồng A Phủ, một trong ba truyện in trong tập Truyện Tây Bắc, có thể nói là một tác phẩm xuất sắc bậc nhất của nhà văn Tô Hoài. Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ Tô Hoài không chỉ thành công ở việc khắc họa chân dung các nhân vật mà nhà văn còn có biệt tài trong việc xây dựng các chi tiết truyện rất đặc sắc. Trong đó, chi tiết tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân mang nhiều ý nghĩa.
Hình tượng tiếng sáo được nhắc đến nhiều lần: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi…”. “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng…”. “Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường…”. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,…”.
Trước hết, hình tượng tiếng sáo biểu hiện cho vẻ đẹp của phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền núi. Tiếng sáo mở ra một không gian xa xôi của núi rừng tây bắc. Tiếng sáo gọi bạn, gọi người yêu là nét đẹp văn hoá của người dân miền núi. Đó là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, tình yêu; nó đã lay gọi, khơi gợi lòng yêu đời, yêu cuộc sống tự do trong Mĩ. Tiếng sáo đại diện cho tài năng của con người. “Mị thổi sáo giỏi”, “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm để thổi sáo đi theo Mị”
Tiếng sáo có quan hệ mật thiết với quá trình diễn biến tâm lí của Mị, là động lực thúc đẩy Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân. Tiếng sáo kêu gợi quá khứ tươi đẹp ,ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, đồng thời tiếng sáo là chất xúc tác trực tiếp khơi gợi sức sống tiềm tàng của Mị “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”, “Mị vùng bước đi”.
Sức sống con người cho dù bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ chờ cơ hội bùng lên là giá trị nhân đạo. Tiếng sáo là chi tiết nghệ thuật đặc biệt tố cáo bản chất của giai cấp thống trị thực dân phong kiến miền núi, cự tuyệt quyền sống, quyền làm người của con người. Nếu tiếng chân ngựa đạp vào vách là sự lên tiếng của hiện thực phũ phàng thì tiếng sao lại là hiện thân của những ước mơ, hoài niệm.
Hình tượng tiếng sáo thể hiện sự khám phá độc đáo của nhà văn Tô Hoài. Hình ảnh tiếng sáo là một chi tiết hết sức đặc sắc, trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm, có ý nghĩa như một hình tượng nghệ thuật, mang ý nghĩa, dùng nhiều giá trị mang sức nặng. Có thể nói, từ một hình tượng quen thuộc ngoài đời sống, thường xuất hiện trong các lễ hội mùa xuân, thì qua ngòi bút Tô Hoài đã biến thành một chi tiết, một hình tượng thật đắt giá.
Hình tượng tiếng sáo tộ đậm giá trị nhân đạo của tác phẩm: Không chỉ có sự phát hiện, tái hiện hình tượng thành công, tiếng sáo còn cộng hưởng, làm gia tăng sức mạnh của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm. Đặc biệt khi nó nhấn mạnh vào những mộng tưởng, những thôi thúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.
Tiếng sáo là một hình tượng nghệ thuật độc đáo. Tiếng sáo xuất hiện trong đêm tình mùa xuân là âm thanh hình tượng quen thuộc, đặc trưng của người Mèo ở vùng cao mỗi khi tết đến, nghệ thuật xuân về. Đó là tiếng sáo gọi bạn yêu, là cầu nối cho các đôi lứa, giúp các chàng trai tỏ tình và giãi bày yêu thương. Âm thanh ấy cũng chất chứa nhiều khát vọng yêu thương cháy bỏng trong các nhịp đập trái tim.
Tiếng sáo là một trong những chi tiết được Tô Hoài dụng công miêu tả. Nó xuất hiện nhiều lần, trở đi trở lại với các mức độ và sắc thái khác nhau. Lúc đầu là tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếp đến nó văng vắng ở đầu làng, “lửng lơ bay ngoài đường”. Và rồi giữa Mị và tiếng sáo không còn khoảng cách. Âm thanh ấy len lỏi vào trong tâm trí của Mị. Không chỉ có tiếng sáo hiện tại cô nghe, mà Mi còn nhớ lại cả tiếng sáo trong quá khứ, về khoảng thời gian tươi đẹp, kiêu hãnh của mình. Cuối cùng, tiếng sáo trở thành động lực, dù tiếng sáo thực đã mất, nhưng tiếng sáo tâm tưởng – hay tiếng lòng khát khao của Mị đã bừng tỉnh.
Nghệ thuật miêu tả tiếng sáo và tâm trạng nhân vật của nhà văn Tô Hoài rất tài hoa. Tám lần ông nói tới tiếng sáo, kể về những cô gái, chàng trai thổi sáo, hát tình ca, nghe sáo, đi theo tiếng sáo. Ba lần ông giai đặc tả tiếng sáo: văng vẳng tiếng sáo…, tiếng sáo lửng lơ bay…, trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo… Những từ tượng thanh, kết hợp nghệ thuật đảo âm tiết (không viết lơ lửng mà viết lửng lơ), đảo từ (động từ văng vẳng trước danh từ tiếng sáo, tính từ lửng lơ trước động từ bay, động từ rập rờn trước danh từ tiếng sáo) khiến cho những âm thanh của thứ nhạc cụ dân dã ấy trở nên sống động, có hồn, ấn tượng xiết bao. Và nhờ đó, những cung bậc tâm trạng của nhân vật Mị trở nên phong phú, trầm thăng, xốn xang, rung nhịp cùng tiếng sáo.
Nhờ tiếng sáo đêm tình mùa xuân đó mà nhà văn mở được cánh cửa tâm hồn nhân vật My đã im ỉm khóa suốt bao nhiêu năm trời. Tiếng sáo là một hình tượng nghệ thuật mang sức nặng giá trị nhân đạo. Tiếng sáo đã gọi dậy một tâm hồn chai sạn. Hay nói cách khác, nhờ hình tượng, tiếng sáo, nhà văn đã đi sâu vào để phát hiện sức sống tiềm tàng của mang sức người con gái Mèo ấy. Đó là một sức sống mạnh mẽ, đầy những khát năng giá trị khao.
Tiếng sáo làm Mị thức dậy những ký ức xưa cǜ, tiếng sáo là đại diện cho miền ký ức tươi đẹp: Có biết bao người ngày đêm thổi sáo đi theo, cái thời Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu tự do. Nhớ lại, Mi lại ứa nước mắt, mà tiếng sáo lại lửng lơ bay ngoài đường, lúc này tiếng sáo như động lực, như thôi thúc Mị, đây đưa Mị đến với những đêm tình mùa xuân.
Và tiếng sáo vẫn tiếp tục vang lên những giai điệu như tô đậm hơn những khát khao bung tỏa, khát khao tự do, khát khao hạnh phúc của Mị mặc cho những nút thắt của sợi dây đang xiết chặt tấm thân Mị.
Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Đọc tác phẩm, suy ngẫm về sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, chúng ta không thể lướt qua hình tượng thẩm mỹ tiếng sáo. Bởi vì, đấy là một điểm sáng nghệ thuật vừa hiện thực, vừa lãng mạn, đậm chất dân tộc và chất thơ. Bởi vì, đây cũng là một cung bậc tinh tế trong cảm hứng nhân đạo, nhân văn rất đáng trân trọng của ngòi bút Tô Hoài.
Bài làm mẫu 4
Belinxky từng nói rằng: “ Tác phẩm văn học sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả…”, phải chăng để tác phẩm vượt ra ngoài quy luật của sự băng hoại, nhà văn cần xây dựng hình tượng nghệ thuật thay vì mô phỏng cuộc đời vào trang viết? Vậy nên ta có dịp bắt gặp thông điệp sâu sắc của nhà văn Tô Hoài muốn gửi gắm qua hình tượng tiếng sáo độc đáo trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ”.
Nhà văn Tô Hoài quan niệm khi kiếm tìm chất liệu cho trang văn cần cái đẹp rất thực giữa trang đời, “ cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Vậy nên, sau chuyến đi của nhà văn và bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, trong suốt tám tháng sống gắn bó, nghĩa tình với đồng bào tạo nên chất men say chắp cánh cảm hứng sáng tác “ Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “ Truyện Tây Bắc”(1953).
Ở đó nhà văn khám phá vẻ đẹp, chất ngọc của tâm hồn người lao động và niềm thấu hiểu nỗi thống khổ số phận của họ chịu sự áp bức của thần quyền và ủy quyền những năm cách mạng chưa về. Nhà văn đã dùng công xây dựng hình tượng nghệ thuật xuất phát từ những hình ảnh chân thực trong cuộc sống, được lọc qua lăng kính chủ quan của nghệ sĩ và vốn ngôn từ, hình tượng mang tính đa nghĩa trong tâm trí bạn đọc.
Hình tượng tiếng sáo xuất hiện khá nhiều trong đêm tình mùa xuân, có khi “ lấp ló đầu núi”, “ thiết tha bổi hổi”, lúc “ lửng lơ bay ngoài đường”, “ rập rờn trong đầu Mị”. Khi A Sử trói đứng Mỵ ở cột nhà, tiếng sáo vẫn đưa cô vào cuộc chơi trong cơn mơ thức chập chờn, trong tạp âm cuộc sống.
Tiếng sáo được coi là linh hồn trong đêm tình khi những chàng trai, cô gái mở hội lòng. Đó cũng là hiện thân của vùng miền văn hóa, phong tục, âm thanh náo nhiệt, lắng sâu của đêm hội. Âm vang ấy thường gắn liền với câu hát gọi bạn yêu, chơi pao, con quay, quyện trong tiếng khèn và tiếng đàn môi. Đó là phương tiện kết nối tiếng lòng thẳm sâu của người miền núi. Trước cây bút Tô Hoài, miền núi từng hiện lên là chốn sơn cùng hiểm họa, không gian xa lạ, hoang vu bí hiểm với những truyền thuyết ghê rợn như “ Vàng và máu”, “ Ngậm ngải tìm trầm”, thì đến Tô Hoài, ông khám phá nét đẹp trong trẻo trở thành chất thơ bay bổng dạt dào trong đời sống tinh thần của con người.
Hình tượng tiếng sáo còn giàu sức gợi khi nó mang lại sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật Mị. Trong gian buồng tối, tiếng sáo văng vẳng gọi dậy giác quan của Mỵ sau bao ngày sống không bằng chết. Mắt cô không còn thấy cái mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay nắng, mà biết đón nhận sắc màu tươi sáng của những chiếc váy hoa. Tai không còn nghe tiếng chân ngựa đạp vách mỏi mòn mà đón nhận những thanh âm vui tươi: tiếng chó sủa, nói cười…Thân xác rạo rực hơi men rượu ngô. Tiếng sáo cũng đánh thức tiềm thức của Mỵ, khiến nàng chợt nhớ, nhẩm thầm lời ca năm nào:
“Mày có con trai, con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai, con gái
Ta đi tìm người yêu”
Bài hát một thời con gái đắm say đã ngủ sâu trong khao khát, nay tìm về. Âm vang tiếng sáo còn giúp Mỵ “ sống” lại với những kỉ niệm cơ hồ không mảy may biết đến khổ đau hiện tại. Nhận thức của Mị cũng trở về vẹn nguyên, tuổi trẻ Mị “ còn trẻ, trẻ lắm”, quyền sống tự do “ A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Đó là sự trói buộc sức sống, kìm hãm tuổi trẻ của cô. Tiếng sáo gọi dậy khát vọng mạnh mẽ, dẫn nàng tới chuỗi hành động: xắn miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn, hành động sửa soạn ngắn, nhịp nhanh, một loạt động từ “ quấn, với tay, xắn” thổi sinh khí cho nhân vật. Mị vùng bước đi khi chân tay bị trói bởi sợi dây nghiệt ngã của A Sử, tuy con chim chưa thoát khỏi lồng chật nhưng khát vọng vươn tới cao xanh. Tiếng sáo dìu Mỵ tham gia cuộc chơi ngoài đường nhộn nhịp, thức tỉnh mọi tri giác của Mỵ.
Hình tượng tiếng sáo được xây dựng sống động bởi ngôn từ mang đậm hơi thở cuộc sống, hình ảnh giàu sức gợi, cách dẫn truyện tự nhiên, khiến chữ chữ đứng trên trang giấy. Hình tượng đậm tô vẻ đẹp của con người lao động trong cơ cực vẫn mang tâm hồn trong sáng, giàu khát vọng, đồng thời giúp ta cảm nhận nét phong phú của văn hóa vùng cao và kết tinh tài năng tả cảnh, khắc họa tâm lý nhân vật tài tình. Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” quả thực vượt lên sự băng hoại của thời gian bởi những ý nghĩa hình tượng tiếng sáo mang lại.
Bài làm mẫu 5
Những đêm tình mùa xuân đã tới…
Sau những dòng hiện thực, trĩu nặng lòng trắc ẩn trước kiếp người nô lệ, nhà văn Tô Hoài chuyển sang ngọn bút bằng câu văn lãng mạn, mộng mơ ấy để mở đầu những phút trỗi dậy của sức sống tuổi trẻ trong tâm hồn cô Mị – nhân vật chính trong truyện “ Vợ chồng A Phủ”. Từ đó, biết bao câu chữ, bao chi tiết, hình ảnh thẩm mỹ cứ nối nhau tuôn chảy, cứ gọi nhau ngân vang. Trong những hình ảnh, chi tiết ấy, có lẽ nhà văn dụng công nhiều nhất khi miêu tả hình ảnh “tiếng sáo đêm xuân”. Chỉ đọc hơn hai trang truyện, tôi đã đếm được mười ba lần Tô Hoài nói đến tiếng sáo. Trong đó, có sáu lần tiếng sáo được đặc tả với những sắc độ âm thanh, những ngữ nghĩa và hiệu quả thẩm mỹ thật là sống động, phong phú.
“ … Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu…”
Đấy là mấy giai điệu mở đầu của tiếng sáo. Nó từ xa vọng lại, nhưng nó thiết tha bổi hổi, nghĩa là nó thật gần gũi, da diết, khẩn cầu, nóng ấm một khát vọng được yêu, có người để yêu thương. Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi (ca dao ). Vì thế,vừa nghe tiếng sáo, Mị đã nhẩm thầm được lời bài tình ca, trong đó hiển hiện một nghịch cảnh của cô gái đang khao khát hạnh phúc lứa đôi: Mày có. Ta không. Mày đi làm nương. Ta đi tìm người yêu. Nói khác đi, tiếng sáo mở đầu trong những đêm tình mùa xuân ấy là tiếng gọi của bạn bè. Nó có hai sắc độ thiết tha và bổi hổi, đã đánh thức tâm hồn đang yên ngủ, an phận, nó nhóm lên khát vọng đang lụi tàn trong ý nghĩ và tình cảm của Mị, người đàn bà từng có một tuổi trẻ biết yêu, được yêu và tràn đầy hạnh phúc.
Từ cái chức năng đánh thức, tiếng sáo đã hồi sinh cho tâm hồn và giục giã cô Mị hành động. Từ tiếng sáo ngoài đầu núi, Mị nghe tiếng sáo ở ngay sân chơi trong làng. Mị lén lấy hũ rượu, uống ừng ực, rồi lịm mặt và lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Dồn dập, nối nhau, sáu lần, nhà văn kể về tiếng sáo. Khi là của Mị, khi của người khác, tiếng sáo cất lên, trong hiện tại, hòa quyện những âm thanh trong quá khứ vọng về. Và cũng dồn dập những sự việc, những niềm vui tuổi trẻ mà Mị từng trải qua, đang sống lại. Đọc văn, ta ngỡ như mỗi từ ngữ, mỗi câu văn cứ ngân lên, rộn ràng tiếng sáo náo nức tình người. Sóng âm thanh khi thì vút cao lên, rủ rê mời gọi, khiến cho Mị thấy phơi phới trở lại, lòng vui sướng, Mị muốn đi chơi. Khi nó trầm xuống, sẻ chia, vỗ về nỗi đắng cay chua xót bởi cái thân phận phải ép duyên, bán mình của cô gái. Tiếng sáo như thủ thỉ trò chuyện, rồi lắng nghe từng cung bậc tâm trạng của Mị: A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra. Ngọn sóng tủi hờn, bi lụy đang khóc than trong lòng cô gái thì sóng tình yêu và khát vọng của tiếng sáo lại dội lên, lửng lơ bay ngoài đường:
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi.
Đấy là lời của tiếng sáo, lời của bài tình ca, lời của các bạn trai, gái đang yêu nhau, tâm tình bên nhau và cũng là những tiếng lòng da diết, mãnh liệt từng bao năm bị chôn vùi, kìm nén trong trái tim, trí tuệ của Mị. Vì thế, nó đã thôi thúc, giục giã Mị hành động. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. Lúc này A Sử, tên chồng vũ phu đang đứng ngay trước mặt Mị. Nhưng cô gái như không nhìn thấy, không thèm quan tâm. Cô thản nhiên làm cái việc mà cô muốn. Bởi vì, tiếng sáo mùa xuân tuổi trẻ tự trong tâm hồn Mị đã thực sự ngân lên. Bởi vì khát vọng tình yêu, hạnh phúc và tự do đã trỗi dậy. Những thanh sắc tình yêu nhân bản từ ngoại cảnh đã đồng vọng cùng thanh sắc của nội lực bên trong khiến cho cô gái nô lệ, khổ đau ấy hồi sinh, muốn xóa bỏ cái thân phận hiện tại để trở thành cái quá khứ, cội nguồn vốn rất tự do, trong lành như mùa xuân, tự do như tiếng sáo những đêm tình. Có thể nói, nghệ thuật miêu tả tiếng sáo và tâm trạng nhân vật của nhà văn Tô Hoài ở đoạn này rất tài hoa. Tám lần ông nói tới tiếng sáo, kể về những cô gái, chàng trai thổi sáo, hát tình ca, nghe sáo, đi theo tiếng sáo. Ba lần ông đặc tả tiếng sáo: văng vẳng tiếng sáo, tiếng sáo lửng lơ bay, trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Những từ tượng thanh, kết hợp nghệ thuật đảo âm tiết (không viết lơ lửng mà viết lửng lơ ), đảo từ ( động từ văng vẳng trước danh từ tiếng sáo, tính từ lửng lơ trước động từ bay, động từ rập rờn trước danh từ tiếng sáo) khiến cho những âm thanh của thứ nhạc cụ dân dã ấy trở nên sống động, có hồn, ấn tượng xiết bao. Và nhờ đó, những cung bậc tâm trạng của nhân vật Mị trở nên phong phú, cụ thể, logic xiết bao.
Cho đến phút cuối cùng của những đêm tình mùa xuân ấy, khi cô Mị bị A Sử trói đứng vào cột nhà hòng dập tắt khát vọng, sức sống trong tâm hồn cô, thì tiếng sáo vẫn vấn vương… bất diệt: Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa những giây phút này, âm thanh của sáo không hiện rõ bằng hình hài, sắc điệu nữa. Nó lịm dần cùng nỗi đau khổ của kiếp người. Nhưng nó không tắt hẳn.Nó lặn vào trong trái tim, nó cựa quậy trong máu thịt của cô Mị, cất lên thành tiếng lòng ru vỗ, an ủi. Cho nên, dù Mị vẫn đang bị trói, tiếng sáo vẫn đưa Mị đi theo những cuộc chơi,những đám chơi. Nó vẫn cùng Mị say sưa hát hát bài tình ca “ Em yêu người nào, em bắt pao nào…” Khát vọng tuổi trẻ và tình yêu của Mị không trở thành hiện thực thì nó sống trong tâm linh, trong mộng tưởng. Tiếng sáo – tiếng gọi của tự do, hạnh phúc, dây trói nào trói được? Nó đã chắp cánh cho sức mạnh sống của Mị bay lên. Kể cả lúc cái hiện thực phũ phàng hành hạ Mị: Cô cảm thấy chân tay không cựa được, cô nghe thấy tiếng chân ngựa, tiếng chó sủa thì dường như tiếng sáo vẫn nhắc thầm trong tâm tưởng: lúc này là lúc trai gái rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị lại bồi hồi. Kể cả lúc khắp người Mị bị dây trói thít lại đau nhức, Mị vẫn nồng nàn tha thiết nhớ. Vì cô vẫn nghe thấy tiếng sáo. Trời tang tảng sáng. Có lẽ lúc này, nhưng tiếng sáo hữu hình đã thực sự tắt. Chỉ còn dư âm của nó vang vọng trong lòng người. “Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ. Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay.” (thơ Bạch Cư Dị). Không rõ, khi chuyển ngòi bút từ miêu tả sắc điệu cụ thể của những tiếng sáo ở hai đoạn trên thành phân tích tâm trạng đau xót, khi tuyệt vọng, lúc mộng mơ của nhân vật Mị trong dư âm tiếng sáo của đoạn thứ ba này, nhà văn Tô Hoài có nghĩ tới nghệ thuật miêu tả tiếng đàn của Bạch Cư Dị trong thi phẩm nổi tiếng “Tỳ bà hành” ngày xưa? Dù thế nào, đọc những dòng văn này của ông, tôi vẫn thấy thấm đẫm một chất thơ, kính phục một tài năng miêu tả sự thật và khám phá lòng người. Qua cái vô danh của một nhạc cụ, nhà văn đã tấu lên bao nhiêu thanh sắc của lòng người. Chỉ ba lần nhắc đến tiếng sáo, nhưng mãi mãi, ông khẳng định rằng: khát vọng tuổi trẻ, tình yêu, cái sức sống tiềm tàng ấy của con người không dây trói nào buộc được, không thế lực đen tối nào xóa được.
Trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, chúng ta từng biết tới khá nhiều áng văn chương có “tiếng sáo”. Cái âm thanh của thứ nhạc cụ tre trúc đơn sơ ấy đã trở thành một hình tượng thẩm mỹ với bao nhiêu giai điệu, bao nhiêu ngữ nghĩa đặc sắc. Đó là tiếng sáo của Trương Chi – chàng nghệ sĩ tài hoa nhưng bất hạnh trong chuyện cổ tích “Trương Chi”. Đó là tiếng sáo của Trương Lương nỉ non tình tự khiến cho Hạng Tịch – vua nước Sở phân vân, không thể giã từ nàng Ngu Cơ xinh đẹp, dẫn đến một bi kịch lớn lao mà thi sĩ lãng mạn Huy Thông đã kể trong bài thơ nổi tiếng “Tiếng địch sông Ô”, năm 1936. Và đây, tiếng sáo của các Kim Đồng trong thơ Thế Lữ :
Khi cao vút tận mây trời
Khi gần,vắt vẻo bên bờ cây xanh
Êm như lọt tiếng tơ tình
Đẹp như ngọc nữ uốn mình trong không…
Trong chuyện “Vợ chồng A Phủ”, tiếng sáo của nhà văn Tô Hoài như chúng ta vừa cảm nhận cũng đã được chau chuốt bằng sắc màu, âm thanh đẹp đẽ, uyển chuyển, không thua kém bất cứ một áng thơ nào. Dường như với tài năng và tấm lòng yêu thương con người của ông, ngòi bút văn xuôi trở nên mềm mại, trữ tình. Hình tượng “tiếng sáo” trong thiên truyện đặc sắc này phong phú độc đáo và sâu lắng hơn. Đọc tác phẩm, suy ngẫm về sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, chúng ta không thể lướt qua hình tượng thẩm mỹ tiếng sáo. Bởi vì đấy là một điểm sáng nghệ thuật vừa hiện thực, vừa lãng mạn, đẫm chất dân tộc và chất thơ. Bởi vì, đấy cũng là một cung bậc tinh tế trong cảm hứng nhân đạo, nhân văn rất đáng trân trọng của ngòi bút Tô Hoài.
Chi tiết tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ
Bài làm mẫu 1
Vợ chồng A Phủ là một trong số không nhiều những tác phẩm văn xuôi viết thành công trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Có thể xem đó là gương mặt tiêu biểu của văn học thời đại mà cả dân tộc cùng “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Trong đó chi tiết Tiếng sáo đêm tình mùa xuân là lát cắt ngang giữa nhân tế bào của tác phẩm. Vẻ đẹp nội dung, nghệ thuật cũng lộ ra từ chi tiết ấy.
Trước hết, chi tiết Tiếng sáo đêm tình mùa xuân là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo nhằm khám phá, thể hiện vẻ đẹp nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Tiếng sáo mùa xuân vốn là linh hồn của đời sống tinh thần vùng Tây bắc. Nó rất quen thuộc, gần gũi, không có gì mới lạ, đã được tác giả sử dụng hiệu quả linh diệu như chiếc móng vuốt của thần Kim Quy, như câu thần chú Vừng ơi của Alibaba vậy. Nhờ chiếc lẫy thần ấy mà cung nỏ nhà vua bắn một phát chết hàng vạn tên xâm lược; nhờ tiếng sáo đêm tình mùa xuân đó mà nhà văn mở được cánh cửa tâm hồn nhân vật Mị đã im ỉm khóa suốt bao nhiêu năm trời. Cứ nhìn cái dáng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, nhìn cái cách kéo lê tấm thân của Mị từ mùa này sang mùa khác, từ năm này sang năm khác làm việc như một cái máy, cứ nhìn cái sự đêm đến “Mị chỉ còn biết thức với lửa”, đêm nào cũng vậy, dù cho có bị A Sử ngứa tay đánh đập hay có người chết ngay ở đó (không có phản ứng gì thì người ta chỉ có thể nghĩ rằng cô sẽ mãi câm lặng như tảng đá cho đến ngày chết rũ xương ở đây thì thôi.
Vậy mà từ khi nghe đầu núi lấp ló có tiếng sáo rủ bạn đi chơi của ai đó, “Mị lại thiết tha bồi hồi”. Tâm hồn Mị bắt gặp tiếng sáo, đã bắt đầu cựa quậy, đã bắt đầu biết cảm nhận, đã xúc động. Đã sống lại thật rồi! Tiếng sáo mùa xuân nhẹ nhàng, mỏng tang, vu vơ mà thần diệu tựa thuốc thánh Cam lộ. Tưới đến đâu thì hồi sinh sự sống, tình yêu đến đó. Kìa, Mị đang “nhẩm thầm bài hát của người thổi sáo”. Mị đang hòa lòng mình vào không khí mùa xuân tuổi trẻ của những cuộc chơi đánh pao, đánh quay. Mị đang sống với tâm trạng yêu đương trong những bài hát. Dòng nước mắt hiếm hoi đã len lỏi vào tâm hồn đang khô hạn nứt nẻ của Mị rồi thì lẽ nào không mở lòng?! Tiếng sáo mùa xuân đến và đã neo đậu luôn trong lòng Mị, rồi ám ảnh không rời: “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Rồi như một phản ứng dây chuyền, đồng loạt cả một quá khứ của tuổi trẻ hiện về, Mị lại được sống đắm chìm trong thời tuổi trẻ đầy say mê của mình: ” Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Tiếng sáo dập dìu thiết tha gọi ai đầu làng mà đánh thức cả một miền hồi ức, kỷ niệm ùa về tươi rói. Rồi tiếng sáo ngày một gần, ngày một da diết hơn; ngồi một mình trong xó bếp nhưng Mị nhận rõ “Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường. Mị thấy phơi phới trở lại…”. Mùa xuân đã thực sự về, xốn xang trong lòng: “Mị vui sướng như những đêm xuân ngày trước. Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi…”. Rồi theo phép biện chứng của tâm hồn, cái hiện thực đầy say mê của quá khứ và tiếng sáo gọi bạn yêu kia đã trở thành thái cực tương phản của cảnh sống thực tại. Mị so sánh đối chiếu, soi xét lại cái hiện thực mà cô đã và đang phải sống, thấy nó thật phi lý, không thể chấp nhận. Tâm lý Mị nảy sinh một sự phản ứng bất ngờ mà thống nhất: Nghĩ đến nắm lá ngón. Nhìn ở góc độ sự sống cho thể xác, đây là một bước lùi, tiêu cực. Nhưng nhìn ở góc độ đời sống tinh thần, đây là một dấu hiệu đáng mừng ở Mị. Bởi vì đó chính là sự thức tỉnh đầy tính nhân văn: Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt, thà chết trong một sự khẳng định quyết liệt ý nghĩa đúng đắn cuộc sống của mình còn hơn phải sống kiếp trâu ngựa suốt cả một đời. Nhờ tiếng sáo mùa xuân mà Mị có được sự thức tỉnh đó.
Tuy nhiên, một cô gái mê tiếng sáo, yêu đời như Mị không thể lùi sâu vào mãi góc chết. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình vẫn “lửng lơ bay ngoài đường”, và trong đầu Mị vẫn “rập rờn tiếng sáo” thì làm sao Mị có thể hững hờ, làm sao Mị có thể ăn lá ngón? Thay vào đó, cô “lấy hũ rượu, uống ừng ực từng bát”. Mị dằn lòng xuống, cái đắng cay bị kìm xuống thì cái nồng nàn của hơi men và cái đắm say của “tiếng sáo gọi bạn yêu” càng thôi thúc: “Mị đứng dậy xắn thêm mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng” như để tự thắp sáng đời mình, như để khêu to hơn ngọn lửa tình yêu đang chập chờn trong ý thức của Mị. Hành động này lại tạo ra niềm tin để có hành động tiếp theo mạnh mẽ hơn: Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt trên vách, sửa soạn đi chơi, bất chấp sự có mặt của A Sử (dù hắn là hiện thân trực tiếp và thường trực của cái ác, là hung thần đã nghiền nát tất cả hạnh phúc, sự sống của đời cô. Mị hoàn toàn không hề đếm xỉa đến hiện thực nữa. Lòng mải mê đi theo tiếng sáo, tay cô làm, chân cô bước như kẻ mộng du. Thậm chí cho đến khi đã bị trói bằng cả một thúng dây đay, bằng cả mái tóc dài của chính Mị, thân xác đau đớn cùng cực, thì tiếng sáo vẫn bám riết tâm hồn Mị. Suốt đêm dài Mị chỉ còn nghe tiếng sáo. Khi khát vọng tự do, khát vọng tình yêu đã cháy lên thì hiện thực kia làm sao đủ sức ngăn cản được sự bay bổng của tâm hồn?!.
Cũng có lúc tiếng chân ngựa đạp vách kéo Mị về thực tại. “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Con ngựa còn có lúc đứng gãi chân, nhai cỏ, còn…” nhưng “tiếng sáo vẫn đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Lúc chừng đã khuya, Mị còn tưởng tượng được cuộc chơi xuân đêm nay đã đến lúc “trai làng đang đến bên vách làm hiệu rủ người yêu dỡ vách rừng chơi. Mị đã nín khóc, Mị lại thiết tha bồi hồi”. Tiếng sáo đã trở thành điểm tựa và Mị đã vững vàng hơn.
Chưa bao giờ là một nhà văn lãng mạn nhưng những dòng này, những trang này, thế giới tâm trạng nhân vật Mị lúc này và toàn bộ chi tiết Tiếng sáo đêm tình mùa xuân dẫu thực đến độ điển hình nó vẫn là những trang văn cực kỳ lãng mạn, đẹp đẽ mê ly. Với chi tiết tiếng sáo, không những nhà văn bật mở được thế giới tâm hồn của một nhân vật khổ đau đã nhàu nát, tê dại vì bị giam hãm trong bóng ma và thế lực phong kiến miền núi, đang thức dậy, đang phát triển với những cung bậc tinh tế, phức tạp, tuần tự có, đột phá có, có cả những bước tiến lùi đan xen (nhưng đúng quy luật tâm lý mà còn khám phá, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp tài hoa nghệ sỹ của người lao động dân tộc Mèo. Dẫu cho thể xác có bị vùi dập bao nhiêu thì lòng yêu đời, yêu hạnh phúc, yêu tiếng sáo mùa xuân của người người Mèo vẫn không gì có thể dập tắt được. Đó là bức thông điệp quan trọng nhất mà nhà văn gửi được đến bạn đọc qua tác phẩm này. Hơn nữa nó còn hé mở cả một sức mạnh tiềm ẩn, báo hiệu khả năng cách mạng trong nhân vật Mị và con người Tây Bắc.
Tiếng sáo đêm tình mùa xuân thực sự là một chi tiết đầy sức quyến rũ, là nét hoa văn độc đáo nhất trên toàn tấm thảm hoa Tây Bắc. Giả sử không có tiếng sáo mùa xuân thì có lẽ tâm hồn Mị không bao giờ thức dậy được (như trên đã nói). Không có nó, cuộc sống Tây Bắc còn lại là gì? – Chắc chỉ còn lại “tiếng xập xình cúng ma” nhận mặt người vay nợ lãi hay làm nô lệ cho bọn chúa đất. Tiếng sáo dập dìu suốt đêm đã xua đi cái hoang lạnh, cái đói rách của núi rừng, cái âm u của cuộc sống nô lệ, và gọi về cái ấm áp, cái đa tình đáng yêu, chất nghệ sỹ của lòng người Tây bắc. Có tiếng sáo gọi bạn đầu làng, tiếng sáo vang vọng từ núi này sang núi nọ và “những chiếc váy hoa phơi trên những tảng đá xòe như con bướm sặc sỡ” núi rừng Tây bắc trở nên thơ mộng, quyến rũ và say mê biết bao!
Cảm ơn nhà văn đã giúp người đọc mọi miền Tổ quốc được cảm nhận, thưởng thức những vẻ đẹp trong sáng, thi vị của con người và núi rừng miền Tây thân yêu của chúng ta. Đọc đi đọc lại nhiều lần, tiếng sáo vẫn cứ say mê, ám ảnh lạ thường, lan truyền từ người trong truyện đến người viết truyện, sang người đọc truyện:
“Ngoài núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi…”
“Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường…”
“Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi…”
Ta như nghe được cả những tiếng reo vui náo nức của nhà văn khi mùa xuân đến được kìm nén trong nhiều câu văn: “Những đêm tình mùa xuân đã đến”. Ta như nghe được cả sự mời gọi thiết tha của người nghệ sĩ ấy trong từng dòng văn miêu tả tài hoa về tiếng sáo ấy rằng: Hỡi những ai chưa một lần đến Tây Bắc, hãy lên đây để được sống trong không khí của những đêm xuân nồng nàn men rượu và dập dìu tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường, tiếng sáo văng vẳng đầu nương, vang vọng qua những vách núi thành âm điệu đặc trưng của nền văn hóa Tây bắc. Tiếng sáo ấy cũng là tiếng lòng nồng nàn như rượu đêm xuân của nhà văn đối với núi rừng và đồng bào các dân tộc vùng rẻo cao Tây bắc nói riêng, với đất nước Việt Nam nói chung.
Vẫn còn chưa đủ. Phải nói thêm: Chi tiết ấy còn là sản phẩm của một sự am tường cặn kẽ, tinh thông về phong tục, lối sống của đồng bào rẻo cao. Là sản phẩm của một ngòi bút tài hoa: văn như nhạc, như tranh, tải được cả màu sắc, hương vị, âm điệu, linh hồn của núi rừng Tây Bắc. Trong sáng, hồn nhiên mà tình tứ, réo rắt da diết, mà khỏe khoắn lạ thường.
Thật trọn vẹn, ngọt ngào và đầy dư vị!
Một chi tiết nghệ thuật như thế nó dư sức làm rường cột cho cả một tác phẩm, đánh dấu sự trưởng thành của chặng đường sáng tác, làm nên tầm cao, đóng góp riêng của nhà văn Tô Hoài cho nên văn học, văn hóa nước nhà.
Nay nhà văn Tô Hoài đã đi xa nhưng chắc chắn tiếng sáo đêm tình mùa xuân của bản Mèo xa lắc vẫn vi vút, vẫn lửng lơ ám ảnh trong tâm trí bao thế hệ người đọc mọi miền đất nước. Có thể nó còn vọng mãi sang thế giới bên kia ru Người giấc ngủ ngàn năm; và biết đâu trong cõi âm cũng lóe lên tia sáng ấm mùa xuân.
Bài làm mẫu 2
Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” Tô Hoài không chỉ thành công ở việc khắc họa chân dung các nhân vật mà nhà văn còn có biệt tài trong việc xây dựng các chi tiết truyện rất đặc sắc. Trong đó, chi tiết tiếng sáng trong đêm tình mùa xuân mang nhiều ý nghĩa.
Tiếng sáo xuất hiện trong đêm tình mùa xuân – đây là âm thanh quen thuộc, đặc trưng của người Mèo ở vùng cao mỗi khi tết đến, xuân về. Đó là tiếng sáo gọi bạn yêu, là cầu nối cho các đôi lứa, giúp các chàng trai tỏ tình và giãi bày yêu thương. Âm thanh ấy cũng chất chứa nhiều khát vọng yêu thương cháy bỏng trong các nhịp đập trái tim trẻ.
Tiếng sáo là một trong những chi tiết được Tô Hoài dụng công miêu tả. Nó xuất hiện nhiều lần,trở đi trở lại với các mức độ và sắc thái khác nhau. Lúc đầu là tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếp đến nó văng vẳng ở đầu làng, “lửng lơ bay ngoài đường”. Và rồi giữa Mị và tiếng sáo không còn khoảng cách. Âm thanh ấy len lỏi vào trong tâm trí của Mị . Không chỉ có tiếng sáo hiện tại cô nghe, mà Mị còn nhớ lại cả tiếng sáo trong quá khứ, về khoảng thời gian tươi đẹp, kiêu hãnh của mình.
Chi tiết tiếng sáo cũng có vai trò hết sức quan trọng đối với việc làm hồi sinh tâm hồn Mị., làm trỗi dậy sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong cô. Nó giống như một tác nhân làm sống dậy trong Mị những cảm xúc rạo rực của tuổi trẻ, làm bùng lên niềm khao khát sống., khao khát yêu đương. Để rồi “ Mị thấy phơi phới trở lại…Mị muốn đi chơi”. Nếu không có không khí ngày tết nhộn nhịp ở Hồng Ngài, đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình không cất lên thì có lẽ Mị vẫn mãi chìm đắm trong những tháng ngày rầu rĩ, sống một cuộc sống không phải con người. Ngay cả khi cô bị trói đứng thì âm thanh của tiếng sáo như ma lực làm bùng cháy trong Mị niềm khao khát yêu, khao khát sống.
Bên cạnh đó, sự xuất hiện của chi tiết âm thanh tiếng sáo còn góp phần tô đậm thêm những giá trị nhân đạo của tác phẩm. Nhà văn muốn ca ngợi và khẳng định sức sống tiềm tàng trong tâm hồn người lao động miền núi không có một thế lực nào có thể hủy diệt được. Và chỉ cần âm thanh của tiếng sáo ấy có thể làm thức dậy nguồn sức sống ấy.
Chi tiết tiếng sáo cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc tạo nên hơi thở miền núi cho truyện ngắn. Cũng nhờ có sự xuất hiện của âm thanh này mà các trang văn mà Tô Hòa xây dựng đẫm chất thơ. Tiếng sáo ấy quả là âm thanh gây nhiều ấn tượng không chỉ đối với các nhân vật trong truyện mà còn gây ấn tượng, hút người đọc mạnh mẽ.
Và để khắc họa nổi bật chi tiết trên, tác giả sử dụng ngôn ngữ đầy sức gợi, nhất là những từ láy liên tục biến đổi, gợi tả các sắc thái khác nhau của tiếng sáo: lấp ló, văng vẳng, lửng lơ, rập rờn. Qua cách diễn đại này độc giả dường như không phải tốn quá nhiều công sức để mường tượng thứ âm thanh ấy mà nó hiện hữu khá rõ nét, không chỉ tác động vào thính giác mà còn gây ấn tượng mạnh mẽ đến thị giác.
Có thể thấy rằng, chi tiết tiếng sáo mặc dù là chi tiết nhỏ trong tác phẩm thôi nhưng cũng có vai trò tạo nên sự thành công khi xây dựng truyện ngắn “Vợ chồng A phủ” của nhà văn Tô Hoài. Nếu thiếu đi âm thanh này, truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” có thể sẽ mất đi khá nhiều sức lôi cuốn và tư tưởng của tác phẩm cũng đôi phần kém sâu sắc hơn.
………..
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu phân tích chi tiết tiếng sáo
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Ý nghĩa tiếng sáo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài 2 Dàn ý & 14 bài văn mẫu lớp 12 hay nhất của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.