Hướng dẫn Lập dàn ý bài Vội vàng đoạn 2 ngắn gọn, chi tiết, hay nhất. Với các bài dàn ý và văn mẫu được tổng hợp và biên soạn dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé!
Lập dàn ý bài Vội vàng đoạn 2
1. Mở bài: giới thiệu về đoạn 2 bài thơ Vội vàng
Ví dụ:
Trong tất cả các tác phẩm của Xuân Diệu, một tác phẩm thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn và độc đáo về mạch cảm xúc và triết lí sâu sắc là bài thơ Vội vàng. Bài thơ thể hiện niềm say mê cái đẹp của thiên nhiên, niềm yêu thiên nhiên sâu sắc của tác giả trong cuộc sống. Bên cạnh niềm say mê thiên nhiên và cuộc sống thì tác giả còn thể hiện nỗi lo lắng của mình trước thời gian và cuộc đời, hình ảnh này được thể hiện rõ qua đoạn 2 của bài thơ. Chúng ta cùng đi tìm hiểu đoạn 2 của bài thơ để hiểu rõ về nổi lo lắng và băn khoăn của tác giả về cuộc sống và thời gian.
2. Thân bài: phân tích đoạn 2 của bài thơ Vội vàng
a. Mở đầu đoạn thơ: Nỗi vui sướng vội vàng và chớp nhoáng của nhà thơ
Sự đam mê về thiên nhiên, cuộc sống hòa lẫn sự lo lắng về qua nhanh của thời gian, của bộn bè cuộc sống
b. Tác giả ý thức về sự hữu hạn của thời gian: Thời gian ngày càng trôi đi
Con người, mọi vật đều sẽ thay đổi theo thời gian
Tác giả cảm thấy lo lắng, sợ hãi trước sự trôi đi của thời gian
c. Tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt của tác giả: Khát vọng sống vô cùng để cùng hòa nhịp với cuộc sống của tác giả
Yêu cuộc sống đến nồng nàn, tha thiết
Niềm ham sống, ham được sống và chưa toại nguyên cuộc sống mình đang sống
3. Kết bài: nêu cảm nhận của em về đoạn 2 bài thơ Vội Vàng
Ví dụ:
Đoạn 2 bài thơ Vội vàng thể hiện nỗi lo lắng của tác giả về thời gian và cuộc sống. đồng thời đoạn 2 còn thể hiện mong muốn cuộc sống, mong muốn được sống hòa cũng thiên nhiên của tác giả.
Lập dàn ý phân tích bài Vội vàng đoạn 2
1. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về tác giả Xuân Diệu và bài thơ “Vội vàng”
– Dẫn dắt, giới thiệu đoạn 2 của bài thơ:
Nhận xét về Xuân Diệu, Hoài Thanh từng chia sẻ: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới”. Quả thực, đọc và cảm nhận thơ văn Xuân Diệu, ta mới thực thấu điều đó. Ông mới trong cách nhìn nhận, trong cách cảm, cách nghĩ về cuộc đời, con người. Nhà thơ coi thời gian cuộc đời không phải thứ gì tuần hoàn, bất biến mà một đi không trở lại, nên cần sống hết mình với nó. Quan điểm đó được ông thể hiện rất rõ trong bài thơ “Vội vàng”. Đoạn thơ thứ 2 trong bài được coi là một trong những đoạn thơ đặc sắc và giàu ý nghĩa nhất.
2. Thân bài:
Đoạn 2 của bài thơ tác giả thể hiện niềm tiếc nuối trước sự trôi chảy của thời gian:
Nhịp điệu thơ trong đoạn này không sôi nổi, vồ vập như đoạn thơ trên mà chậm hơn, lắng lại những suy tư.
Dấu chấm giữa câu thơ: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.” là một tín hiệu nghệ thuật nhiều dụng ý. Dấu chấm ấy đã chặn đứng niềm sung sướng của nhân vật trữ tình, xuân chưa qua mà đã thấy nhớ. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm của nhân vật trữ tình hay cũng chính của nhà thơ Xuân Diệu khi ngay trong sung sướng đã thấy tiếc mùa xuân. Xuân Diệu đã nhìn ra trước bước đi của thời gian.
Thơ xưa khi nói về sự vận động của thời gian, họ coi thời gian là một chuỗi tuần hoàn bất biến, Nguyễn Du từng viết: “Ngày xuân con én đưa thoi”(Cảnh ngày xuân) hay “Ngày xuân như bóng câu qua cửa sổ”. Dẫu vậy, người xưa vẫn ung dung, bình tĩnh vì tin rằng vũ trụ tuần hoàn, xuân đi xuân lại lại.
Còn Xuân Diệu, “xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ xuân còn non nghĩa là xuân đã già”. Đó là lối nói đa nghĩa đầy mới mẻ rằng thời gian luôn chảy trôi, không đứng đợi.
Thời gian trôi, mùa xuân đi cũng là lúc tuổi trẻ đã qua. Con người quý nhất là mùa xuân, quý nhất là tuổi trẻ. Mùa xuân trôi, tuổi trẻ trôi => tôi cũng mất => tưởng tượng ra cuộc chia li đầy ắp đất trời.
Một loạt động từ: “rớm, than, hờn, sợ” như là một sự nhân hóa để thể hiện nỗi buồn tiếc trong tâm hồn con người đã tràn sang vạn vật, thấm vào từng cảnh, từng giác quan của con người. Bởi vậy mà con người và vũ trụ đều buồn thê thiết.
Còn đang trong mùa xuân mà nhà thơ đã hình dung ra sự chia li của vũ trụ, sự rời xa của mùa xuân. Nỗi niềm nuối tiếc đã bật lên thành lời than và qua đó nhà thơ cũng gửi gắm lời nhắn nhủ tới muôn người muôn thế hệ rằng hãy sống hết mình vì tuổi trẻ, thời gian đời người là hữu hạn, một đi không trở lại.
3. Kết bài:
Khẳng định lại nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của đoạn thơ:
Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ đã khẳng định khát khao cháy bỏng được sống hết mình với cuộc đời của nhân vật trữ tình, song cũng chính là tâm tư, nỗi lòng của nhà thơ Xuân Diệu. Ông nhờ thơ ca để giãi bày, tâm sự với người đọc để họ chia sẻ và hiểu ông hơn, trân trọng thời gian tuổi trẻ và sống hết mình với nó.
Mẫu 3
Luận điểm 1: Nhận ra thời gian tuyến tính
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Trong thơ văn từ cổ chí kim, mùa xuân là mùa gắn liền với tuổi trẻ. Mùa xuân là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc xanh tươi, mùa bắt đầu cho một năm mới, một vòng tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông mới. Song không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu được coi là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Trong đề cảm nhận 16 câu giữa bài thơ vội vàng, học sinh nên phân tích rõ sự khác biệt giữa thơ mới của Xuân Diệu và thơ văn trung đại để làm nổi bật lên ý trên.
Cảm quan mùa xuân trong thơ Xuân Diệu vừa giống lại vừa khác so với các thi nhân trung đại
Cụ thể, Xuân Diệu cũng coi mùa xuân là mùa đẹp nhất đời người. Song trong đoạn thơ này, Xuân Diệu đã sử dụng các cặp từ đối lập: đương tới – đương qua, còn non – sẽ già, lòng rộng – lượng trời chật, còn trời đất – chẳng còn tôi. Việc sử dụng liên tiếp các cụm từ đối lập thể hiện quan điểm của Xuân Diệu về thời gian. Khi phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 cần chỉ rõ những cụm từ đối lập này
Xuân Diệu cho rằng:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”
Trong thơ văn trung đại những thế kỉ trước, các thi nhân đều cho rằng “xuân đi xuân lại lại”. Xuân Diệu lại không nghĩ như vậy. Ông khẳng định rằng bốn mùa không phải một vòng tuần hoàn. Mà thời gian, là một dòng chảy tuyến tính một đi không trở lại.
Luận điểm 2: Nỗi lo sợ của nhân vật trữ tình
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Hình ảnh thiên nhiên mùa xuân trong đoạn thơ tiếp theo có sông, có núi, có con gió xinh, lá biếc, chim rộn ràng. Song sắc thái biểu cảm của đoạn thơ đã đột ngột thay đổi từ rực rỡ, tươi sáng ngập tràn sức sống sang sự u ám, buồn bã. Khi lập dàn ý khổ 2 bài vội vàng, khi bước sang luận điểm 2, học sinh nên viết câu chuyển đoạn để khéo léo giải thích và tiến hành phân tích đoạn thơ tiếp theo.
Cụ thể, có thể sử dụng mẫu câu hỏi tu từ như sau: “Vẫn là những khung cảnh mùa xuân đấy nhưng sao lại nhuốm đầy mùi vị chia lìa?” -> Trong đoạn thơ này, Xuân Diệu đã sử dụng liên tiếp những từ và cụm từ chỉ sự tàn phai. Gồm có các: rớm vị chia phôi, tiễn biệt, bay đi, đứt tiếng. Thêm nữa là những động từ thể hiện cảm xúc trực tiếp như bâng khuâng, than thầm, hờn, sợ -> nỗi lo sợ của nhân vật trữ tình khi những điều tươi đẹp đang dần lụi tàn mà không thể làm trái ngược lại quy luật của thời gian được.
Luận điểm 3: Lời giục giã và thái độ sống
Chính nỗi sợ tàn phai, chia lìa đã đẩy nhân vật trữ tình đưa ra lời giục giã về thái độ sống. Phải khẳng định rằng Xuân Diệu không hề cổ súy cho lối sống gấp gáp hay hưởng thụ. Đó là lời kêu gọi sống trọn vẹn, đam mê từng khoảnh khắc. Nhất là với những bạn trẻ, những người vẫn còn đang trong mùa xuân đời mình. Với đề cảm nhận 16 câu tiếp bài vội vàng này, học sinh cần phải phân tích được tư tưởng xuyên suốt của tác giả trữ tình.
Điều mà Xuân Diệu muốn gửi gắm qua bài thơ Vội vàng chính là, hãy cứ sống đầy khao khát, say mê, mãnh liệt trong mùa xuân đời mình
Vội vàng của Xuân Diệu rõ ràng là có sự buồn bã, lụi tàn. Thế nhưng sự lưu luyến với hương sắc mùa xuân ấy không hề ảo tưởng hay đắm chìm con người ta trong mê man đau khổ. Ngược lại, nhân vật trữ tình giục giã sống sao cho không phí hoàn từng phút từng giây. Đó là lòng yêu đời, ham sống, khát khao cống hiến mãnh liệt của Xuân Diệu được gửi gắm qua bài thơ Vội vàng mà khi phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2, học sinh cần phải làm rõ.
Lập dàn ý bài Vội vàng đoạn 2 ngắn gọn
1. Mở bài:
– Giới thiệu bài thơ Vội vàng và khái quát nội dung của khổ 2.
2. Thân bài:
* Điều lo sợ:
– Sự chảy trôi của thời gian: xuân tới → xuân qua; xuân non → xuân già
– Lòng người rộng lớn với khát khao → lượng trời chật hẹp → đời người ngắn ngủi → thành xuân hữu hạn.
* Lời thúc giục sống vội:
– Vạn vật nhuốm màu phải tàn, chia ly
– Hãy tận hưởng mọi thứ nhân lúc trời còn tươi, xuân còn thắm
– Hãy sống hết mình khi sức còn trẻ, đam mê còn chưa thoả
3. Kết bài:
– Cảm nghĩ về đoạn thơ.
Bài mâu Phân tích Vội vàng đoạn 2
Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. Nhắc tới ông, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn và phong cách của ông: Vội vàng. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời. Đặc biệt, nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện quan niệm nhân sinh mới mẻ về thời gian và tuổi trẻ.
Thời gian trong thơ ca trung đại là thời gian “tuần hoàn” nghĩa là thời gian được hình dung như 1 vòng tròn liên tục tái diễn, hết 1 vòng lại quay về vị trí xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn “tĩnh”, lấy cả sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo cho thời gian. Còn đối với Xuân Diệu, ông có quan niệm rất mới về thời gian:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Nếu người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuôi trẻ một đi không trở lại. Thế nên ông luôn hốt hoảng lo âu khi thời gian trôi mau. Điều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới – qua”, “non – già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian. Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận: Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
“Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn. Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng đến vô cùng “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời gian của đất trời lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”. Một loạt hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” – “chật”, “xuân tuần hoàn” – “tuổi trẻ chẳng hai lần”, “còn” – “chẳng còn”. Điều đó đã góp phần làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối trước thời gian, cuộc đời.
Sự hạn hữu của đời người với thời gian được thể hiện rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi. Nhưng ở đây, Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”.
Suy ngẫm về điều đó, Xuân Diệu càng cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa.
Thời gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi, dường như khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Tựa như ta nghe thấy có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” ấy.
Gió đùa trong lá không phải là những âm than vui tươi, sống động của thiên nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó mà không sao cưỡng lại được.
Khép lại phần thơ là dòng thơ tràn ngập cảm xúc:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạng thêm tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối ấy. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. Chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt mà càng trở nên da diết hơn với dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Và trong sự bất lực, Xuân Diệu dường như tìm ra một cách giải quyết.
“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”
Lời thơ như một lời giục giã, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia ly sẽ đến mà lãng quên đi thực tại. “Mau đi thôi”, mau cố gắng trân trọng lấy từng phút giây hiện tại để tận hưởng bữa tiệc tươi vui mà thiên nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta.
Chỉ với 16 câu thơ nhưng dường như Xuân Diệu đã cho ta thấy một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ của tác giả. Ta cũng nhận ra mặc dù Xuân Diệu thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc đời nhưng qua đó ta còn bắt gặp một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu say đắm mà ông dành cho đời.