Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới. Các tác phẩm của ông đều mang đậm dấu ấn phong cách riêng, một trong số đó có thể kể đến Đoàn thuyền đánh cá. Bài thơ đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hóa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Tác phẩm được giới thiệu trong chương trình Ngữ văn lớp 9.
Wikihoc.com muốn cung cấp tài liệu giới thiệu đôi nét về tác giả Huy Cận và nội dung bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Các bạn học sinh có thể tham khảo để có thêm những kiến thức hữu ích cho bản thân.
Đoàn thuyền đánh cá
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
I. Đôi nét về tác giả Huy Cận
– Huy Cận (1919 – 2005), tên đầy đủ là Cù Huy Cận.
– Quê hương: làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh.
– Ông tham gia hoạt động cách mạng và từng giữ nhiều chức vụ cao trong Chính phủ Việt Nam như: Bộ trưởng Bộ canh nông đầu tiên, Thứ trưởng sau đó là Bộ trưởng Bộ Văn hóa nghệ thuật, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục…
– Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc thuộc phong trào Thơ mới.
– Một số tác phẩm:
- Trước cách mạng tháng 8: Lửa thiêng (thơ, 1940), Kinh cầu tự (văn xuôi triết lý, 1942), Vũ trụ ca (thơ, 1940 -1942).
- Sau cách mạng tháng 8: Trời mỗi ngày lại sáng (thơ, 1958), Đất nở hoa (thơ, 1960), Chiến trường gần đến chiến trường xa (thơ, 1973), Suy nghĩ về nghệ thuật (tiểu luận phê bình, 1980 – 1982)…
II. Giới thiệu về Đoàn thuyền đánh cá
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh.
– Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống.
– Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958)
2. Bố cục
Gồm 3 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”: Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi.
- Phần 2. Tiếp theo đến “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.
- Phần 3. Còn lại: Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá lúc trở về.
3. Thể thơ
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác theo thể thơ bảy chữ.
4. Ý nghĩa nhan đề
Mẫu 1
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc thuộc phong trào Thơ mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận. Tác phẩm được sáng tác giữa năm 1958, trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Nhờ có chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống. Bài thơ được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958). Nhan đề bài thơ gợi ra nhiều ý nghĩa. Trước hết, ta có thể xác định được hình ảnh trung tâm trong bài thơ là đoàn thuyền đánh cá. Đầu tiên “đoàn thuyền” – không chỉ một con thuyền mà là rất nhiều con thuyền cùng nhau ra khơi, để làm công việc lao động quen thuộc với cuộc sống của họ “đánh cá”. Qua hình ảnh này, nhà thơ muốn ca ngợi sự đoàn kết của nhân dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời ca ngợi vẻ đẹp trù phú của thiên nhiên Việt Nam, cũng như bộc lộ tình yêu sâu đậm với quê hương, đất nước.
Mẫu 2
Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958). “Đoàn thuyền đánh cá” là hình ảnh trung tâm của bài thơ. Qua hình ảnh này, Huy Cận đã khắc họa vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Từ đó, tác giả cũng bộc lộ niềm vui, tự hào đối với thiên nhiên, đất nước.
Xem thêm: Ý nghĩa nhan đề bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
5. Mạch cảm xúc
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được trình bày theo trình tự thời gian từ khi đoàn thuyền bắt đầu ra khơi (hoàng hôn) cho đến khi đoàn thuyền trở về (bình minh). Toàn bộ tác phẩm mang âm hưởng vui tươi, hạnh phúc trong lao động của thời kì đổi mới.
6. Nội dung
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hóa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
7. Nghệ thuật
- Hình ảnh liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, phong phú.
- Âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan.
- Sử dụng các biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ…
8. Mở bài và kết bài
– Mở bài: Thơ ca phải bắt nguồn từ cuộc sống. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận đã thể hiện được điều đó qua bức tranh thiên nhiên giàu có của đất nước, cũng như không khí lao động sôi nổi của con người vùng biển.
– Kết bài: Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Từ đó, tác phẩm cũng bộc lộ niềm vui, tự hào của nhà thơ đối với thiên nhiên, đất nước.
III. Dàn ý phân tích Đoàn thuyền đánh cá
(1) Mở bài
Giới thiệu về tác giả Huy Cận, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.
(2) Thân bài
a. Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi
* Khổ thơ thứ nhất:
– Hai câu đầu: Hình ảnh thiên nhiên trên biển lúc hoàng hôn.
- So sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa”: màu sắc đỏ rực và hình dạng tròn đầy của mặt trời – gơi thời gian của hoàng hôn.
- Nhân hóa “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”: không gian đại dương là một căn nhà rộng lớn, ở đó màn đêm là cánh cửa, sóng biển chính là then cài.
=> Thiên nhiên bắt đầu thời gian nghỉ ngơi, hưởng thụ trạng thái bình yên.
– Hai câu sau: Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá lúc ra khơi.
- “Đoàn thuyền”: không chỉ là một con thuyền, mà là cả một đoàn – một tập thể đông đảo cùng nhau ra khơi.
- “lại ra khơi”: cho thấy đây là công việc đã quá quen thuộc với họ.
- “Câu hát căng buồm”: hình ảnh những người lao động cùng nhau cất vang tiếng hát, tạo ra một nguồn sức mạnh như gió đẩy con thuyền ra khơi.
=> Khi vạn vật bắt đầu nghỉ ngơi, những người ngư dân mới bắt đầu hành trình lao động của mình.
* Khổ thơ thứ hai: Nội dung câu hát của những người dân miền biển.
– “cá bạc, cá thu”: gợi sự trù phú, giàu có của biển cá, đại dương.
– “biển Đông lặng”: mong muốn biển yên bình để công việc đánh cá diễn ra thuận lợi.
– “cá thu biển Đông như đoàn thoi”: từng đàn cá lao trên mặt nước nhiều đến nỗi giống như con thoi.
– Chúng “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”: biện pháp nhân hóa tạo ra nhiều màu sắc chuyển động.
– Câu thơ cuối cùng “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”: vừa là lời kêu gọi, vừa là mong ước của những người ngư dân về một vụ cá bội thu.
b. Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển
* Khổ thơ thứ ba: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.
– Nghệ thuật ẩn dụ “thuyền ta lái gió với buồm trăng”: thiên nhiên, con người dường như hòa hợp lại làm một.
– Nghệ thuật phóng đại “lướt giữa mây cao với biển bằng”: con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn – tầm vóc vũ trụ.
– Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: Ra đậu dặm xa dò bụng biển – mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình.
– “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”: Đánh cá dường như trở thành đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên.
* Khổ 4: Cảnh biển vào ban đêm
– Huy Cận đã liệt kê ra một loạt các loài cá quý hiếm của biển cả: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song – cho thấy sự giàu có của biển cả.
– Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” gợi ra màu sắc của loài ca song.
– “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”: ánh trăng in bóng dưới mặt biển, những con cá quẫy đuôi làm sóng sánh ánh trăng vàng.
– “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”: màn đêm giống như một sinh mệnh, có sự sống.
* Khổ 5: Tinh thần lao động của người dân chài
– Công việc lao động nặng nhọc bỗng trở nên vui tươi hơn nhờ lời ca, tiếng hát.
– Sự biết ơn dành cho biển cả: “biển cho ta cá như lòng mẹ” – biển êm đềm, nuôi lớn biết bao người dân miền biển.
* Khổ 6: Cảnh thu hoạch cá
– Khi kéo lưới cũng là lúc trời vừa hửng sáng – lao động suốt đêm nhưng vẫn không biết mệt mỏi.
– Hình ảnh “tay kéo xoăn tay chùm cá nặng”: Hình ảnh những cánh tay khỏe mạnh đang kéo những chiếc lưới đầy cá – thành quả lao động của người dân chài.
– “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”: khi công việc thu hoạch cá vừa xong cũng là lúc vừa rạng đông.
c. Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá lúc trở về
– “Câu hát căng buồm với gió khơi”: người dân lại cất cao lời ca tiếng hát, nhưng đó là những câu hát về một vụ mùa bội thu.
– “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”: đoàn thuyết đang lướt sóng trở về giống như đang chạy đua với thời gian.
– “Mặt trời đội biển nhô màu mới”: hy vọng về một cuộc sống ấm no, đầy đủ.
– “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”: niềm tin hướng về cuộc sống tương lai tốt đẹp.
(3) Kết bài
Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá In trong tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958) của Wikihoc.com nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.