Hướng dẫn Soạn Bài 4 sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập một. Nội dung bài Soạn bài Những câu hát than thân sgk Ngữ văn 7 tập 1 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, tự sự, cảm thụ, phân tích, thuyết minh… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 7 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn lớp 7.


Văn bản

Hướng dẫn Soạn bài Những câu hát than thân sgk Ngữ văn 7 tập 1


1. Nội dung

Diễn tả thân phận, cuộc đời của con người lao động trong xã hội cũ, phản kháng tố cáo Xã hội Phong kiến.


2. Nghệ thuật

– Dùng thể thơ lục bát

– Các hình ảnh so sánh, ẩn dụ là các sự vật, con vật gần gũi, nhỏ bé, đáng thương để diễn tả tâm trạng, thân phận con người.

– Từ ngữ mang tính truyền thống ( lên thác xuống ghềnh, thương thay, thân em)

Dưới đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Những câu hát than thân sgk Ngữ văn 7 tập 1. Các bạn cùng tham khảo nhé!


Đọc – Hiểu văn bản

Giaibaisgk.com giới thiệu với các bạn đầy đủ phương pháp, lời hướng dẫn, câu trả lời các câu hỏi có trong phần Đọc – Hiểu văn bản của Bài 4 trong sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập một cho các bạn tham khảo. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


1. Trả lời câu hỏi 1 trang 49 sgk Ngữ văn 7 tập 1

Trong ca dao, người nông dân thời xưa thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời, thân phận của mình. Em hãy sưu tầm một số bài ca dao để chứng minh điều đó và giải thích vì sao?

Trả lời:

– Một số bài ca dao mượn hình ảnh con cò:

– Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

– Cái cò đi đón cơn mưa

Tối tăm mù mịt ai đưa cò về?

Cò về đến gốc cây đề

Giương cung anh bắn cò về làm chi

Cò về thăm bác thăm dì

Thăm cô xứ Bắc, thăm dì xứ Đông.

– Người xưa thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời, thân phận của mình vì con cò là một con vật hiền lành, chăm chỉ, chịu khó kiếm ăn. Những phẩm chất đó gần gũi và quen thuộc với phẩm chất và thân phận của người nông dân.


2. Trả lời câu hỏi 2 trang 49 sgk Ngữ văn 7 tập 1

Ở bài 1, cuộc đời lận đận, vất vả của cò được diễn tả như thế nào? Ngoài nội dung than thân, bài ca dao này còn có nội dung nào khác?

Trả lời:

– Ở bài 1, cuộc đời lận đận, vất vả của con cò được diễn tả bằng những hình ảnh đối lập: một mình cò phải lận đận nước non, lên thác xuống ghềnh, vượt qua biết bao khó khăn, nguy hiểm. Cò mải kiếm ăn nên thân cò gầy mòn và việc vất vả đó không chỉ ngày một ngày hai mà kéo dài.

– Cuộc đời lận đận của cò được diễn tả rất sinh động bằng từ láy “lận đận” và cặp từ đối lập “lên – xuống”, “đầy – cạn”.

– Ngoài nội dung than thân, bài ca còn có nội dung tố cáo xã hội phong kiến bất công. Chính cái xã hội đó mới làm cho thân cò thêm lận đận, gầy mòn.


3. Trả lời câu hỏi 3 trang 49 sgk Ngữ văn 7 tập 1

Em hiểu cụm từ “thương thay” như thế nào? Hãy chỉ ra những ý nghĩa của sự lặp lại cụm từ này trong bài 2?

Trả lời:

– Em hiểu cụm từ “thương thay” là tiếng than biểu hiện sự đồng cảm, thương xót.

– Trong bài 2, “thương thay” được lặp lại 4 lần.

Ý nghĩa của sự lặp lại là: Mỗi lần là một lần thương một con vật, một cảnh ngộ: thương phận con tằm – thương thay lũ kiến – thương thay hạc – thương thay con cuốc. Bốn lần thương thay, bốn con vật khác nhau nhưng lại cùng chung thân phận người lao động. Sự lặp lại ấy tô đậm nỗi xót thương cho cuộc sống khổ sở, vất vả của người lao động.


4. Trả lời câu hỏi 4 trang 49 sgk Ngữ văn 7 tập 1

Phân tích những nỗi thương thân của người lao động qua các hình ảnh ẩn dụ trong bài 2.

Trả lời:

Phân tích những nỗi thương thân của người lao động qua các hình ảnh ẩn dụ trong bài 2:

– Thương con tằm là thương cho thân phận đời bị kẻ khác bòn rút sức lực.

– Thương lũ kiến li ti là thương cho thân phận nhỏ bé suốt đời phải làm lụng kiếm miếng ăn, thấp cổ bé họng, kẻ nào cũng có thể đè nén, áp bức; thương cho những người lao động có thân phận nhỏ nhoi, làm ăn quanh năm suốt tháng mà vẫn nghèo đói.

– Thương cho con hạc là thương cho cuộc đời phiêu bạt, khốn khó, mỏi mệt không có tương lai và những cố gắng vô vọng của những người lao động trong xã hội cũ.

– Thương cho con cuốc là thương cho thân phận nhỏ bé, thấp bé, dù có than thở, kêu la thảm thiết thì cũng không có ai động lòng, thương xót cho những nỗi đau oan trái không được lẽ công bằng nào soi tỏ.


5. Trả lời câu hỏi 5* trang 49 sgk Ngữ văn 7 tập 1

Em hãy sưu tầm một số bài ca dao mở đầu bằng cụm từ “thân em”. Những bài ca dao ấy thường nói về ai, về điều gì, và thường giống nhau như thế nào về nghệ thuật?

Trả lời:

– Một số bài ca dao mở đầu bằng cụm từ “Thân em”:

– Thân em như hạt mưa rào

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

– Thân em như miếng cau khô

Người thanh tham mỏng, kẻ thô tham dày.

⟹ Các bài ca dao này nói về thân phận người phụ nữ chịu nhiều vất vả, gian nan, thiệt thòi trong xã hội cũ.

⟹ Về nghệ thuật, thường mở đầu bằng cụm từ “thân em” gợi ra nỗi buồn thương và sử dụng các hình ảnh so sánh ví von để nói lên những số phận, cảnh đời khác nhau của người phụ nữ.


6. Trả lời câu hỏi 6 trang 49 sgk Ngữ văn 7 tập 1

Bài 3 nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Hình ảnh so sánh ở bài này có gì đặc biệt? Qua đây em thấy cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến như thế nào?

Trả lời:

Như chúng ta đã biết, trái bần là tên của một loại quả đồng âm với từ “bần” để chỉ sự nghèo khó. Hình ảnh trái bần trôi nổi còn bị gió dập, sóng dồi thì không biết sẽ dạt vào đâu. Câu ca dao là lời than của người phụ nữ trong xã hội cũ về cuộc đời nghèo khổ, chịu bao nhiêu sóng gió của cuộc đời và không thể tự quyết định số phận của mình.


Luyện tập

1. Trả lời câu hỏi 1 trang 50 sgk Ngữ văn 7 tập 1

Nêu những đặc điểm chung về nội dung và nghệ thuật của ba bài ca dao.

Trả lời:

– Nội dung:

+ Cả ba bài ca dao đều là những câu hát than thân của con người trong xã hội cũ.

+ Ở mỗi bài văn đều mang tính chất phản kháng.

– Nghệ thuật:

+ Thể thơ 3 bài sử dụng: thể thơ lục bát.

+ Biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ và các câu hỏi tu từ.


2. Câu 2 trang 50 sgk Ngữ văn 7 tập 1

Học thuộc lòng các bài ca dao đã học.


Các bài văn hay

1. Phát biểu cảm nghĩ về Những câu hát than thân

Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất nước… mà còn là tiếng thở than về số phận bất hạnh và những cảnh ngộ khổ cực, đắng cay.

Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

1. Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Ai làm cho bể kia đầy,

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?

2. Thương thay thân phận con tằm,

Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.

Thương thay lũ kiến li ti,

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.

Thương thay hạc lánh đường mây,

Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.

Thương thay con cuốc giữa trời,

Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

3. Thân em như trái bần trôi,

Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thương cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần… ). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay… Thân em như… và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ.

Câu 1: Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy.

Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh có lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nước. Cò gần gũi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò dang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình:

Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm lũi kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao lỗi éo le, ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời.

Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tép, mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu:

Ai làm cho bể kia đầy,

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?!

Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thồng trị trong xã hội cũ luôn muố dồn người bị trị vào bước đường cùng?!

Cao hơn ý nghĩa của một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì sưu cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị.

Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận cuat người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến:

Thương thay thân phận con tằm,

Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.

Thương thay lũ kiến li ti,

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.

Thương thay hạc lánh đường mây,

Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.

Thương thay con cuốc giữa trời,

Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ.

Tham khảo thêm:   Soạn bài Sống chết mặc bay | Ngắn nhất Soạn văn 7

Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khổ.

Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí soi tỏ.

Bốn câu ca dao là bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những niềm thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng coa thêm.

Trong ca dao, người xưa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,… ) bởi nghĩ rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình.

Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiên cho những cảnh ngộ thương tâm gây xúc động thấm thía.

Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để con người lấy tơ dệt thành lụa, lĩnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn ládâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm bé nhỏ lia ăn được là bao?!

Mượn hình ảnh ấy, người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng là mấy. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng như không thể tìm ra lối thoát.

Câu hát: Thương thay hạc lánh đường mây, Chím bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc dĩ giữa người đi xa với những người thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha phương cầu thực, để trốn thuế trốn sưu. Con đường mưu sinh trước mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm.

Người gạt nước mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, như hạc lánh đường mây, như chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ được trở lại cố hương, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?!

Câu hát cuối: Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế mất nước, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng.

Nội dung câu hát này nói đến nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau đớn do áp bức bất công gây ra cũng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cũng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thình không mà nào có ai để ý.

Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương thay… Thương thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thương thân, trách phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.

Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa phương của một vùng sống nước miền Nam.

Tên gọi của trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận người nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mù u, trái sầu riêng thường gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.

Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muốn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.

Tóm lại, cả bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung thân thân trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo đói xưa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, tương lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. Điều đó chỉ chấm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của Đảng soi đường dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thống trị kéo dài bao thế kỉ.

Ngày nay, cuộc sống buồn đau, cơ cực đã lùi vào dĩ vãng. Tuy vậy, mỗi khi đọc những bài ca dao trên, chúng ta lại càng hiểu, càng thương hơn ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đóinghèo trong rơm rạ của một dĩ vãng đen tối đã lùi xa.


2. Cảm nghĩ về Những câu hát than thân

Ca dao than thân là những câu hát ca nỉ non được cất lên từ bao mảnh đời nhỏ bé, bất hạnh, tội nghiệp như người phụ nữ, người nông dân. Những tiếng ca ấy vừa để than thân, trách phận vừa thể hiện tinh thần phản kháng chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định khát vọng tự do, giải phóng thân phận của kiếp lầm than. Trong kho tàng ca dao than thân vô cùng phong phú, ba bài ca dao dưới đây để lại trong tôi nhiều ấn tượng và xúc cảm hơn cả.

1. “Nước non lận đận một mình

…Cho ao kia cạn cho gầy cò con”

2. “Thương thay thân phận con tằm

…Dầu kêu ra máu có người nào nghe”

3. “Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”

Điểm chung giữa ba bài ca dao đó là đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền của dân tộc để thể hiện cảm xúc. Đây là thể thơ giản dị về quy luật, có cách ngắt nhịp, gieo vần đặc biệt nên có khả năng diễn tả mọi cung bậc tình cảm của con người.

Đặc biệt, cả ba bài câu hát đều sử dụng các sự vật, con vật gần gũi, nhỏ bé, đáng thương nữ con cò, con tằm, con kiến, con hạc, trái bần trôi,…làm hình ảnh biểu tượng, ẩn dụ so sánh để diễn tả tâm trạng thân phận con người.

Đồng thời cả ba bài ca dao đều sử dụng những mô típ than thân quen thuộc như “thân cò, thân em, thương thay” để khởi đầu cho mỗi tiếng than. Đó đều là những đặc trưng tiêu biểu trong ca dao than thân Việt Nam.

Bài ca dao đầu tiên là tiếng than ai oán đến tái tê lòng của người phụ nữ nông dân cho bản thân mình và con cái của họ. Đã từ rất lâu, hình ảnh cánh cò lầm lũi, cặm cụi đi ăn đêm trên cánh đồng trở thành nỗi ám ảnh đầy thương tâm trong lòng người.

Trong bài ca dao này, “thân cò” và “cò con” được sử dụng như những biểu tượng ẩn dụ cho số phận người phụ nông dân đáng thương, tôi nghiệp cùng đứa con nhỏ bé của họ. Hai câu đầu, với từ láy “lận đận” kết hợp với thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” đã cho thấy nỗi khổ cực, nhọc nhằn, vất vả của người phụ nữ: “Nước non lận đận một mình/Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay”.

Giữa ruộng đồng mênh mông, hiu quạnh thân cò quanh năm lầm lũi, cặm cụi kiến ăn. Dáng vẻ hao gầy, mệt mỏi của con cò kia cũng giống như cuộc đời lam lũ, khốn khó của người phụ nữ nông dân, một mình bươn trải trước sóng gió cuộc đời. Cụm từ “bấy nay” cho thấy quãng thời gian dài đằng đẵng phải chịu đựng những gian nan, vất vả. Tiếng ca cất lên như một tiếng khóc đầy tủi hờn cho số phận.

Cuộc đời nhọc nhằn còn không cho người phụ nữ nông dân được chút bình yên, những thế lực xấu xa chưa bao giờ buông tha cho họ. Chúng tạo ra muôn vàn cay đắng bắt người nông dân phải chịu đựng. Không biết san sẻ cùng ai, những kiếp lầm than ấy đã gửi gắm trong lời ca dao tiếng kêu ai oán, trách móc đẫm lệ: “Ai làm cho bể kia đầy/Cho ao kia cạn cho gầy cò con”.

Đại từ nhân xưng “ai” cất lên thay cho lời phiếm chỉ tố cáo những thế lực gây ra nỗi thống khổ cho con người. “Bể đầy” “Ao cạn” là những hình ảnh tượng trưng cho điều oan trái, bất công trong cuộc đời. Từ “cho” được điệp lại ba lần trong một tiếng hát giống như những tiếng nấc nghẹn ngào, thống thiết. Đặc biệt, hình ảnh “cò con” xuất hiện ở cuối bài càng làm tăng thêm bi kịch cho câu hát than thân.

Đời mẹ đã khổ đau, nhọc nhằn vất vả nhưng đời con trước sự áp bức bóc lột của thế lực phong kiến càng đau đau thương, hao gầy hơn. Bài ca dao vừa là lời than than, vừa là tiếng nói phản kháng, tố cáo gay gắt tội ác của bọn vua quan thống trị vì sưu cao thuế nặng, vì phu phen nô dịch để lại đã để lại đau khổ cho bao kiếp người.

Tiếng kêu ai oán của người nông dân không bao giờ ngưng khi những bất công oan trái của cuộc đời còn đè nặng lên vai họ. Tiếp nối mạch cảm xúc trong bài cao dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai tiếp tục là tiếng than não nùng về thân phận vất vả, bất hạnh của người nông dân.

“Thương thay thân phận con tằm

…Dầu kêu ra máu có người nào nghe”

Toàn bộ bài ca dao là những ẩn dụ đặc sắc, lấy những hình ảnh của con vật nhỏ bé gắn với đặc tính sinh hoạt của chúng để ẩn dụ cho số phận của người nông dân. Điệp khúc “thương thay” được lặp lại bốn lần trong bài ca dao như khúc dạo đầu cho mạch cảm xúc sầu thương, buồn sầu.

Điệp khúc đầu tiên “Thương thay thân phận con tằm/Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ”, tằm là loài vật nhỏ bé, đáng thương, chăm chỉ cần cù nhả tơ xong những cuộn tơ ấy lại để cho người khác lấy đi và tằm cũng kết thúc vòng đời của mình. Giống như người nông dân làm việc lam lũ, vất vả nhưng công lao không những không được ghi nhận mà thường xuyên bị bòn rút sức lao động.

Cùng chung số phận với kiếp con tằm, lũ kiến nhỏ bé, li ti trong điệp khúc thứ hai “Thương thay lũ kiến li ti/Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi” cũng bôn ba ngược xuôi vất vả kiếm miếng ăn nhưng suốt đời vẫn phải sống trong nghèo khổ.

Cuộc đời của lũ kiến ấy cũng chính là ẩn dụ về cuộc đời của người nông dân. Đến điệp khúc thứ ba “Thương thay hạt lánh đường mây/Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi” là nỗi chua xót đồng cảm về một cuộc đời bôn ba phiêu dạt, vô định không chốn dừng chân.

Đặc biết điệp khúc thứ tư “Thương thay con cuốc giữa trời/Dầu kêu ra máu có người nào nghe”, khiến ta không kìm nổi nước mắt trước hình ảnh con cuốc bơ vơ cô đơn giữa dòng đời, cất tiếng kêu than nhỏ máu, đứt ruột thảm thiết nhưng rồi đổi lại là sự vô vọng, bất lực. Cuộc đời của người nông thấp cổ bé họng cũng vậy, cả đời ôm nỗi oan trái, dằn vặt mà không biết tỏ bày cùng ai.

Biết bao cảnh ngộ, bao số phận đáng thương, tội nghiệp được gợi ra trong bài ca dao than thân ấy. Bài ca dao vừa là là tiếng than đầy tủi hờn, tuyệt vọng vừa là tiếng nói tố cáo những điều bất oan trái, bất công trong xã hội trái bất công trong xã hội khiến người nông phải chịu đựng bao khổ đau.

Không chỉ người nông dân, trong xã hội phong kiến người phụ nữ cũng phải chịu vô vàn bất công, cay đắng. Quan niệm “trọng nam khinh nữ”, truyền thống “tam tòng tứ đức” như chiếc cùm gông vô hình xiết chặt lấy cổ người phụ nữ, bóp chết quyền tự go, quyền hạnh phúc của họ. Bài ca dao thứ ba là tiếng khóc than thân của người phụ nữ nghe mà nhói lòng:

Tham khảo thêm:   Soạn bài Những câu hát châm biếm ngắn gọn

“Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”.

Mô típ “thân em” mở đầu bài ca dao vừa tha thiết, xúc động. Người phụ nữ trực tiếp xuất hiện trong câu ca, lên tiếng để than thân, tiếng “em” vang lên bình dị, khiêm nhường, đậm chất nữ tính. Hình ảnh so sánh ẩn dụ mang sắc thái vùng miền Nam bộ “trái bần trôi”, đó là loai quả nhỏ bé có vị vừa chua vừa chát sống ở ven sông, khi nó chín quả sẽ rụng xuống sông trôi lênh đênh trên mặt nước.

Đặc tính và dòng đời cả trái bần có nét tương đồng với người phụ nữ, cũng chua chát, hẩm hiu, nổi lênh, vô định. Câu hỏi tu từ “gió dập sóng dồi biết tâm vào đâu” vừa là niềm băn khoăn, vừa là nỗi lo sợ trước cuộc đời của người phụ nữ. “Gió dập sóng dồi” tượng trưng cho những phong ba bão táp của cuộc đời, người phụ nữ vốn đã yêu đuối, nhỏ bé làm sao có thể đứng vững trước bao cơn sóng gió ấy.

Bài ca dao vừa là tiếng hát than thân nỉ non cho thân thân nhỏ bé, tội nghiệp của người phụ nữ, sự lo lắng bất an về tương lai vô định, đồng thời là những tiếng trách mọc đầy căm phẫn về xã hôi phong kiến bất công chà đạp lên người phụ nữ.

Như vậy, có thể thấy cả ba bài ca dao đều là những tiếng ca than thân trách phận đầy tủi hờn, xót xa. Đọc những câu ca dao ta không thể cầm lòng xúc động, thương xót cho những số phận ấy. Ta thêm thấu hiểu về cuộc đời cha ông ngày trước đã phải chịu gánh chịu những đắng cay, tủi cực như thế nào để từ đó thêm yêu và trân trọng cuộc sống ngày hôm nay.


3. Em hãy sưu tầm một số bài ca dao mở đầu bằng cụm từ Thân em … Những bài ca dao ấy thường nói về ai, về điều gì và thường giống nhau như thế nào về nghệ thuật?

Ca dao – dân ca phản ánh sinh động đời sống tinh thần phong phú của nhân dân lao động. Họ đã gửi gắm vào đó tiếng nói tâm tình chân thành tha thiết, với đủ mọi cung bậc buồn vui. Nhiều câu ca dao về hình thức và nội dung có những nét giống nhau nhưng mỗi câu lại mang một vẻ đẹp riêng, phù hợp với từng hoàn cảnh và tâm trạng khác nhau.

Ví dụ một loạt câu mở đầu bằng cụm từ Thân em mà nội dung cùng đề cập đến phẩm chất tốt đẹp, cao quý và số phậm hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.

– Thân em như củ ấu gai,

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.

Ai ơi nếm thử mà xem!

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

– Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai,

Đông đào tây liễu, biết ai bạn cùng?

– Thân em như hạt mưa rào,

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

Thân em như hạt mưa sa,

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

– Thân em như giếng giữa đàng,

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

– Thân em như đóa hoa rơi,

Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?!

– Thân em như con hạc đầu đình,

Muốn bay không cất nổi mình mà bay!

Ngậm ngùi, buồn thương, xót xa, cay đắng là cảm xúc chung bao trùm lên những câu ca ấy, khiến nó giống như tiếng thở dài than thân trách phận; tiếng khóc thầm tủi hờn, uất ức của người phụ nữ trước tình cảnh ngang trái, bất công. Trong xã hội phong kiến, họ bị tước đoạt quyền tự do, quyền được sống hạnh phúc và buộc phải phó mặc cuộc đời mình cho sự may rủi ngẫu nhiên của số phận.

Cho dù bên trong cái hình thức xấu xí, đen đủi như củ ấu gai là phẩm chất tốt đẹp vừa ngọt vừa bùi nhưng chắc gì người đời đã nhận ra?! Cho dẫu đẹp đẽ như tấm lụa đào đi chăng nữa thì vẻ đẹp ấy chưa chắc là cơ sở bảo đảm cho hạnh phúc. Giống như những hạt mưa từ trời cao rơi xuống, số phận của mỗi người con gái một khác. May rủi cuộc đời có thể đưa họ đến những cảnh ngộ trái ngược trong cuộc sống.

Có người được trân trọng , có người bị ngược đãi, cũng như nước cùng một giếng mà người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân. Giống như con hạc đầu đình, người phụ nữ bị trói chặt vào số phận hẩm hiu, dẫu có muốn thay đổi cũng chỉ là ao ước mà thôi.

Sáu câu ca dao với những cách so sánh khác nhau nhưng cùng nói lên một thực trạng: quyền sống của người phụ nữ xưa kia, mà trước hết là quyền tự do hoàn toàn bị phủ nhận. Đó chính là nguồn gốc của mọi đau khổ, ngang trái mà họ phải chịu đựng trong suốt cuộc đời.

Sáu câu ca dao là sáu tiếng than thân ngậm ngùi, chua xót. Bởi xét cho cùng, dẫu có tấm lụa đào nào được vào tay khách quý, có hạt mưa sa nào được vào chốn đài các, có nước giếng nào được đêm rửa mặt, thì cũng là nhờ may mắn mà sự may mắn thì thật hiếm hoi.

Trong bao nhiêu tấm lụa đào, bao nhiêu hạt mưa sa, bao nhiêu nước giếng mới có được một số phận sáng tươi?! Cho nên đau khổ vẫn là tình trạng chung phổ biến nhất của người phụ nữ.

Những câu ca dao trên chính là tiếng than thân cất lên từ cuộc đời như thế. Than vãn mà không oán trách, bởi vì biết oán trách ai?!Rốt cuộc, đành cho rằng đó là định mệnh. Cho hay muôn sự tại trời, không thể nào thay đổi được.

Cả sáu câu ca dao hầu như cùng một khân mẫu về nội dung, về kết cấu. Mở đâu bằng thân em, tiếp theo là sự vật được đem so sánh. Còn những câu dưới là mượn tính chất của sự vật ấy để chỉ thân phận người phụ nữ.

Tuy nhiên, trên cơ sở giống nhau về ý nghĩa, mỗi câu ca dao lại khác nhau ở hình ảnh được đem ra so sánh và chính cái đó đã tạo nên sắc thái của từng câu.

Ta sễ lần lượt phân tích từng câu dể thấy cái hay, cái đẹp trong ý nghĩa và hình thức biểu hiện.

Câu 1: Thân em như củ ấu gai …

Người phụ nữ ngày xưa bị ràng buộc bởi lễ giáo khắt khe cũng những hủ tục, định kiến nặng nề của xã hội trọng nam khinh nữ. Quan niện nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: (Một con trai cũng là có, mười con gái cũng là không). Nữ nhân ngoại tộc:(Con gái là người ngoài họ tộc ). Hay: khôn ngoan cũng thể đàn bà, Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông… đã đẩy người phụ nữ vào vị trí thứ yếu trong gia đình và xã hội.

Quan niên sai lệnh ấy ảnh hưởng không ít tới cách suy nghĩ của chị em phụ nữ, tạo ra trong họ một mặc cảm tự ti, tiêu cực. Người phụ nữ nông dân vất vả, lam lũ quanh năm thì so sánh: Thân em như củ ấu gai, Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen. Cai củ gấu gai góc, xấu xí ấy sống dưới bùn sâu, chẳng mấy ai để ý tới, dẫu rằng bên trong nó vừa trắng. vừa ngọt, vừa bùi.

Câu 2: Thân em như tấm lụa đào…

Người phụ nữ xưa tự nhận thức và đánh giá đúng đắn về phẩm chất tốt đẹp của mình và khẳng định điều đó qua ẩn dụ so sánh đầy tính nghệ thuật: Thân em như tấm lụa đào…

Tấm lụa đào đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc bởi được dệt nên từ loại tơ tằm tốt nhất. Lụa nhẹ, mềm và rất mát, mặc vào thì người đẹp hẳn lên. Lụa màu hoa đào vừa đẹp vừa quý nhưng khi đem bán thì cũng phải bày ra giữa chốn “trăm người bán, vạn người mua”, đủ loại người sang kẻ hèn, người thanh kẻ tục, không biết sẽ vào tay ai? Lụa tuy đẹp thật nhưng đã chắc gì có người biết đánh giá đúng giá trị của nó!

Hình ảnh tấm lụa đào gợi lên vẻ thanh xuân mơn mởn, tràn đầy sức sống của một cô gái đương thì, nhưng hình ảnh tấm lụa đào phất phơ giữa chợ lại có một cái gì đó thật trớ trêu, tội nghiệp. Nỗi băn khoăn, lo lắng là rất thực. Quả là hoàn cảnh khách quan chi phối rất nhiều, có khi quyết định số phận của cả một đời người.

Câu 3: Thân em như hạt mưa sa… .

Hình ảnh hạt mưa sa lại gợi lên một sắc thái tình cảm khác. Người phụ nữ cảm thấy thân phận mình quá ư nhỏ bé. Có bao nhiêu hạt mưa từ trời cao rơi xuống trong một cơn mưa?! Mọi hạt mưa đều trong trẻo, mát lành như nhau nhưng chỗ rơi xuống – tức số phận của từng hạt mưa lại không giống nhau. Sự rủi may của hoàn cảnh không thể nào đoán định trước được.

Nó có thể dẫn đến những điều trái ngược hoàn toàn trong cảnh ngộ. Giữa muôn ngàn hạt mưa, một số hạt đã may mắn hơn, không rơi xuống giếng, không vào vườn hoa, không mất hút vào luống cày mà lại rơi vào chốn lầu son gác tía (đài các). Bài ca dao này quả là một bức tranh sinh động về thân phận bấp bênh của người phụ nữ xưa kia.

Nếu không may rơi vào hoàn cảnh trớ trêu, họ chỉ có một cách lựa chọn là cúi đầu chấp nhận. Dân gian đã ví: Thân con gái mười hai bến nước, trong nhờ, đục chịu, bởi vì người phụ nữ đã bị bao điều đè nén, ràng buộc, bị tước đoạt quyền tự do, quyền làm chủ bản thân. Quy định tam tòng: Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu, Phu tử tòng tử không cho họ được sống theo ý mình mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Dẫu biết là vô lí, bất công cũng vẫn phải nhẫn nhục, cam chịu.

Câu 4: Thân em như giếng giữa đàng, Người không rửa mặt, người phàm rửa chân…

Câu này lấy hình ảnh so sánh là cái giếng giữa đàng vốn rất quen thuộc với làng xóm ngày xưa. Vì là giữa đàng nên có nhiều người qua lại và tất nhiên có người khôn (người tốt, người có con mắt tinh đời… ), có người phàm (kẻ tầm thường, bần tiện… ). Cách sử dụng nước giếng hoàn toàn do mục đích, thái độ của từng người. Rửa mặt với rửa chân là hai hình ảnh tương phản thật sinh động và ý vị.

Câu 5: Thân em như đóa hoa rơi, Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?!

Đây là hình ảnh so sánh độc đáo và tinh tế, thể hiện mặc cảm về thân phận bất hạnh, về sự dở dang trong hôn nhân. Thân em không phải đóa hoa xinh tươi còn ở trên cành mà đóa hoa héo úa, tàn phàn đã rụng rơi dưới đất. Trong hoàn cảnh đáng buồn ấy, người phụ nữ chỉ biết bám víu vào một hi vọng mong manh: Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?!

Câu 6: Thân em như con hạc đầu đình, Muốn bay không cất nổi mình mà bay.

Tác giả dân gian đã chọn lựa được một hình ảnh so sánh có khả năng gợi cảm và liên tưởng rất cao. Con hạc đầu đình là một vận dụng để thờ, thường được làm bằng gỗ hay bằng đồng, được đặt ở nơi đền, miếu, đình, chùa… .Nhìn những con hạc ấy rồi ngẫm đến thân phận của mình, người phụ nữ thấy có những nét tương đồng. Con hạc kia dẫu có muốn bay thì cũng không thể cất nổi mình mà bay.

Trong suốt cuộc đời, người phụ nữ phải cắn răng chịu đựng bao đau thương, tủi nhục. Nếu có thở than thì tiếng thở than của họ cũng không thể thấu tới trời xanh. Cái cái vòng luẩn quẩn, nghiệt ngã của số phận trói buộc họ, khó bề thoát khỏi. Dù họ có muốn vùng dậy để cắt đứt, phá bỏ những xiềng xích vô hình ấy thì cũng không dễ dàng gì. Câu ca dao chứa đựng niềm khát khao cháy bỏng và một nỗi bất bình sâu sắc.

Những bài ca dao trên là tiếng nói than thân trách phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc xưa kia. Nhân vật không phải là một cá nhân cụ thể mà là trăm ngàn phụ nữ cùng chung cảnh ngộ, cuộc đời giống như chuỗi bi kịch kéo dài. Với họ, hạnh phúc chỉ là một cái gì đó rất mơ hồ, khó hình dung và càng khó mà đạt được.

Những câu ca dao bày tỏ tâm tình tha thiết, chân thành như trên có sức lay động lòng người rất lớn. Ai cũng có thể cảm nhận được từ đấy một chút cảnh ngộ , một chút tâm sự của mình.

Tham khảo thêm:   Tả cây tre Việt Nam lớp 7

Vậy chúng ta nên cắt nghĩa như thế nào cho hợp lí về sự song song tồn tại của những câu ca dao vừa giống nhau, vừa khác nhau đó?

Trước hết, ca dao được sáng tác bởi nhiều người khác nhau, ở những thời kì khác nhau, trên những vùng đất khác nhau. Gặp cảnh ngộ đắng cay, người nông dân xưa hay liên hệ số phận mình với một hình ảnh tương tự nào đó, thế là một câu ca dao ra đời. Câu ca dao ấy vừa chất chứa tâm tư, vừa mang dấu ấn thực tế cuộc sống của người sáng tác.

Không hẹn mà nên, cái chung của số phận người phụ nữ đã làm cho những câu ca dao gặp nhau ở cùng một nội dung ý nghĩa.

Mặt khác, ngay cả khi trong tâm trí có sẵn một câu ca dao cũ, nhưng trong cảnh ngộ cụ thể, người làm thơ dân gian vẫn muốn nói lên một điều gì đó cho riêng mình. Cho nên mới lần lượt xuất hiện những câu ca dao nội dùng gần giống nhau mà hình thức thì khác đi đôi chút. Đó không đơn giản chỉ là sự lặp lại mà là phát triển và bổ sung thêm cho cái đã có thêm đa dạng, phong phú.

Tuy nghệ thuật có nhiều chỗ giống nhau như ở cách mở đầu, cách ví von, so sánh, ẩn dụ và giống nhau ở cảm xúc chung nhưng mỗi câu ca dao vẫn lấp lánh một vẻ đẹp riêng. Điều đáng nói là chỉ sau vài lần ngâm nga thưởng thức, người đọc sẽ không thể nào quên bởi cái hay, cái đẹp của nó đã thấm vào máu thịt tự lúc nào chẳng rõ.

Chỉ xét riêng sáu câu ca dao có chung cách mở đầu bằng Thân em, chúng ta cũng thấy được ca dao đúng là sản phẩm của tài năng và tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Những câu ca dao ấy giúp ta hiểu được nỗi cay đắng ngậm ngùi mà người phụ nữ Việt Nam ngày xưa đã phải trải qua và thêm thông cảm, đồng tình với khát vọng cất mình mà bay của họ.


4. Câu ca dao nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu? Hình ảnh so sánh ở đây có gì đặc biệt? Qua đây, em thấy cuộc đời người phụ nữ ngày xưa như thế nào?

Câu ca dao trên nằm trong mảng đề tài than thân trách phận mà nhiều câu có cấu trúc khá giống nhau ở cách mở đầu bằng hai chữ đầy xót xa, ngậm ngùi: Thân em…

Trong xã hội phong kiến xưa kia, quan niệm trọng nam kinh nữ đã biến cuộc đời người phụ nữ thành chuỗi bi kịch kéo dài. Biết than cùng ai, biết ngỏ cùng ai? Trời thì cao mà đất thì dày. Thôi thì đành giãi bày qua tiếng hát, lời ru chan chứa nước mắt:

Thân em như trái bần trôi,

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?

Xuất xứ câu ca dao này là ở miền Nam, xứ sở của sông ngòi, kênh rạch. Cây bần thường mọc ở ven bờ. Trái bần non có vị chua chua, chát chát, xát mỏng chấm mắm ăn thay rau. Trái già rụng xuống nước, bập bềnh trôi nổi theo sóng. Ngay cái tên gọi cũng chỉ rõ nó là loại cây tầm thường (bần: nghèo), chẳng có mấy giá trị.

Người phụ nữ chân lấm tay bùn nhìn trái bần trôi mà cám cảnh, thấy mình nào có khác chi?! Trái bần trôi hoàn toàn phụ thuộc vào gió, vào sóng. Gió nhẹ, sóng êm thì từ từm thanh thản, chẳng may gió dập, sóng dồi thì cũng đành cam chịu cảnh ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, biết tấp vào đâu? Vào bờ bến nào để đổi thay số phận?

Không được làm chủ bản thân, người phụ nữ buộc phải lâm vào cảnh: Cũng đành nhắm mắt đưa chân, Mà xem con tạo đưa vần đến đâu. Luật tam tòng khắc nghiệt trói buộc họ, biến họ thành những con người cam chịu định mệnh bất công: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử và thực tế thì người phụ nữ đã bị xã hội khinh rẻ, coi thường. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra mặc cảm tự ti từ bao đời nay ở người phụ nữ.

Có điều gì đó thật xót xa, buồn thảm trong hình ảnh so sánh: Thân em như trái bần trôi . Trái bần trôi dập dềnh theo dòng sông vô định, còn người phụ nữ nghèo thì cũng nổi trôi trong vòng đời vô định. Hiện thực nghiệt ngã, tương lai mở mịt, không một chút vui, không một niềm hi vọng. Câu ca dao với hình tượng gợi cảm và âm điệu ngậm ngùi đã gợi lên số phận hẩm hiu đáng thương của người phụ nữ nghèo khổ trong xã hội phong kiến cũ.

Ta hãy thử hình dung trong tâm tưởng một trưa hè ở đồng bằng Nam Bộ, gió thổi lao xao trong rừng đước, rừng tràm; chợt nghe tiếng ru con vọng ra từ ngôi nhà nhỏ ven sông lẫn với tiếng võng đưa kẽo kẹt: Ầu ơ… Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu? Câu hỏi vừa là nỗi băn khoăn muôn thuở không lời giải đáp, vừa là lời than thân trách phận buồn đến não nề. Nhìn những trái bần nổi chìm theo sóng, ta sẽ thấm thía và rúng động đến tận sâu thẳm tâm hồn trước lời ru rưng rưng nước mắt của những người phụ nữ lao động nghèo khó trong một quá khứ chưa xa.

Bài tham khảo 2:

Xã hội phong kiến bất công như chiếc cùm gông giam cầm cuộc đời và số phận của người phụ nữ, tước đi quyền sống, quyền làm chủ, quyền hạnh phúc của họ. Đau đớn, xót thương tủi phận nhưng không biết tỏ bày cùng ai, người phụ nữ chỉ biết gửi gắm vào những câu ca, lời hát than thân, trách phận.

“Thân em như trái bần trôi,

Gió đạp sóng dồi biết tấp vào đâu?”

Bài ca dao trên là câu hát nỉ non được cất lên từ mảnh đời nhỏ bé, tội nghiệp của người phụ nữ bất hạnh. Với hình ảnh so sánh đặc biệt câu ca đã phản ánh sâu sắc số phận cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bài ca dao mở đầu bằng mô típ quen thuộc “thân em”. Hai tiếng “thân em” thốt lên gợi cảm giác mềm mỏng, yếu đuối, rụt rè, khiêm nhường. Người phụ nữ nhỏ bé đang tự than cho chính số phận mình.

“Thân em” được so sánh với “trái bần trôi”, đây là loại quả dại mọc ở ven sông vùng Nam bộ. Đặc trưng của trái bần mang nhiều nét tương đồng với cuộc đời và thân phận của người phụ nữ. Trái bần có vị vừa chua, vừa chát giống với cuộc đời hẩm hiu, chát chứa, đắng cay của người phụ nữ. Khi già, những trái bần ấy rụng xuống sông ngòi, bập bềnh theo sóng, lênh đênh vô định giống như cuộc đời chìm nổi không phương hướng của những người phụ nữ.

Ngay cả tên gọi của nó đã khiến ta liên tưởng đến sự bần hàn, túng thiếu, khổ sở. Trong ca dao than thân, hơn một lần ta thổn thức chứng kiến người phụ nữ xé lòng đau đớn, đem thân phận của mình gắn với ấy những vật tầm thường, nhỏ nhoi để than, để trách: Thân em như giếng giữa đàng, thân em như quả cau khô, thân em như củ ấu gai,…Hình ảnh so sánh gợi hình đặc sắc ấy đã nói lên thân phận nhỏ bé, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Trái bần tự thân nó đã nhỏ bé, thấp hèn, cũng như số phận của người phụ nữ vốn dĩ đã mong manh, yếu đuối. Rồi sẽ ra sao đây khi những dòng đời nhỏ bé ấy bị xô ngã bởi gió dập, sóng dồn?

“Gió đạp sóng dồn biết tấp vào đâu?”

Câu hỏi từ như một lời than thân trách phận đầy đau đớn, não nề, bất lực của người phụ nữ không được làm chủ cuộc đời của chính mình. Nếu như trái bần nổi lênh, dập dềnh trước bão tố, sóng gió của dòng sông vô định thì người phụ nữ cũng bấp bênh, trôi nổi, mất phương hướng trong cuộc đời của chính mình. Câu hỏi cũng là nỗi băn khoăn từ ngàn đời của người phụ nữ mà không bao giờ có tiếng vọng hồi đáp.

Lễ giáo phong kiến trọng nam khinh nữ, quan niệm Nho giáo tam tòng tứ đức khắc nghiệt đã trói chặt quyền sống và quyền hạnh phúc của người phụ nữ, họ chấp nhận và tuân theo như một định mệnh. Bài ca dao không chỉ là tiếng nói cảm thông, chua xót của nhân dân đối với thân phận nhỏ bé, hẩm hiu, lênh đênh, trôi nổi của người phụ nữ mà còn là lời lên án, tố cáo đanh thép đối với những thế lực tước đoạt quyền sống, quyền tự do, quyền hạnh phúc của con người.

Với hình ảnh so sánh đặc sắc “trái bần trôi” đã khắc họa rõ nét cuộc đời nhỏ bé, tội nghiệp, lênh đênh, vô định của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thân phận của người phụ nữ trở thành mạch nguồn xuyên suốt dòng chảy văn học. Từ ca dao than thân đến văn học trung đại, các tác giả vẫn luôn quan tâm đến thân phận của người phụ nữ như “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du,…


5. Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao Con cò mà đi ăn đêm, Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao. Ông ơi ông vớt tôi nao, Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng. Có xáo thì xáo nước trong Đừng xáo nước đục đâu lòng cò con

Từ bao đời nay, con cò gần gũi, thân thiết với người nông dân đã trở thành hình tượng quen thuộc trong ca dao. Mỗi khi nhắc đến con cò, ta thường liên tưởng đến người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó, tận tụy suốt đời vì chồng con.

Sống trong xã hội phong kiến đầy áp bức bất công, chị em phụ nữ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, trở ngại. Nhưng dù cuộc sống có tối tăm đến đâu, dù gặp phải hoàn cảnh ngang trái đến mức độ nào thì họ vẫn giữ được tâm hồn trong sáng và nếp sống thanh khiết. Điều đó đã được thể hiện một cách kín đáo qua bài ca dao mang tính ẩn dụ sau đây:

Con cò mà đi ăn đêm,

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.

Ông ơi ông vớt tôi nao,

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.

Có xáo thì xáo nước trong

Đừng xáo nước đục đâu lòng cò con.

Thông qua tâm sự của con cò gặp nạn, bài ca dao khẳng định người dân lao động nghèo khổ xưa kia luôn đề cao quan niệm: Thà chết trong còn hơn sống đục.

Lời ca đậm cảm xúc buồn thương kể về thân phận và cảnh ngộ éo le của một con cò mẹ bị lâm nạn khi đi kiếm mồi để nuôi con nhưng lại gợi cho ta liên tưởng tới thân phận của người phụ nữ lao động nghèo khổ, lam lũ:

Con cò mà đi ăn đêm,

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.

Từ hình ảnh cò mẹ lặn lội tìm kiếm miếng ăn cho đàn cò con bé bỏng, nhân dân ta ngầm so sánh với sự tần tảo, đảm đang của người phụ nữ. Trước mắt ta hiện lên hình ảnh những người vợ, người mẹ phải tất tả giữa dòng đời xuôi ngược để lo toan cho cuộc sống gia đình.

Kiếm ăn ban ngày không đủ, cò mẹ phải kiếm ăn cả ban đêm. (Trái với thói quen của họ nhà cò). Vì trời tối, cò phải đậu cành mềm nên lộn cổ xuống ao.

Chi tiết này đã đẩy bi kịch thương tâm trong câu chuyện lên đến đỉnh điểm , gợi cảm xúc xót xa trong lòng người đọc. Có lẽ cò mẹ không chỉ buồn vì cái chết gần kề mà còn buồn vì sự hiểu lầm tai hại tất sẽ xảy ra. Nội dung lời ca giúp chúng ta hiểu và thông cảm với tâm trạng của cò:

Ông ơi ông vớt tôi nao,

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.

Có xáo thì xáo nước trong

Đừng xáo nước đục đâu lòng cò con.

“Ông” ở đây là kẻ giàu có, nắm quyền sinh quyền sát trong xã hội. Lời khẩn cầu của cò mẹ hoàn toàn không phải vì muốn bảo toàn tính mạng mà là muốn giãi bày tấm lòng trong sạch của mình: Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng. Lời thanh minh về sự vô tội cũng là lời thề danh dự. Tôi có lòng nào (nghĩa là nếu tôi có lòng dạ hoặc ý định xấu xa nào) thì ông hãy xáo măng (có nghĩa là ông xử tôi vào tội chết tôi cũng cam lòng).

Rõ ràng, cò mẹ không sợ chết và muốn đem cái chết để chứng minh cho tấm lòng trong sạch, ngay thẳng của mình khi chẳng may sa vào hoàn cảnh trớ trêu. Ước muốn cuối cùng của cò mẹ là:

Có xáo thì xáo nước trong

Đừng xáo nước đục đâu lòng cò con.

Cò van xin đừng xáo nước đục mà thêm tủi thân, tủi phận cho cò. Cò muốn được xáo nước trong. (Lấy ý từ thành ngữ : Chết trong còn hơn sống đục). Cò mẹ không muốn đàn còn phải đau lòng trước cái chết đầy uẩn khúc của mẹ.

Lời van xin thống thiết cho ta thấy bản chất thật thà, đôn hậu của cò mẹ. Đứng trước tình thế cái chết đã kề bên, chợt nghĩa đến đàn con đói khát của mình đang nóng ruột chờ đợi nên cò mẹ cất lời van xin nhưng không phải xin được sống mà là xin được chết trong sạch.

Cò mẹ cảm thấy mình không thể chết trong nhục nhã, không thể để đàn con phải xấu hổ vì mình. Ta có thể hiểu được tâm trạng đau đớn cùng phẩm giá đáng quý của cò mẹ. Điều ấy khiến chúng ta liên tưởng tới những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ lao động, những bà mẹ nghèo suốt đời lam lũ, bần hàn, khôn có gì để lại cho con ngoài tấm lòng trong sạch, thanh cao. Đó chính là gia tài đáng quý nhất để các con luôn tự hào về mẹ, noi gương mẹ mà sống tốt hơn.

Bài ca dao trên đây thể hiện quan niệm sống đúng đắn của nhân dân ta. Đáng yêu sao hình ảnh con cò trong ca dao xưa. Nó gợi lên bóng dáng thân thương của những người vợ, người mẹ vất cả cả đời vì chồng vì con mà không một lời oán thán. Trên đời này, có biết bao người mẹ chấp nhận lặn lội thân cò để cho các con được ăn ngon, mặc đẹp, được học hành… Cò thân mẹ, gian nan, hiểm nguy nào có sá gì.


About The Author